25/03/2018
Chúa Nhật tuần 6 Mùa Chay năm B
Lễ LÁ
(phần III)
Phụng
vụ Lời Chúa: Chúa Nhật Lễ Lá - năm B
CHÚA
NHẬT LỄ LÁ NĂM B
(Is
50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mc 14,1 – 15,47)
NGƯỜI
TÔI TRUNG
“Cha
ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con.
Nhưng
xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36)
I.
CÁC BÀI ĐỌC
1.
Bài đọc 1:
Đứng
trước những chống đối kịch liệt của địch thủ, ngôn sứ Isaia phác họa chân dung
của vị ngôn sứ như là người Tôi Trung, luôn lắng nghe và nói lời Thiên Chúa, đồng
thời can đảm đón nhận mọi điều sỉ nhục vì tin rằng luôn có Chúa bênh đỡ.
Trước
hết, người Tôi Trung là người lắng tai nghe và nói lời Thiên Chúa như một người
môn đệ, nghĩa là lắng nghe cách chăm chú và nói lại cách trung thành. Thật vậy,
là người Tôi Trung của Thiên Chúa, ngôn sứ phải thường xuyên lắng nghe và nói lời
Thiên Chúa, lắng nghe cách thường xuyên (mỗi sáng), và nói những lời an ủi, “biết
lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức”. Lời ngôn sứ là lời phát xuất từ Thiên
Chúa, lời đem lại sự ủi an cho những người mỏi mệt, chán nản, thất vọng. Là người
Tôi Trung, ngôn sứ như trung gian mang lời Thiên Chúa đến cho những ai đang cần
sự ủi an, nâng đỡ (x. Is 50,4-5).
Sau nữa,
người Tôi Trung là người sẵn sàng chấp nhận những thù nghịch, chống đối, vì
trung thành với sứ mạng được giao, với xác tín rằng Thiên Chúa luôn ở bên mà
bênh đỡ. Bị đánh đòn, nhục mạ, khinh bỉ, người Tôi Trung không chống lại, không
tự vệ, không cảm thấy hổ thẹn, vì tin chắc rằng có Đức Chúa là Chúa Thượng phù
trợ nên sẽ không phải thẹn thùng (x. Is 50,6-7). Trong mọi hoàn cảnh khó khăn của
sứ vụ, người Tôi Trung hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa.
2.
Bài đọc 2:
Đoạn
thư thánh Phaolô gởi tín hữu Philípphê là một bài ca tuyệt đẹp, vừa đề cao hành
động tự hạ của người Tôi Trung Giêsu, vừa làm nổi bật hành động của Thiên Chúa
khi tôn vinh danh thánh Giêsu, Đấng Cứu Độ.
Trước
hết, bài ca làm nổi bật hành động của Đức Giêsu Kitô (Pl 2,6-8). Đức Giêsu
Kitô, người Tôi Trung của Thiên Chúa, đã chấp nhận hạ mình đến tận cùng để
thánh ý Chúa nên trọn. Từ vị thế của Thiên Chúa, Người khước từ vinh quang thần
linh và chấp nhận làm người và sống như muôn người trên trần thế. Hơn nữa, Người
còn hạ mình để chấp nhận thân phận của kẻ nô lệ, của người “đến để phục vụ, chứ
không phải để được phục vụ”, tự hạ “vâng lời” cho đến nỗi “sẵn lòng chịu chết”
(Pl 2,8), mà “hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (x. Mt 20,28; Mc
10,45).
Sau nữa,
bài ca còn làm nổi bật hành động của Thiên Chúa (Pl 2,9-11). Vì người Tôi Trung
Giêsu tự hủy mình ra không, nên Thiên Chúa tôn vinh Người và ban cho danh hiệu
“Giêsu”, Đấng Cứu Thế, danh hiệu trổi vượt tất cả. Quả vậy, sự tôn vinh Thiên
Chúa dành cho người Tôi Trung chính là sự thừa nhận và đề cao vai trò “cứu thế”
của Người; điều Người đã thực hiện khi tự hạ, hiến dâng mạng sống “làm giá chuộc
muôn người”. Danh hiệu “Giêsu, Đấng Cứu Thế” thật cao cả đến nỗi mọi tạo vật,
dù trên trời, dưới đất hay trong âm phủ đều cung kính bái thờ và tuyên xưng căn
tính thần linh của Người, rằng Đức Giêsu Kitô chính là Chúa.
3.
Bài Tin Mừng:
Tin Mừng
Máccô khắc họa chân dung Đức Giêsu trong những giờ phút cuối cùng trên trần
gian để hoàn tất kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Như người Tôi Trung của
Thiên Chúa, dù bị đối xử tệ bạc, đau đớn, cô đơn trên thập giá, Đức Giêsu vẫn một
mực trung thành với Thiên Chúa.
Trước
hết, trong những giờ phút cuối cùng, dù bị đối xử cách tàn tệ, bị nhạo báng,
chê cười, bị kết tội cùng với hai tên trộm, bị liệt vào hạng phạm pháp (Mc
15,29-32), nhưng người Tôi Trung Giêsu không thốt ra một lời than vãn, biện hộ,
hay trách móc ai. Trong lúc hoàn toàn đơn độc, những người thân tín nhất, không
ai hiểu được Người; những kẻ tưởng gần gũi, thấu hiểu và chia sẻ với Người lại
bỏ Người mà chạy trốn hết (Mc 14,50); không ai chia sẻ với Người nỗi cô đơn tột
cùng khi phải đối diện với án tử, đến nỗi cảm thấy như thể Người đang bị chính
Thiên Chúa bỏ rơi (Mc 15,34). Mọi người đều lo cho sự an toàn của mình, để lại
một mình Đức Giêsu. Dẫu vậy, người Tôi Trung Giêsu vẫn chỉ muốn làm theo ý Cha
(Mc 14,36), trung tín với Thiên Chúa cho đến hơi thở cuối cùng.
Sau nữa,
sự trung tín của người Tôi Trung đem lại ý nghĩa lớn lao, hoàn tất chương trình
nhiệm mầu của Thiên Chúa. Bức màn trong Đền Thờ, ngăn cách Nơi Thánh và Nơi Cực
Thánh, ngăn cách Thiên Chúa thánh thiện và con người tội lỗi, bị xé ra làm đôi
ngay khi Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá (Mc 15,37-38). Quả vậy, qua cái chết
của người Tôi Trung Giêsu, Thiên Chúa đã chạm đến con người tội lụy và thánh
hóa con người để họ được trở nên con cái Thiên Chúa. Con người được giao hòa và
trở nên con Thiên Chúa nhờ sự trung tín cho đến chết của người Tôi Trung của
Thiên Chúa, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, như lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng:
“Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).
II. GỢI
Ý ÁP DỤNG:
1/
Ngôn sứ Isaia khắc họa hình ảnh người Tôi Trung là người nhạy cảm để lắng nghe,
đón nhận và rao truyền lời Thiên Chúa. Dù gặp khó khăn, thử thách, người Tôi
Trung vẫn kiên vững vì tin rằng luôn có Thiên Chúa ở cùng. Sứ mạng làm ngôn sứ
của người Kitô hữu cũng đòi buộc một thái độ lắng nghe tiếng Chúa và trung
thành rao truyền lời Người. Đứng trước những khó khăn, thách đố của sứ mạng
ngôn sứ, người Kitô hữu không nao núng vì tin rằng luôn có Chúa ở cùng (x. Mt
28,20).
2/
Thư Philípphê ca tụng người Tôi Trung Giêsu, Đấng mang thân phận thần linh,
nhưng lại hạ mình làm người, làm nô lệ, đến nỗi chấp nhận cái chết, nên được
Thiên Chúa tôn vinh là Đấng Cứu Độ mà muôn loài phải bái thờ. Người Tôi Trung
Giêsu thực hiện trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa khi khiêm hạ hủy mình ra không, để
rồi được Thiên Chúa tôn vinh, là mẫu mực cho đời sống Kitô hữu.
3/
Tin Mừng Máccô làm nổi bật sự trung tín cho đến cùng của người Tôi Trung Giêsu.
Dù bị những người thân cận xa lánh, bị người đời nhục mạ, nhạo báng, và cảm thấy
như bị chính Thiên Chúa bỏ rơi, người Tôi Trung Giêsu vẫn trung thành thực hiện
thánh ý Thiên Chúa. Trung tín với Thiên Chúa ngay trong những gian nan, thử
thách; từ bỏ ý riêng và trung thành thực hiện thánh ý của Thiên Chúa là ơn gọi
của mọi Kitô hữu.
III.
LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ tế:
Anh chị em thân mến! Hôm nay phụng vụ tung hô Chúa Kitô khải hoàn vào thành
Giêrusalem, đồng thời mời gọi chúng ta tiến bước theo Người trên con đường thập
giá. Trong tâm tình thờ lạy, ngợi khen và tín thác, chúng ta cùng tha thiết
dâng lời nguyện xin.
1.
Thiên Chúa đã biểu dương sức mạnh trong sự vâng phục và tự hạ của Đức Giêsu.
Chúng ta cùng cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn biết làm sáng
danh Chúa bằng thái độ mau mắn chu toàn thánh ý Người, và khiêm tốn phục vụ tha
nhân.
2.
Người Do Thái tung hô Đức Giêsu là Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Chúng ta cầu
xin cho nhiều người, nhiều dân tộc trên thế giới được ơn nhận biết và qui phục
vương quyền của Thiên Chúa, luôn hướng lên Người như lẽ sống và cùng đích của
cuộc đời.
3. Cuộc
vượt qua của Chúa Kitô đem lại ơn giải thoát toàn diện cho con người. Xin cho
những ai đang đau khổ vì bệnh tật, bạo lực hay bất công xã hội ở khắp nơi, tìm
được niềm an ủi nơi cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa, luôn sống trong hy vọng
và bình an đích thực.
4. Thập
giá là con đường duy nhất và chắc chắn đưa tới vinh quang. Xin Chúa cho mỗi người
trong cộng đoàn chúng ta, biết nỗ lực sống các giá trị Tin Mừng, và can đảm đón
nhận thập giá trong đời sống hằng ngày, để xứng đáng được dự phần vinh quang với
Chúa Kitô.
Chủ tế:
Lạy Thiên Chúa là Cha rất nhân từ, cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu Kitô Con Chúa đã
đổ tràn hồng ân cứu độ cho nhân loại. Xin nhậm lời chúng con cầu nguyện, và
giúp chúng con luôn vững bước theo Người trên con đường thập giá, để xứng đáng
chia sẻ vinh quang phục sinh cùng với Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
www.tgpsaigon.net
SCĐ
CHÚA NHẬT LỄ LÁ. B
CHỦ ĐỀ
:
NGƯỜI
TÔI TỚ CỦA THIÊN CHÚA ĐI VÀO CON ĐƯỜNG
CHỊU NẠN
Sợi
chỉ đỏ :
- Bài
Tin Mừng lúc kiệu lá (Mc 11,1-14) : Đức Giêsu vào thành Giêrusalem trong tư
cách Vua Messia, một vị vua hiền lành khiêm tốn.
- Bài
đọc Cựu Ước (Is 50,4-7) : Người Tôi Tớ của Thiên Chúa sẵn lòng chịu khổ.
- Bài
Thánh Thư (Pl 2,6-11) : Sự tự hạ, tự huỷ của Đức Giêsu.
- Bài
Thương khó (Mc 14,1—15,47) : cuộc chịu nạn chịu chết của Đức Giêsu.
I. DẪN
VÀO THÁNH LỄ
(Như
lời dẫn nhập in trong sách lễ Rôma)
Anh
chị em thân mến. Từ đầu mùa chay chúng ta đã dùng việc hãm mình đền tội và công
việc bác ái chuẩn bị tâm hồn chúng ta, thì hôm nay chúng ta tụ họp để cùng với
toàn thể Hội Thánh khai mạc mầu nhiệm vượt qua của Chúa chúng ta, nghĩa là cuộc
khổ nạn và sự phục sinh của Người. Để thực hiện điều đó, chính Người đã tiến
vào thành Giêrusalem. Bởi vậy, với tất cả lòng tôn kính sùng mộ tưởng nhó đến
việc Người vào thành mang lại ơn cứu độ, chúng ta hãy bước theo Chúa, để nhờ ơn
thánh, chúng ta được tham dự vào thập giá, chúng ta cũng được dự phần vào sự phục
sinh và sự sống.
II. GỢI
Ý SÁM HỐI
(Không
có)
III.
LỜI CHÚA
1.
Bài Tin Mừng lúc kiệu lá : Mc 11,1-10
Việc
Đức Giêsu vào thành Giêrusalem tuy có phần long trọng (dân chúng đón rước, tung
hô…) nhưng không phải là một cuộc biểu dương chính trị, trái lại nhằm cho biết
Đức Giêsu là người như thế nào :
- Đức
Giêsu rất coi trọng việc này, cho nên đích thân Ngài thu xếp từng chi tiết cho
cuộc vào thành (thu xếp trước với chủ lừa, dặn dò kỹ hai môn đệ về đường đi nước
bước và lời ăn tiếng nói).
-
Nhưng mọi sự chuẩn bị đều được tiến hành trong âm thầm kín đáo (những lời đối
đáp giữa môn đệ với chủ lừa giống như trao đổi mật hiệu với nhau).
- Đức
Giêsu chọn cởi lừa chứ không cởi ngựa.
- Lời
chúc tụng của dân chúng có tính cách tôn giáo hơn là chính trị ("Hoan hô Đấng
nhân danh Chúa mà đến", "Hoan hô trên các tầng trời")
Như
thế, Đức Giêsu muốn cho người ta biết Ngài là vua nhưng là một vị vua cứu nhân
độ thế, hiền hòa, khiêm tốn.
2.
Bài đọc Cựu Ước : Is 50,4-7
Đây
là bài ca thư ba về Người Tôi Tớ trong sách Isaia.
- Người
Tôi Tớ nâng đỡ kẻ nhọc nhằn.
- Người
Tôi Tớ luôn thức tỉnh đón nghe và thi hành ý Chúa.
- Người
Tôi Tớ nhẫn nhục chịu đựng những đau khổ hành hạ.
3.
Đáp ca : Tv 21
Tâm
tình của người công chính bị bách hại :
-
Than thở với Chúa về những sự hành hạ mình phải chịu
- Đồng
thời bày tỏ lòng trông cậy vững vàng vào Chúa và vẫn chúc tụng Ngài.
4.
Bài Thánh Thư : Pl 2,6-11
Thánh
Phaolô vẽ 2 con đường của Đức Giêsu :
- Con
đường hạ mình : dù là Con Thiên Chúa, nhưng Đức Giêsu đã tự ý hạ mình đến mức tột
cùng (làm thân tôi đòi, chết, chết trên thập giá)
- Con
đường được tôn vinh : Ngài càng hạ mình thì Thiên Chúa càng nâng Ngài lên cao đến
tột cùng (danh Ngài trổi vượt mọi danh hiệu, mọi loài trên trời, dưới đất và
trong địa ngục đều phải tôn thờ Ngài).
5.
Bài Thương khó : Mc 14,1—15,47
Diễn
tiến cuộc chịu nạn của Đức Giêsu đều giống nhau trong 4 quyển Tin Mừng. Nhưng
Mác cô nhấn mạnh một số ý lớn :
a/ Đức
Giêsu "bị trao nộp" : Động từ này được dùng 9 lần trong bài tường thuật.
Tác nhân trao nộp Đức Giêsu là : Giuđa (nộp Đức Giêsu cho các thượng tế), các
Thượng tế (nộp Đức Giêsu cho Philatô), Philatô (nộp Ngài cho quân lính). Nhưng
đàng sau và chủ động nhất là chính Thiên Chúa đã trao nộp Con mình cho loài người.
Phần Đức Giêsu, Ngài cũng tự trao nộp mình.
Lý do
trao nộp cũng khác nhau : vì tiền (Giuđa), vì lòng ganh ghét (các Thượng tế),
vì mị dân (Philatô), và vì yêu thương (Chúa Cha, Đức Giêsu).
b/ Đức
Giêsu là "Con Thiên Chúa" : Tin Mừng Mc diễn tiến theo sơ đồ từ từ hé
lộ về con người Đức Giêsu : Ngài là người à là Kitô (Messia) à Con Thiên Chúa
(Câu đầu tiên của tác phẩm vạch rõ sơ đồ này. Mc 1,1 : "Tin Mừng Đức Giêsu
Kitô Con Thiên Chúa". Mặc khải cao nhất về Đức Giêsu là tư cách Con Thiên
Chúa của Ngài. Mặc khải này được thốt ra khi Ngài tắt thở : "Viên đại đội
trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói
"Quả thật, người này là Con Thiên Chúa" (15,39).
IV. GỢI
Ý GIẢNG
* 1.
Chúa chọn con lừa
Nhiều
độc giả Tin Mừng rất ngạc nhiên trước những lời căn dặn của Đức Giêsu với hai
môn đệ mà Ngài sai vào thành trước : "Các anh vào làng trước mặt kia. Tới
noi sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cởi bao giờ đang cột sẵn đó. Các anh cởi
dây ra và đem nó về đây. Nếu có ai bảo tại sao các anh làm như vậy thì cứ nói
là Chúa cần đến nó và Người sẽ gởi lại đây ngay" (các câu 2-3). Mọi việc
đã diễn ra đúng lời Chúa dặn. Tưởng như một phép lạ. Thực ra không phải là phép
lạ gì cả, mà là chính Đức Giêsu đã kín đáo thu xếp trước với người thân của
Ngài trong làng : đến ngày đó, tại địa điểm đó, họ hãy để sẵn hai con lừa, sẽ
có hai môn đệ của Ngài đến dắt đi, mật khẩu để nhận ra nhau là một câu hỏi và một
câu trả lời đã quy ước sẵn.
Tại
sao Đức Giêsu phải đích thân thu xếp các chi tiết cho chuyến vào thành
Giêrusalem lần này ? Thưa có hai lý do :
1/ Sự
việc diễn ra "mấy ngày trước lễ Vượt Qua" (c 1). Lễ này kỷ niệm việc
dân do thái được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, cho nên mỗi lần mừng lễ này,
ý tưởng giải phóng luôn hiện lên trong đầu dân chúng, nhất là khi đất nước đang
nằm dưới ách thống trị của ngoại bang. Chính vì thế, viên Tổng trấn Rôma bình
thường vẫn an tâm ở tổng hành dinh của ông tại Syria, nhưng gần đến lễ Vượt Qua
thì phải đến Giêrusalem để có thể trực tiếp chỉ đạo nếu có xảy ra nổi loạn.
Trong bầu khí nhạy cảm đó, Đức Giêsu phải kín đáo thu xếp để đừng ai biết trước
chuyến vào thành của Ngài.
2/ Mọi
chi tiết mà Đức Giêsu đích thân thu xếp đều liên hệ đến con lừa. Tại sao ? Vì
Ngài không muốn người ta hiểu lầm Ngài là một nhà giải phóng quân sự hay chính
trị. Ngài muốn người ta hiểu rằng Ngài là một vị vua hòa bình, hiền từ và khiêm
tốn. Vua chinh chiến thì cỡi ngựa, còn vua hòa bình thì cỡi lừa.
Tuy
nhiên xem ra không ai hiểu đúng ý Chúa : các môn đệ "lấy áo choàng của
mình trải lên lưng nó", dân chúng thì cũng "chặt nhành chặt lá ngoài
đồng mà rải. Người đi trước kẻ theo sau reo hò vang dậy" (các câu 7-9). Sự
hồ hỡi của họ có lẽ xuất phát từ ý tưởng giải phóng : Hôm nay ngày giải phóng
đã đến rồi, vị Anh hùng đã xuất hiện ! Tóm lại mọi người đều nghĩ rằng hôm nay
Đức Giêsu bắt đầu cuộc khởi nghĩa.
*
Chúa
nhật Lễ Lá hôm nay bắt đầu Tuần Thánh. Chúng ta có thể dùng đoạn Tin Mừng này để
soi sáng ý nghĩa những sự việc sẽ xảy ra trong Tuần Thánh :
- Tại
sao các Thượng Tế do thái tìm bắt Đức Giêsu ? Thưa vì họ tưởng rằng Ngài là một
chính khách nguy hiểm. Tin Mừng thứ tư ghi nhận rằng ngay cả trước biến cố này,
các vị lãnh đạo ấy đã tính đến khả năng sức thu hút quần chúng của Đức Giêsu sẽ
dẫn đến sự đàn áp của quân Rôma : "Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi
người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn
dân tộc ta" (Ga 11,48).
- Tại
sao Giuđa nộp Đức Giêsu cho các Thượng Tế ? Nhiều chuyên gia Thánh Kinh cho rằng
đó là do một tính toán chính trị : Hắn vẫn nghĩ Đức Giêsu là một người có khả
năng làm một cuộc đảo chánh. Nhưng Giuđa chờ mãi mà không thấy Đức Giêsu làm gì
nên hắn nộp Đức Giêsu như dồn Ngài vào chân tường : hy vọng khi đã bị bắt thì Đức
Giêsu bó buộc phải ra tay hành động.
- Tại
sao dân chúng hùa theo các Thượng Tế đòi giết Đức Giêsu ? Đó là phản ứng thất vọng
của những người đã từng hy vọng quá nhiều : Họ hy vọng Đức Giêsu giải phóng đất
nước nhưng khi Ngài không làm vậy thì họ thất vọng và trừng trị Ngài.
*
Hôm
nay chúng ta cũng tay cầm lá, miệng tung hô Đức Giêsu. Nhưng chúng ta coi Ngài
là ai và mong gì nơi Ngài ?
. Nếu
chúng ta coi Đức Giêsu là một vị vua uy quyền, chúng ta sẽ như các lãnh tụ do
thái tìm cách trừ khử Ngài khi cảm thấy uy quyền ấy đe dọa đến quyền tự do của
chúng ta.
. Nếu
chúng ta coi Ngài là một vị vua giúp chúng ta chiến thắng thù địch, chúng ta sẽ
như quần chúng hôm ấy chán bỏ Ngài khi Ngài không giúp chúng ta đạt được mục
đích ấy.
. Nếu
chúng ta coi Ngài là một thứ ô dù cho chúng ta núp bóng, chúng ta sẽ như các
môn đệ bỏ Ngài mà chạy trốn khi ước vọng của chúng ta không thành.
Đức
Giêsu là một vị vua hòa bình, hiền từ và khiêm tốn. Đi theo Ngài có lẽ chúng ta
sẽ không được hưởng đặc quyền đặc lợi, nhưng tâm hồn chúng ta sẽ luôn được bình
an.
* 2.
Con đường dẫn đến vinh quang
Trong
bài Thánh Thư, Thánh Phaolô ngầm so sánh Ađam và Đức Giêsu.
-
Ađam đã muốn "dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa". Nhưng kết quả
chỉ là thấy mình trần truồng xấu hổ và bị đuổi khỏi hạnh phúc địa đàng.
- Còn
Đức Giêsu thì vâng lời Thiên Chúa mà hạ mình xuống đến mức tột cùng. Kết quả là
được nâng lên tới mức tột cùng.
Tự
nhiên, chúng ta theo con đường của Ađam : tìm cách khẳng định mình, tưởng rằng
làm thế thì giá trị của mình sẽ được nâng cao. Nhưng chúng ta quên rằng chúng
ta là do Thiên Chúa tạo dựng, vì thế chúng ta có giá trị hay không, được nâng
cao hay không là do Thiên Chúa chứ không do chúng ta. Con đường tốt nhất là
vâng lời Thiên Chúa, đi theo sự chỉ dẫn của Ngài, rồi Ngài sẽ nâng chúng ta lên
đúng theo ý Ngài muốn.
* 3.
Trao nộp Đức Giêsu
Bài
Tin Mừng theo thánh Mác cô cho thấy mọi người đều trao nộp Đức Giêsu, nhưng vì
những động cơ khác nhau (xin xem lại phần giải thích phía trên).
Suy
nghĩ thêm, ta còn thấy có những cách trao khác nhau :
-
Trao cái này để đổi lấy cái kia (như Giuđa, Philatô) : cách trao vụ lợi
-
Trao cho người khác cái mình muốn bỏ (các Thượng tế) : cách trao ác độc.
-
Trao cho người khác cái mình rất quý (Chúa Cha) : cách trao yêu thương.
-
Trao chính mình (Đức Giêsu) : yêu thương tột cùng.
Chúng
ta hãy suy gẫm về những cách trao của mình và về cách mình trao Đức Giêsu cho
người khác.
* 4.
Cách chịu đau khổ là thước đo nhân phẩm
Một
điều hiển nhiên là cuộc đời ngập tràn đau khổ. Giáo lý đạo Phật dạy "Đời
là bể khổ". Nhiều người đã tìm nhiều cách để tránh khổ và diệt khổ. Nhưng
có lẽ cái khổ sẽ không bao giờ tránh hết và diệt hết được.
Đức
Giêsu không tránh khổ, không diệt khổ. Ngài "vác" lấy đau khổ (thập
giá), và Ngài dạy môn đệ mình "Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà
theo".
Nino
Salveneschi có suy nghĩ này : "Thật lạ khi người ta có thể tính toán chính
xác về sức nặng có thể chất lên một chiếc xe, một chiếc tàu hay một chiếc máy
bay… nhưng không tính nổi sức nặng có thể chất lên vai con người. Xét cho cùng,
càng có thể vác nặng bao nhiêu thì càng có giá trị bấy nhiêu" (Savoir
souffrir)
* 5.
Phêrô chối Thầy
Việc
ông Phêrô chối Thầy gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ :
- Ông
là người nhiệt tình nhất với Đức Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Chúa. Nghĩa
là bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Hơn nữa, Phêrô sa ngã
vì ông không biết ông yếu, ông luôn tưởng mình mạnh.
- Lý
do khiến Phêrô chối Chúa là vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông
không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Đức Giêsu thì chắc Phêrô
vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Đức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng
Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo với Thượng tế rồi Thượng Tế cũng bắt ông
luôn.
Phêrô
đã dám theo Đức Giêsu suốt 3 năm khi Ngài đi rao giảng, khi Ngài làm phép lạ…
Trong thời gian đó không phải là Phêrô không cực khổ, nhưng ông có thể chịu được.
Nhưng hôm nay ông chối vì chuyện hôm nay không chỉ là vấn đề cực khổ, mà là vấn
đề an toàn của sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ từ bỏ và hy
sinh đến một giới hạn nào đó thôi.
Có lẽ
cũng có những giới hạn mà chúng ta đặt ra - tuy một cách vô ý thức – cho việc
chúng ta theo Chúa, việc chúng ta từ bỏ, việc chúng ta hy sinh.
* 6.
Vương quốc Tình yêu
Ngày
15-4-1996, linh mục George Parker, giám quản xứ thánh Giuse thuộc giáo phận
Norwich ở Connecticut Hoa Kỳ, đã trả lại số tiền 5.000 đôla của nghị sĩ
Christopher J.Dodd giúp cho trường học của giáo xứ. Cha Parker làm thế để phản
đối nghị sĩ Dodd mang danh Công giáo, nhưng lại liên tục bỏ phiếu ủng hộ các dự
luật phá thai. Cha Parker gọi số tiền của Dodd là "số tiền vấy máu hài nhi
vô tội". Người không ngần ngại gọi Dodd là "môn đệ của thần chết".
Việc
làm của cha khiến nhiều người cảm kích, dân chúng đã gởi về giúp trường học
61.000 đôla. Nhiều tổ chức bênh vực sự sống, và nhiều cơ quan truyền thông bày
tỏ sự ngưỡng mộ ngài.
Trớ
trêu thay không một linh mục nào trong giáo phận Norwich bênh vực hành động
kiên cường ấy. Không ai dám công khai phê phán việc làm của nghị sĩ Dodd. Đau đớn
hơn nữa, chính đức cha Daniel A. Hart vì áp lực của nghị sĩ Dodd đã cho ngài
ngưng việc coi xứ. Đến nước này ngài chỉ biết xin về hưu. Đức Cha Hart viết thư
cho ngài như sau : "Tôi rất tiếc là cha đã xin về hưu với tâm trạng bị xử
bất công. Tôi cầu nguyện cho sự đau khổ này sẽ kết hợp cha với Đức Kitô một
cách trọn vẹn hơn, nhờ Người mà cha tìm được niềm vui".
*
Câu
chuyện trên đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ tâm trạng của Đức Giêsu trong bài Tin
mừng hôm nay. Thánh Gioan viết : "Sắp đến lễ Vượt Qua, rất nhiều người đi
Giêrusalem… Họ đang tìm Đức Giêsu và hỏi han nhau : "Chắc ông ấy chẳng đến
dự lễ đâu !" Còn bọn tư tế và Biệt phái đã ra lệnh : Bất cứ ai biết ông ấy
ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt" (Ga.11,55-57). Vậy Đức Giêsu vào thành
Giêrusalem với tâm trạng của một kẻ bị truy nã, một kẻ có tên trong sổ bìa đen.
Nhưng
Người vẫn công khai vào thành, không một chút sợ hãi. Người cỡi trên lưng lừa
con để thực hiện lời tiên tri Dacaria : "Này Vua ngươi đến, đầy vẻ dịu
dàng, cỡi lừa, lừa con của lừa mẹ" (Dcr.9,9). Đức Giêsu muốn chứng tỏ Người
là Đấng Mêsia, Vị cứu tinh, Vua hiền từ : Một Vị vua chiến thắng bằng cái chết
trên thập giá, khác với chiến thắng bằng vũ lực của các vua trần thế ngồi trên
lưng ngựa.
Dân
chúng trải áo, lấy lá lót đường, hoan hô chúc tụng Người như một vị vua chiến
thắng, Đấng cứu tinh của dân tộc, đuổi lũ quân Rôma ra khỏi vùng Palestina, xô
nhào chúng ra biển, tái lập vương quyền vua Đavít. Trái lại, Đức Giêsu đã cưỡi
con vật hiền lành, tiến vào Giêrusalem, hành động này đã đi ngược lại quan niệm
của họ, nên không lạ gì họ đã hùa theo nhóm Biệt phái, kết án tử hình cho Người
chỉ vài ngày sau đó.
Cha
Parker đã không chấp nhận thỏa hiệp với thế gian, với tội lỗi. Người đã giữ
đúng vai trò tiên tri, chấp nhận lội ngược dòng, cho dù phải chịu khổ đau và bị
bỏ rơi để nên giống Thầy Giêsu.
Đức
Giêsu không xua quân đi giao chiến với các dân tộc. Nhưng đã qui tụ mọi người
chiến đấu với nghèo đói, bất công và thù hận.
Đức
Giêsu không đến để kết án và hủy diệt kẻ khác. Nhưng đã thứ tha và băng bó những
vết thương tâm hồn.
Đức
Giêsu không ngồi trên ngai vàng để dân chúng hầu hạ. Nhưng đã quì xuống rửa
chân cho các thần dân.
Đức
Giêsu không đến để thiết lập một vương quốc trần gian tạm bợ, Người đến để xây
dựng một vương quốc vĩnh hằng, vương quốc tình yêu ngay trong lòng mọi người.
*
Lạy
Chúa, người đời đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, để rồi lại kết án Chúa ngay
trong thành thánh. Xin cho chúng con đừng bao giờ thỏa hiệp với thế gian, nhưng
cho chúng con can đảm theo Chúa đến chiều thứ Sáu Tuần Thánh, để được sống lại
với Chúa trong đêm Phục Sinh khải hoàn. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã
yêu")
V. LỜI
NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế
: Anh chị em thân mến, hôm nay bước vào Tuần Thánh, Hội thánh mời gọi các Kitô
hữu bước theo Đức Giêsu trên đường thập giá, để được phục sinh với Người trong
cuộc sống mới. Chúng ta hãy tha thiết nguyện xin :
1. Đức
Giêsu đã khải hoàn vào thành Giêrusalem không phải để biểu dương uy quyền / mà
là để bày tỏ lòng yêu thương và nhân lành / Xin cho các vị chủ chăn trong Hội
thánh / biết noi gương Người để phục vụ mọi người trong khiêm tốn và hiền lành.
2. Đức
Giêsu đã đến trần gian không phải để thống trị / nhưng để phục vụ mọi người /
Xin cho các vị có chức quyền trong xã hội / biết lo cho công ích và quan tâm
giúp đỡ mọi người.
3. Đức
Giêsu đã phục vụ mọi người cho đến chết và chết trên thập giá / Xin cho tất cả
những ai đang phải đau khổ trong tâm hồn hay thể xác / vì đã phục vụ mọi người
/ được luôn can đảm và vững tin nơi tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
4. Đức
Giêsu đã chịu chết và sống lại để đem hạnh phúc thật cho mọi người / Xin cho mọi
người trong họ đạo chúng ta đừng bao giờ trở nên gánh nặng và thập giá cho anh
chị em mình.
Chủ tế : Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Đức Giêsu Con
Chúa phải đi qua đường thập giá mới vào được vinh quang. Xin cho mỗi người
chúng con luôn noi theo đường lối của Người, để làm vinh danh Chúa. Chúng con cầu
xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
LM.
Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật Lễ Lá (B)
Chủ Nhật 25 Tháng Ba, 2018
Bài Thương Khó và cuộc Khổ Nạn của Chúa
Giêsu theo thánh Máccô
Thất bại cuối cùng như một lời mời gọi mới
Mc 14:1-16:8
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí
Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các
môn đệ trên đường Emmau. Trong ánh sáng
của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra
được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của
Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là
sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống
lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng
để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh,
trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất
là những người nghèo khó và đau khổ.
Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để giống như hai môn đệ từ
Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng
cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch
của tình anh em, công lý và hòa bình.
Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải
cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con. Amen.
2.
Cuộc Thương Khó và Khổ Nạn của Chúa Giêsu theo thánh Máccô
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Nói chung, khi chúng ta đọc bài thương
khó và cuộc khổ nạn, chúng ta nhìn vào Chúa Giêsu và sự đau khổ mà Người phải
gánh chịu. Nhưng điều ấy thật là giá trị, ít ra là một lần, nếu chúng ta cũng
nhìn vào các môn đệ và thấy họ đã phản ứng với cây thập giá ra sao và cây thập
giá đã ảnh hưởng đến đời sống của họ như thế nào, bởi vì cây thập giá là thước
đo cho sự so sánh!
Thánh sử Máccô viết cho các cộng đoàn
vào những năm của thập niên 70. Nhiều người trong số các cộng đoàn này, cho dù ở
Ý hay ở Syria, đang trải qua cuộc thương khó của chính họ. Họ đã phải đối mặt với
cây thập giá theo nhiều cách. Họ đã bị bách hại trong triều đại hoàng đế Nêrô
vào những năm 60 và nhiều người đã chết vì bị dã thú phanh thây ăn thịt. Những
người khác thì đã phản bội, đã từ chối hoặc chối bỏ đức tin của họ vào Chúa
Giêsu, giống như Phêrô, Giuđa và các môn đệ khác. Nhiều người đã tự hỏi: “Liệu
tôi có thể chịu nổi sự đàn áp không?” Còn những kẻ khác đã mệt mỏi sau khi kiên
trì trải qua nhiều lần bị xét xử mà không có kết quả. Trong số những người đã từ
bỏ đức tin của họ, có người tự hỏi có thể nào họ tái gia nhập cộng đoàn được
không. Họ muốn bắt đầu lại cuộc hành trình của họ lần nữa, nhưng không biết có
thể tham gia lại được không. Một cành cây bị cắt đi mà không có rễ! Tất cả họ đều
cần lý do mới và vững chắc để tái khởi động cuộc hành trình của họ. Họ cần một
kinh nghiệm đổi mới về tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu đã vượt qua những lỗi
lầm phàm nhân của họ. Họ có thể tìm thấy điều này ở đâu?
Đối với họ, cũng như đối với chúng ta,
câu trả lời ở trong các chương 14 đến 16 của Tin Mừng Máccô, trong đó kể lại cuộc
thương khó, khổ nạn và sự phục sinh của Chúa Giêsu, thời gian của sự thất bại lớn
nhất của các môn đệ, và trong ẩn cách, chính là niềm hy vọng lớn nhất của họ.
Chúng ta hãy nhìn vào tấm gương của những chương này để thấy các môn đệ đã phản
ứng với cây Thập Giá như thế nào và Chúa Giêsu phản ứng với sự bội phản và nhu
nhược của các môn đệ ra sao. Chúng ta hãy cố gắng khám phá ra bằng cách nào mà
Máccô đã khuyến khích đức tin của cộng đoàn và cách ông mô tả ai là người môn đệ
thực sự của Chúa Giêsu.
b) Nhìn vào tấm gương cuộc Thương Khó để
biết cách làm một môn đệ trung thành
* Mc 14:1-9: Lời giới thiệu về câu chuyện
cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Chúa Giêsu
1 Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ
ăn Bánh Không Men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. 2 Họ bảo
nhau rằng: “Đừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân”. 3 Khi Chúa
đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ
mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Đập vỡ bình, bà đổ dầu thơm
trên đầu Người. 4Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm
như vậy? 5 Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo
khó. Và họ nặng lời với bà đó. 6 Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Hãy để mặc bà, sao các
ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. 7 Vì bao giờ các
ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc
nào tùy ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. 8 Làm được gì thì bà
đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. 9 Ta bảo thật các ông:
Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại
việc bà mới làm để nhớ bà”.
Mc 14:1-2: Mưu kế chống lại Chúa Giêsu.
Khi kết thúc hoạt động rao giảng của
mình, Chúa Giêsu đi đến Giêrusalem và đang được chờ đợi bởi các kẻ nắm giữ quyền
lực trong tay: các Thượng Tế, Kỳ Lão, Kinh Sư, Biệt Phái, Sađốc, người phái
Hêrôđê và người La Mã. Họ kiểm soát tình hình… họ sẽ không để cho Chúa Giêsu, một
nông dân thợ mộc từ trong miền quê Galilêa, gây rối loạn. Họ đã quyết định tìm
cách giết Đức Giêsu (Mc 11:18; 12:12). Chúa Giêsu đã là người bị lên án. Giờ
đây sẽ diễn ra điều mà chính Người đã báo trước với các môn đệ: “Con Người đã
được định trước là sẽ bị xử tử” (xem Mc 8:31; 9:31; 10:33). Đây là bối cảnh cho
câu chuyện về cuộc thương khó theo sau.
Câu chuyện cuộc thương khó sẽ cho thấy rằng
người môn đệ thực sự chấp nhận đi theo Chúa Giêsu, Đấng Mêssia Tôi Tớ, và chấp
nhận cống hiến cuộc đời mình cho sự phục vụ các anh chị em của họ, phải vác thập
giá mình mà theo Đức Giêsu. Nếu câu chuyện cuộc thương khó nhấn mạnh đến sự thất
bại và tiêu tan hy vọng, điều này không phải là để làm ngã lòng các độc giả.
Trái lại, nó được dùng để nhấn mạnh rằng việc mở rộng vòng tay và lòng yêu
thương của Chúa Giêsu thì mạnh mẽ hơn sự thất bại và tiêu tan hy vọng của các
môn đệ!
Mc 14:3-9: Người môn đệ trung thành.
Một người phụ nữ mà tên của bà không thấy
nhắc đến, xức cho Chúa Giêsu với bình dầu thơm nguyên chất đắt tiền (Mc 14:3).
Các môn đệ chỉ trích cử chỉ này. Họ cho rằng đó là một việc phí phạm (Mc
14:4-5). Nhưng Chúa Giêsu đã biện hộ cho bà: “Tại sao các ông lại làm cực lòng
bà ấy? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt… bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác
Ta trước” (Mc 14:6-8). Vào thời đó, những ai chết vì bị đóng đinh thì không được
chôn cũng không được tẩm liệm. Biết được điều này, người phụ nữ đã dự đoán và xức
dầu tẩm liệm cho Chúa Giêsu trước khi có bản án tử hình và việc đóng đinh của
Người. Cử chỉ này cho thấy rằng bà đã chấp nhận Đức Giêsu là Đấng Mêssia Tôi Tớ,
Đấng sẽ chết trên cây thập giá. Chúa Giêsu hiểu được cử chỉ của người phụ nữ và
tán thành điều này. Trước đó, Phêrô đã bác bỏ ý kiến về một Đấng Cứu Thế Bị
Đóng Đinh (Mc 8:32). Người phụ nữ vô danh này là người môn đệ trung thành, một
khuôn mẫu cho các môn đệ của Người là những người đã không hiểu gì. Đây là một
mẫu mực cho tất cả mọi người, “khắp cùng cõi trái đất” (Mc 14:9).
* Mc 14:10-31: Thái độ của các môn đệ về
cây Thập Giá
10 Khi ấy, Giuđa Iscariốt, một trong
nhóm Mười Hai, đến tìm các thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ. 11 Nghe vậy,
họ mừng rỡ và họ liền hứa cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người. 12Ngày thứ
nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng Lễ Vượt Qua, các
môn đệ thưa Người: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại
đâu?” 13 Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: “Các con hãy vào thành, và nếu
gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. 14 Hễ người ấy vào nhà nào
thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ
ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu? 15 Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn
phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó”. 16 Hai
môn đệ ra đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo, và hai ông dọn Lễ Vượt
Qua.
17 Chiều đến, Người cùng Mười Hai môn đệ
tới. 18 Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa Giêsu nói: “Ta bảo thật các
con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta”. 19 Các ông đều buồn rầu và
lần lượt từng người thưa Ngài: “Thưa Thầy, có phải con không?” 20 Người đáp:
“Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. 21 Con Người phải ra đi
như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì
hơn”. 22 Đang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và
trao cho các ông mà phán: “Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta”. 23 Rồi Người cầm
lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. 24 Và Người bảo các
ông: “Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. 25 Ta bảo thật các
con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới
trong nước Thiên Chúa”. 26 Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu.
27 Chúa Giêsu bảo các ông: “Đêm nay, tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có
lời chép rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác.
28 Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ
đến xứ Galilêa trước các con”. 29 Phêrô thưa Người: “Dù tất cả vấp phạm vì Thầy,
nhưng con thì không”. 30 Chúa Giêsu bảo ông: “Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội
đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần”. 31 Nhưng Phêrô
càng lên giọng cương quyết hơn mà rằng: “Không, dầu phải chết với Thầy, con
cũng sẽ không chối Thầy”. Và tất cả đều nói như vậy.
Mc 14:10-11: Giuđa quyết định phản bội Chúa Giêsu.
Trong sự tương phản hoàn toàn đối với
người phụ nữ, Giuđa, một trong Nhóm Mười Hai môn đệ, quyết định phản bội Chúa
Giêsu và âm mưu với kẻ thù là những kẻ hứa hẹn cho anh ta tiền. Giuđa đã tiếp tục
sống với Chúa Giêsu, với mục tiêu duy nhất là tìm cơ hội để nộp Người. Khi
Máccô đang viết quyển Tin Mừng của ông, có các môn đệ đang trông chờ lúc chính
đáng để rời khỏi cộng đoàn vì đó là nguyên do mà họ bị đàn áp. Hoặc có lẽ, họ
đang trông chờ thời cơ thuận lợi để giao nộp các bạn đồng hành của họ. Và chúng
ta ngày nay thì sao?
Mc 14:12-16: Việc chuẩn bị mừng Lễ Vượt Qua.
Chúa Giêsu biết rằng Người sẽ bị phản bội.
Tuy nhiên, bất chấp sự phản bội bởi một người bạn, Chúa vẫn tổ chức bữa tiệc mừng
Lễ Vượt Qua trong tình huynh đệ với các môn đệ của Người. Có lẽ Chúa đã phải
chi rất nhiều tiền cho phòng tiệc, “một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng” (Mc
14:15), bởi vì đây là buổi tối trước Lễ Vượt Qua. Thành phố đã chật ních những
người bởi vì ngày lễ hội. Khó mà tìm và đặt được một chỗ để ăn mừng.
Mc 14:17-21: Lời loan báo về sự phản bội của Giuđa.
Tụ họp với nhau lần cuối, Chúa Giêsu
loan báo rằng một trong các môn đệ sẽ phản bội Người: “một trong các con đang
ăn cùng ta!” (Mc 14:18). Cách nói này của Máccô nhấn mạnh sự tương phản. Đối với
người Do Thái, cùng nhau ăn uống, ngồi chung bàn, là biểu hiện của sự thân mật
và tin tưởng nhất. Vì thế, trong ba dòng, Máccô đã chuyển tải sứ điệp sau đây đến
độc giả của mình: sự phản bội sẽ xảy ra do bàn tay của người bạn thân, nhưng
tình yêu của Đức Giêsu thì cao cả hơn so với sự phản bội!
Mc 14:22-25: Bí Tích Thánh Thể, việc cử hành Tiệc Lễ Vượt Qua.
Đang lúc tiệc mừng, Chúa Giêsu chia sẻ
điều gì đó. Người chia sẻ bánh và rượu, một biểu lộ của sự cho đi chính bản
thân Người và mời gọi các bằng hữu hãy nhận lấy mình và máu của Người. Tác giả
Tin Mừng đã đặt cử chỉ cho đi này (Mc 14:22-25) ở giữa lời loan báo về sự phản
bội (Mc 14:17-21) và việc bỏ chạy và phủ nhận (Mc 14:26-31). Vì vậy, ông nhấn mạnh
sự tương phản giữa cử chỉ của Chúa Giêsu và của các môn đệ, ông nói lên cộng
đoàn của ông thời ấy và cho tất cả chúng ta thấy tình yêu bao la của Đức Giêsu
vượt qua khỏi sự phản bội, chối từ và tháo chạy của bạn bè của Người.
Mc 14:26-28: Lời loan báo về sự chạy trốn của tất cả mọi người.
Sau bữa ăn tối, đang khi Người cùng với
các môn đệ đi lên núi Cây Dầu, Chúa Giêsu loan báo rằng các ông sẽ bỏ rơi Người.
Họ sẽ bỏ chạy và tan tác! Nhưng ngay sau đó Chúa nói: “Sau khi Thầy sống lại,
Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con!” (Mc 14:28) Các ông lìa bỏ Chúa, nhưng Đức
Giêsu không lìa bỏ họ. Người tiếp tục chờ đợi các ông tại cùng một chỗ, trong xứ
Galilêa, nơi mà ba năm trước đây lần đầu tiên Người đã gọi các ông. Điều chắc
chắn về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong đời sống người môn đệ thì vững chắc
hơn là sự từ bỏ hoặc tháo chạy! Người ta luôn luôn có thể quay trở lại.
Mc 14:29-31: Lời loan báo về việc chối Thầy của Phêrô.
Ông Simon, được gọi là Kêpha (nghĩa là
đá), có thể là bất cứ vật gì nhưng chẳng phải là đá. Ông đã là “vật cản đường”
(Mt 16:23) và là Satan đối với Chúa Giêsu (Mc 8:33), và giờ đây ông làm ra vẻ
là người môn đệ trung thành nhất trong tất cả: “Dù tất cả vấp phạm vì Thầy,
nhưng con thì không!” (Mc 14:29). Nhưng Chúa Giêsu bảo ông: Phêrô, con sẽ là
người đầu tiên chối Thầy, trước khi gà gáy sáng!
* Mc 14:32-52: Thái độ của các môn đệ
trong Vườn Cây Dầu
32 Đi đến một vườn kia tên là Giệtsêmani,
Người bảo các môn đệ: “Các con hãy ngồi lại đây trong khi Thầy đi cầu nguyện”.
33 Rồi Người đem Phêrô, Giacôbê và Gioan theo Người 34 và Người bắt đầu kinh sợ
và buồn sầu. Người liền bảo các ông: “Linh hồn Thầy buồn đến chết được, các con
hãy ở lại đây và tỉnh thức”. 35 Tiến xa hơn một chút, Người phục xuống đất và cầu
xin nếu có thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người nguyện rằng: 36
“Abba, Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin cất chén này khỏi con! Nhưng
không theo ý con muốn, một theo ý Cha”. 37Người trở lại và thấy các ông đang ngủ,
nên nói với Phêrô: “Simon, con ngủ ư? Con không có sức thức được một giờ sao?
38 Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lẹ,
còn xác thịt thì yếu đuối”. 39 Rồi Người đi khỏi đó và cầu nguyện cùng lời như
trước. 40Khi trở lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt các ông nặng trĩu)
và các ông không còn biết thưa Người làm sao. 41 Lần thứ ba, Người trở lại và bảo:
“Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong! Giờ đã đến: Này Con Người
sắp bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. 42 Thôi! hãy chỗi dậy, chúng ta đi, kẻ nộp
Thầy đã tới nơi”. 43 Người còn đang nói, thì Giuđa Iscariốt, một trong nhóm Mười
Hai đến, cùng đi với một toán đông mang gươm giáo và gậy góc do các thượng tế,
luật sĩ và kỳ lão sai đến. 44 Trước đó, tên phản bội đã ra hiệu cho chúng rằng:
“Hễ tôi hôn mặt ai, thì đó chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy và điệu đi cho cẩn
thận”. 45 Vừa đến, nó liền tới gần Người mà nói: “Chào Thầy”. Và nó hôn Người.
46 Và chúng tra tay bắt Người. 47 Nhưng một người trong những kẻ đứng xung
quanh rút gươm chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. 48 Chúa Giêsu nói với
chúng rằng: “Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp! 49 Hằng
ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ mà sao các ngươi không bắt
Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh”. 50 Bấy giờ môn đệ bỏ Người và
trốn đi hết. 51 Có một thanh niên theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ
túm lấy anh ta, 52 nhưng anh ta bỏ tấm khăn lại và chạy trốn mình trần.
Mc 14:32-42: Thái độ của các môn đệ trong cơn buồn sầu của Chúa Giêsu.
Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu bắt đầu
cơn buồn sầu của mình và bảo các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan cầu nguyện cho Người.
Người buồn bã và bắt đầu kinh sợ. Người tìm kiếm sự hỗ trợ nơi các bạn hữu của
mình. Nhưng họ lại mê ngủ. Các ông không thể thức được một giờ với Chúa. Và đều
cả ba lần! Một lần nữa, chúng ta thấy sự tương phản lớn lao giữa thái độ của
Chúa Giêsu và của ba môn đệ! Tại Vườn Cây Dầu này và tại thời điểm buồn sầu của
Chúa Giêsu mà lòng can đảm của các môn đệ đã tan rã. Chẳng còn lại gì!
Mc 14:43-52: Thái độ của các môn đệ khi Chúa Giêsu bị bắt.
Khi màn đêm buông xuống, các quân lính
được dẫn đầu bởi Giuđa đi đến. Nụ hôn, một dấu hiệu của tình bạn và tình yêu, trở
thành dấu hiệu của sự phản bội. Giuđa đã thiếu can đảm để đối diện với sự phản
bội của mình. Hắn ta trốn nó! Trong khi bị bắt, Chúa Giêsu vẫn giữ được sự bình
tĩnh, Người làm chủ tình hình. Người cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của những gì đang
xảy ra: “Như thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh!” (Mc 14:49) Nhưng tất cả các
môn đệ đều bỏ Người và trốn đi hết (Mc 14:50). Chả có ai ở lại. Chúa Giêsu trơ
trọi một mình!
* Mc 14:53-15:20: Cuộc luận án: những
quan niệm mâu thuẫn khác biệt nhau về Đấng Cứu Thế.
53 Chúng điệu Chúa Giêsu đến thầy thượng
tế, các tư tế, luật sĩ và kỳ lão hội lại đông đủ. 54 Còn Phêrô theo Người xa xa
đến tận trong dinh thượng tế và ngồi sưởi lửa với đám đầy tớ. 55 Vậy các thầy
thượng tế và toàn thể Công Nghị tìm một chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người,
song họ không tìm ra. 56 Có nhiều kẻ đã cáo gian Người, nhưng các chứng đó
không hợp nhau. 57 Tuy nhiên có nhiều kẻ đứng lên làm chứng gian cho Người rằng:
58 “Chúng tôi đã nghe nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay loài người làm
ra, và trong ba ngày, Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi tay loài người
làm ra”. 59 Nhưng chứng cớ của họ cũng không hợp nhau. 60 Khi ấy, thầy thượng tế
đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu rằng: “Sao ông không trả lời gì về những
điều các người này tố cáo ông”. 61 Nhưng Người vẫn thinh lặng và không đáp lại
gì. Thầy thượng tế lại hỏi: “Ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc
tụng chăng?” 62 Chúa Giêsu đáp: “Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người
ngồi bên hữu Đấng toàn năng và ngự đến trên đám mây”. 63Thầy thượng tế liền xé
áo mình ra và nói: “Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? 64 Các ông đã nghe
lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao” Ai nấy đều lên án Người đáng chết. 65 Rồi
có kẻ bắt đầu nhổ vào Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà rằng: “Hãy đoán
xem!” Và bọn thủ hạ vả mặt Người.
66 Phêrô đang ở ngoài sân tiền đường,
thì có một đầy tớ gái của thầy thượng tế đến, 67 thấy Phêrô đang sưởi, thì nhìn
ông và nói: “Ông cũng theo Giêsu, người Nagiarét”. 68 Nhưng ông chối phắt mà rằng:
“Tôi không biết, tôi không hiểu cô muốn nói gì”. Rồi ông đi ra ngoài phía trước
tiền đường, và gà liền gáy. 69 Lần nữa người đầy tớ thấy ông, liền nói với những
người xung quanh rằng: “Ông này thuộc bọn đó”. 70 Nhưng ông lại chối. Một lúc
sau, những người ở đó lại nói với Phêrô rằng: “Đúng ông thuộc bọn đó, vì cả ông
cũng là người Galilêa”. 71 Ông liền nguyền rủa nặng lời và thề rằng: “Tôi không
biết người mà các ông nói đó”. 72 Tức thì gà gáy lần thứ hai. Và Phêrô nhớ lại
lời Chúa Giêsu đã bảo ông: “Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Ta ba lần”.
Và ông liền than khóc.
15:1 Vừa tảng sáng, các thượng tế hội
nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể Công Nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải
nạp Người cho Philatô. 2 Philatô hỏi Người: “Ông có phải là vua dân Do-thái
không?” Chúa Giêsu đáp: “Ông nói đúng!” 3 Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều
điều. 4Philatô lại hỏi Người rằng: “Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo
Ông biết bao nhiêu điều!” 5Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến
Philatô ngạc nhiên. 6 Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một
người tù tuỳ ý họ xin. 7 Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những
kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. 8 Dân chúng tiến
lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. 9 Vậy Philatô hỏi: “Các ngươi có
muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?” 10 Vì quan đã biết rõ
do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người. 11 Nhưng dân xin quan phóng
thích Baraba cho họ. 12 Philatô bảo dân chúng rằng: “Các ngươi muốn Ta làm gì
cho vua dân Do-thái?” 13 Nhưng chúng lại kêu lên: “Đóng đinh nó đi!” 14Philatô
đáp lại: “Người này đã làm gì nên tội?” Song chúng càng la to hơn: “Đóng đinh
nó đi!” 15 Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu
cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. 16 Quân lính điệu Người vào sân
tiền đường và tập họp cơ đội lại. 17 Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn
một vòng gai đặt trên đầu Người. 18 Đoạn chào Người rằng: “Tâu Vua dân
Do-thái”. 19 Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối
triều bái Người. 20 Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục
lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá.
Mc 14:53-65: Chúa Giêsu bị kết án bởi Tòa Tối Cao
Chúa Giêsu bị dẫn ra trước tòa án của
các thầy Thượng Tế, Kỳ Lão và Luật Sĩ, gọi là Công Nghị. Những lời cáo gian đã
buộc cho Người. Chúa vẫn giữ im lặng. Không có bất kỳ lời biện bạch nào, Người
bị trao cho kẻ thù của mình. Vậy là Người đã ứng nghiệm những gì ngôn sứ Isaia
đã nói về Đấng Cứu Thế Tôi Tớ, Đấng đã bị bắt làm tội nhân, bị luận tội và bị
lên án như một con cừu, Người không hề mở miệng kêu ca (xem is 53:6-8). Khi bị
tra vấn, Chúa Giêsu nhìn nhận sự thật Người là Đấng Cứu Thế: “Phải, chính Ta!”
Nhưng Người xác nhận điều này dưới danh hiệu Con Thiên Chúa (Mk 14:62). Sau
cùng, Người bị vả vào mặt bởi những kẻ chế nhạo Người gọi Người là Đấng Mêssia
Tiên Tri (Mk 14:65).
Mc 14:66-72: Lời chối của Phêrô.
Phêrô bị người tớ gái nhận mặt là một
trong những người đã có mặt trong Vườn Cây Dầu. Phêrô phủ nhận điều này. Ông chối
phắt việc ấy bằng lời nguyền rủa và thề thốt. Ngay cả lúc này ông không có khả
năng chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Mêssia Tôi Tớ, Đấng đã thí mạng sống mình cho
người khác. Nhưng khi gà gáy lần thứ hai, ông nhớ lại lời của Chúa Giêsu và bắt
đầu than khóc. Đây là những gì xảy ra cho những kẻ gần gũi với mọi người nhưng
đầu óc bị lẫn mất trong hệ thống tư tưởng của nhóm Hêrôđê và những người Biệt
Phái. Đây có lẽ là tình trạng của nhiều người trong các cộng đoàn vào thời
Máccô đang viết sách Tin Mừng của ông. Và còn chúng ta ngày nay thì sao?
Mc 15:1-20: Chúa Giêsu bị kết án bởi quyền lực La Mã.
Cuộc xử án tiếp tục. Chúa Giêsu bị giải
nạp cho nhà cầm quyền La Mã và bị cáo buộc là Đấng Mêssia Vua (Mc 15:2; Mc
15:25). Những người khác thì đề nghị để thay thế cho Baraba, “bị giam cùng với
những kẻ phiến loạn” (Mc 15:7). Họ xem Chúa Giêsu như một Đấng Cứu Thế Anh
Hùngchống lại đế quốc La Mã. Sau khi bị kết án, họ khạc nhổ vào mặt Chúa Giêsu,
nhưng Người sẽ không mở miệng. Ở đây một lần nữa, chúng ta thấy Đấng Cứu Thế
Tôi Tớ được công bố bởi ngôn sứ Isaia (xem Is 50:6-8).
* Mc 15:21-39: Trước cây Thập Giá của
Chúa Giêsu trên đồi Canvê
21 Chúng gặp một người qua đường, tên là
Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về,
chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. 22 Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là
Gôngôtha, nghĩa là Núi Sọ. 23 Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người
không uống. 24 Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người
bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào. 25 Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng
đinh Người vào thập giá. 26Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! 27 Và cùng với
Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa
bên tả Người. 28 Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt
vào số những kẻ gian ác. 29 Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và
nói: “Kìa! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: 30 hãy tự cứu
mình xuống khỏi thập giá đi!” 31 Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng
Người và nói với nhau: “Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! 32
Bây giờ Đấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà
tin nào!” Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. 33Từ
giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. 34 Và đến giờ
thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: “Eloi, Eloi, lema sabachtani!” Nghĩa
là: “Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!” 35 Có mấy người đứng đó
nghe thấy liền nói rằng: “Kìa, nó gọi Elia!” 36 Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng
bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng: “Hãy đợi
xem Êlia có đến đem nó xuống không?” 37 Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và
trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây
lát)
38 Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ
trên xuống dưới. 39 Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và
trút hơi thở như thế, liền nói rằng: “Đúng người này là Con Thiên Chúa!”
Mc 15:21-22: Ông Simon vác đỡ thập giá.
Khi Chúa Giêsu đang bị điệu đi đến nơi
đóng đinh vào thập giá, ông Simon quê ở Xyrênê, là một người cha trong gia
đình, đã bị bắt vác đỡ Thập Giá. Simon là một môn đệ lý tưởng, ông đi theo con
đường mà Chúa Giêsu đi. Theo nghĩa đen, ông vác thập giá đi theo chân Chúa
Giêsu lên đồi Canvê
Mc 15:23-32: Đóng đinh vào thập giá.
Chúa Giêsu bị đóng đinh như kẻ bị ức hiếp,
ở giữa hai tên trộm. Một lần nữa, Tin Mừng của Máccô gợi nhớ lại hình ảnh của Đấng
Cứu Thế Tôi Tớ, Đấng mà ngôn sứ Isaia đã nói: Người bị chôn cất giữa bọn ác ôn”
(Is 53:9). Tội gán cho Người là “Vua dân Do Thái!” (Mc 15:25) Những kẻ có thẩm
quyền tôn giáo nhạo báng và xúc phạm đến Chúa Giêsu và nói rằng: “hãy xuống khỏi
thập giá ngay đi để chúng ta thấy mà tin nào!” (Mc 15:321). Họ cũng giống như
Phêrô. Họ sẽ chỉ chấp nhận Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai, nếu Người xuống khỏi
cây thập giá. Như bài thánh vịnh viết rằng: “Họ chỉ muốn có một vị vua vĩ đại
hùng dũng, thống trị, và vì điều này, họ đã không tin vào Ngài và đã giết Đấng
Cứu Độ”.
Mc 15:33-39: Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.
Bị tất cả mọi người bỏ rơi, Chúa Giêsu
kêu lên một tiếng và trút hơi thở. Viên sĩ quan, một người dân ngoại, có nhiệm
vụ canh gác, đã thốt lên một lời tuyên xưng đức tin long trọng: “Đúng người này
là Con Thiên Chúa!” Một người dân ngoại đã khám phá ra và chấp nhận những gì
các môn đệ đã không thể khám phá và chấp nhận, đó là trông thấy sự hiện diện của
Con Thiên Chúa trong tấm hình hài bị tra tấn, loại trừ và bị đóng đinh này. Giống
như người phụ nữ vô danh ở đầu của hai chương này (Mc 14:3-9), vì thế tại phần
cuối xuất hiện một mẫu mực môn đệ khác, viên sĩ quan, một người dân ngoại!
* Mc 15:40-16:8: Tại ngôi mộ của Chúa
Giêsu
40 Cũng có những phụ nữ đứng nhìn từ
đàng xa. Trong số có bà Maria Magđalêna, bà Maria mẹ của ông Giacôbê trẻ và của
ông Giôsết, và bà Salômê, 41 là những kẻ đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ
Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên Giêrusalem với Người. 42 Trời đã xế
chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbát. 43 Ông Giuse quê ở
Arimathia, một hội viên vị vọng trong Công Nghị, cũng là người trông đợi Nước
Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. 44 Philatô ngạc
nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã chết
thật chưa. 45 Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao xác Người cho Giuse.
46 Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào
khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mồ. 47 Lúc
đó bà Maria Magđalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng.
16:1 Vừa hết ngày Sabbát, bà Maria
Magđalêna với bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để đi ướp xác
Chúa Giêsu. 2 Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc,
các bà ra mộ. 3 Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm chúng
ta đây?” 4Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà
tảng đá ấy lớn lắm. 5Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải,
mặc áo trắng; các bà hoảng sợ. 6Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ!
Các bà tìm Đức Giêsu Nagiarét, Đấng bị đóng đinh chứ gì? Người đã trỗi dậy rồi,
không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này! 7 Xin các bà về nói với môn đệ Người
và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilêa trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy
Người như Người đã nói với các ông.” 8 Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn,
run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi.
Mc 15:40-47: Táng xác Đức Chúa Giêsu.
Một nhóm các người phụ nữ đứng nhìn từ
đàng xa: Maria Magđalêna, Maria mẹ của Giacôbê và bà Salômê. Họ đã không chạy
trốn. Họ vẫn trung thành cho đến cùng. Các bà chứng kiến cuộc tử nạn của Chúa
Giêsu. Từ nhóm nhỏ này mà lời công bố mới về Chúa Nhật Phục Sinh sẽ xảy đến.
Các bà đi với ông Giuse quê ở Arimathia là người đã xin phép để chôn Chúa
Giêsu. Sau đó, hai bà trong số họ, các bà Maria Magđalêna và Maria, ở gần ngôi
mộ đã lấp. Họ cũng chứng kiến việc táng xác Chúa Giêsu.
Mc 16:1-8: Công bố sự phục sinh
Ngày thứ nhất trong tuần, vào lúc sáng
tinh sương, những người phụ nữ ấy cùng đi để ước xác Chúa Giêsu. Họ thấy ngôi mộ
đã mở ra. Các bà là những nhân chứng của sự phục sinh. Một thiên thần nói với
các bà rằng Chúa Giêsu đã sống lại và trao cho họ một mệnh lệnh: “đi và nói với
các môn đệ Người và ông Phêrô rằng: ‘Người sẽ đến Galilêa trước các ông; ở đó,
các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông.’” (Mc 16:7). Trong miền
Galilêa, trên bờ hồ, nơi mà tất cả mọi sự đã khởi xướng, ở đó tất cả mọi thứ
cũng sẽ bắt đầu lại. Chúa Giêsu đã mời gọi! Người sẽ không bỏ cuộc, ngay cả khi
đối mặt với việc các môn đệ từ bỏ Người! Người sẽ gọi lần nữa! Người luôn luôn gọi!
c) Sự thất bại cuối cùng như là lời kêu
gọi mới trở thành môn đệ
Đây là câu chuyện về cuộc thương khó, khổ
nạn và sự phục sinh của Chúa Giêsu được nhìn thấy từ quan điểm của các môn đệ.
Số lần mà câu chuyện này nói về việc kém hiểu biết và thất bại của các môn đệ,
có lẽ tương ứng nhất với một sự kiện lịch sử. Nhưng điểm quan tâm chính của tác
giả Tin Mừng không phải là để kể lại những gì đã xảy ra trong quá khứ, mà ông
muốn tác động một sự hoán cải trong các Kitô hữu của thời ấy và khơi dậy trong
họ và trong chúng ta một niềm hy vọng mới, có khả năng khắc phục được sự nản
lòng và cái chết. Có ba điều nổi bật và cần phải được suy nghĩ kỹ lưỡng:
i) Sự thất bại của những người được chọn:
Nhóm Mười Hai là những người đã được Chúa Giêsu gọi và chọn cách đặc biệt (Mc
3:13-19) và được Người sai đi trong sứ vụ (Mc 16:7-13), đã thất bại. Thất bại
hoàn toàn. Giuđa phản bội, Phêrô chối Thầy, tất cả đều bỏ chạy, không một ai ởlại.
Tất cả phân tán! Dường như, không có sự khác biệt nhiều giữa họ và những kẻ có
thẩm quyền đã quyết định về cái chết của Chúa Giêsu. Cũng giống như Phêrô, họ
cũng muốn loại bỏ cây thập giá và muốn có một Đấng Cứu Thế vinh quang, một vì
vua, Con Thiên Chúa được ơn phúc. Nhưng có một sự khác biệt thật sự và sâu xa!
Mặc dù với tất cả những lỗi lầm và yếu kém của mình, các môn đệ đã không có dã
tâm. Các ông không có bất kỳ một ý định xấu xa nào. Họ gần như là một bản sao
trung thực của tất cả chúng ta là những kẻ đang đi trên con đường của Chúa
Giêsu, mãi mãi vấp ngã nhưng lại luôn gượng dậy!
ii) Lòng trung thành của những người
không được chọn: Là một đối trọng với sự thất bại của một số người, sức mạnh đức
tin của những người khác đã được bày tỏ, những người không thuộc về nhóm Mười
Hai môn đệ được chọn:
1. Người
phụ nữ vô danh từ Bêtania. Bà chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế Tôi Tớ và do
đó, bà đã xức dầu cho Người trong dự đoán về việc chôn cất Người. Chúa Giêsu
khen bà. Bà là một gương mẫu cho tất cả chúng ta.
2. Ông
Simon quê ở Xyrênê, một người cha trong gia đình. Ông đã bị các quân lính bắt
buộc phải làm điều mà Chúa Giêsu đã yêu cầu Nhóm Mười Hai làm mà họ đã bỏ chạy.
Ông vác cây thập giá đi theo chân Chúa Giêsu lên đồi Canvê.
3. Viên
sĩ quan, một dân ngoại. Vào lúc Chúa sinh thì, ông đã tuyên xưng đức tin của
mình và nhận ra Con Thiên Chúa trong hình hài người đàn ông bị đánh đập và đóng
đinh trên thập giá, người bị nguyền rủa chiếu theo luật Do Thái.
4. Bà
Maria Magđalêna, bà Maria mẹ của ông Giacôbê và bà Salômê, “và nhiều phụ nữ
khác ở đó đã lên Giêrusalem cùng với Người (Mc 15:41). Họ đã không bỏ rơi Chúa
Giêsu, nhưng kiên quyết ở lại dưới chân cây thập giá và gần mồ Chúa Giêsu.
5. Ông
Giuse quê ở Arimathia, một hội viên của Công Nghị, người đã mạo hiểm bằng mọi
cách để xin xác Chúa Giêsu đem về mai táng. Nhóm Mười Hai đã không làm tròn. Việc
tiếp tục sứ điệp Nước Trời đã không thông qua các ông, nhưng qua các người
khác, đặc biệt là phụ nữ, những người sẽ được trao cho một nhiệm vụ rõ ràng là
đi tìm gọi lại những môn đệ thất bại đó (Mc 16:7). Và ngày nay, sứ điệp được
lưu truyền qua những người nào?
iii) Thái độ của Chúa Giêsu: Cách thức
mà trong Tin Mừng Máccô trình bày về thái độ của Chúa Giêsu trong khi nói về cuộc
thương khó là có ý mang lại niềm hy vọng ngay cả với các môn đệ chán nản và thất
vọng nhất! Bởi vì cho dù sự phản bội của Nhóm Mười Hai có to lớn đến đâu thì
tình yêu của Đức Giêsu vẫn luôn bao la hơn! Khi Chúa Giêsu loan báo rằng các
môn đệ sẽ chạy trốn, Người đã nói với các ông rằng Người sẽ đợi họ ở Galilêa. Mặc
dù Người đã biết trước về việc phản bội (Mc 14:18), chối bỏ (Mc 14:30), tháo chạy
(Mc 14:27), Chúa vẫn tiếp tục cử hành Bí Tích Thánh Thể. Và vào tảng sáng Phục
Sinh, thiên thần, qua các người phụ nữ, đã gửi một thông điệp đến Phêrô là người
đã chối Chúa, và đến tất cả mọi người khác là những kẻ đã bỏ trốn, rằng các ông
phải đi đến Galilêa. Nơi mà tất cả mọi việc đã khởi đầu cũng sẽ là nơi mà tất cả
mọi thứ được bắt đầu lại. Sự thất bại của Nhóm Mười Hai không làm hủy đi giao ước
đã được ký và đóng ấn bằng máu của Chúa Giêsu.
d) Khuôn mẫu của người môn đệ: Đi theo,
Phục vụ, Đi lên
Máccô nhấn mạnh đến sự hiện diện của các
phụ nữ là những người đi theo và giúp Chúa Giêsu từ lúc Người còn ở Galilêa và
đi lên Giêrusalem cùng với Người (Mc 15:40-41). Máccô xử dụng ba chữ để xác định
mối quan hệ của những người phụ nữ với Chúa Giêsu: Đi theo! Phục vụ! Đi lên!
Các bà “đã đi theo và giúp đỡ” Chúa Giêsu và cùng với nhiều phụ nữ khác “đã
cùng đi lên Giêrusalem với Người” (Mc 15:41). Đây là ba từ ngữ để định nghĩa một
người môn đệ lý tưởng. Họ là những gương mẫu cho các môn đệ khác là những kẻ đã
tháo chạy!
* Đi theo mô tả lời mời gọi của Chúa
Giêsu và quyết định đi theo Người (Mc 1:18). Quyết định này ngụ ý là từ bỏ mọi
sự và chấp nhận nguy cơ có thể bị giết chết (Mc 8:34; 10:28).
* Phục vụ nói rằng họ là những môn đệ
đích thực, bởi vì sự phục vụ là đặc tính của người môn đệ và của chính Chúa
Giêsu (Mc 40:42-45).
* Đi lên nói rằng họ đủ tư cách là chứng
tá cho cuộc tử nạn và sự phục sinh của Chúa Giêsu, bởi vì như các môn đệ, họ sẽ
đi cùng với Người từ Galilêa đến Giêrusalem (Cv 13:31).
Sau khi chứng kiến sự phục sinh của Chúa
Giêsu, họ cũng sẽ mục kích những gì họ đã trông thấy và đã trải qua. Đó là kinh
nghiệm của phép thanh tẩy của chúng ta. “Vì được dìm vào trong cái chết của Người,
chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống
lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống
một đời sống mới” (Rm 6:4). Nhờ bí tích rửa tội, tất cả chúng ta cùng chia sẻ
trong cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu.
3.
Trợ giúp cho việc suy gẫm
i) Trong cuộc thương khó và tử nạn của
Chúa Giêsu, điều gì khiến tôi cảm động nhất trong thái độ của mười hai vị tông
đồ và thái độ của những người phụ nữ? Bạn sẽ làm gì nếu bạn đã có mặt vào lúc ấy?
Bạn sẽ hành động như các vị tông đồ hay sẽ hành động như các người phụ nữ?
ii) Điều gì đã làm bạn cảm động nhất
trong thái độ của Chúa Giêsu đối với các môn đệ của Người trong bài tường thuật
cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu? Tại sao?
iii) Bài tường thuật về cuộc thương khó
và tử nạn của Chúa Giêsu theo Tin Mừng Máccô mang sứ điệp đặc biệt gì? Bạn có
đã tìm ra được những khác biệt giữa lời tường thuật về cuộc thương khó và tử nạn
của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Máccô và trong các Tin Mừng khác chưa? Những khác
biệt này là gì?
4. Lời cầu nguyện bằng Thánh Vịnh: Thánh Vịnh 22
(21)
Bài Thánh Vịnh mà Chúa Giêsu đã cầu nguyện
trên Thập Giá
Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa,
Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?
Dù con thảm thiết kêu gào,
nhưng ơn cứu độ nơi nao xa vời!
Ngày kêu Chúa, không lời đáp ứng,
đêm van Ngài mà cũng chẳng yên.
Thế nhưng Chúa ngự nơi đền,
vinh quang của Israel là Ngài.
Xưa tổ phụ vẫn hoài cậy Chúa,
họ cậy trông, Ngài đã độ trì,
van nài liền được cứu nguy,
đã không thất vọng mỗi khi cậy Ngài.
Thân sâu bọ chứ người đâu phải,
con bị đời mắng chửi dể duôi,
thấy con ai cũng chê cười,
lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai:
“Nó cậy CHÚA, mặc Người cứu nó!
Người có thương, giải gỡ đi nào! ”
Đưa con ra khỏi thai bào,
vòng tay mẹ ẵm Chúa trao an toàn.
Chào đời con được dâng cho Chúa,
được Ngài là Chúa tự sơ sinh.
Xa con Ngài đứng sao đành,
nguy hiểm bên mình không kẻ giúp cho.
Quanh con cả đàn bò bao kín,
thú Ba-san ùa đến bủa vây:
Há mồm đe doạ gớm thay,
khác nào sư tử xé thây vang gầm.
Tưởng mình như tan dần ra nước,
toàn thân con xương cốt rã rời,
con tim đau đớn bồi hồi,
mềm như sáp chảy tơi bời ruột gan.
Nghe cổ họng khô ran như ngói,
lưỡi với hàm dính lại cùng nhau,
chốn tử vong Chúa đặt vào;
Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi.
Bọn ác đó trong ngoài vây bủa,
chúng đâm con thủng cả chân tay,
xương con đếm được vắn dài;
chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem.
Áo mặc ngoài chúng đem chia chác,
còn áo trong cũng bắt thăm luôn.
Chúa là sức mạnh con nương,
cứu mau, lạy CHÚA, xin đừng đứng xa.
Xin cứu mạng khỏi sa lưỡi kiếm,
gỡ thân con thoát miệng chó rừng,
khỏi nanh sư tử hãi hùng,
phận hèn khốn khổ thoát sừng trâu điên.
Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa
cho anh em tất cả được hay,
và trong đại hội dân Ngài,
con xin dâng tiến một bài tán dương.
Hỡi những ai kính sợ ĐỨC CHÚA,
hãy ca tụng Người đi!
Hỡi toàn thể giống nòi Giacóp,
nào hãy tôn vinh Người!
Dòng dõi Israel tất cả,
nào một dạ khiếp oai!
Bởi vì Chúa đã chẳng coi thường,
chẳng khinh miệt kẻ nghèo hèn khốn khổ,
cũng không đành ngoảnh mặt làm ngơ,
nhưng đã thương nghe lời cầu cứu.
Chịu ơn Người, tôi dâng lời ca tụng,
ngày đại hội toàn dân.
Điều khấn nguyền, tôi xin giữ trọn
trước mặt những ai kính sợ Người.
Kẻ nghèo hèn được ăn uống thoả thuê,
người tìm CHÚA sẽ dâng lời ca tụng.
Cầu chúc họ vui sống ngàn đời.
Toàn thế giới, muôn người nhớ lại
và trở về cùng CHÚA.
Mọi dân tộc dưới trần
phủ phục trước Tôn Nhan.
Bởi vì CHÚA nắm quyền vương đế,
Người thống trị chư dân.
Mọi kẻ ngủ yên trong lòng đất
sẽ đều bái lạy một mình Người,
phàm những ai trở về cát bụi
sẽ cùng phủ phục trước Thánh Nhan.
Phần tôi, nguyện sẽ sống cho Chúa,
con cháu tôi sẽ phụng sự Người.
Thiên hạ sẽ nói về Đức Chúa
cho thế hệ tương lai,
truyền tụng cho hậu sinh đức công chính
của Người,
rằng: “Đức Chúa đã làm như vậy! ”
Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ
Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin
Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh
để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được
trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực
hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự
hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
www.dongcatminh.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét