Giáo Hội hiệp nhất trong máu các
vị tử đạo
Hôm 12 tháng 2 vừa qua là ngày kỷ niệm 2 năm cuộc gặp gỡ lịch
sử giữa ĐTC Phanxicô và Đức Thượng Phụ chính thống Nga Kirill I tại La Habana
thủ đô Cuba. Trong lễ nghi kỷ niệm biến cố này ĐHY Kurt Koch, chủ tịch Hội Đồng
Toà Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, đã phát biểu; và bài phát biểu của ngài
đã được đăng trên báo Quan Sát Viên Roma số ra ngày 15 tháng hai vừa qua. ĐHY
đã khẳng định rằng “Sự hiệp nhất của Giáo Hội đã thành toàn nơi các thánh, và
trong các vị tử đạo của mình Giáo Hội không bị chia rẽ. Cũng giống như Giáo Hội
thuở ban đầu xác tín rằng máu các vị tử đạo là hạt giống làm nảy sinh ra các
kitô hữu mới, ngày nay cũng thế chúng ta hy vọng rằng một ngày kia máu của biết
bao nhiêu vị tử đạo của thời đại chúng ta sẽ được vén mở như hạt giống của sự
hiệp nhất đại kết toàn vẹn của Thân Mình Chúa Kitô”.
ĐHY coi biến cố gặp gỡ giữa ĐTC Phanxicô và Đức Thượng Phụ
Kirill là một thí dụ ngoại thường của việc đại kết xích lại gần nhau. Trong
vùng Trung Đông tuy tình hình của các kitô hữu có khó khăn, nhưng các tương
quan đại kết lại mạnh mẽ và hứa hẹn. Tình hình khó khăn cũng là một lý do của sự
xích lại gần nhau có thể định nghĩa là “đại kết của cuộc sống”. Và chứng tá
chung của các kitô hữu Trung Đông là một bảo đảm cho sự hiệp nhất. ĐHY cũng cho
nhận thấy sau Công Đồng Chung Vaticăng II, mọi Giáo Hoàng đều đã nhấn mạnh
trên tầm quan trọng đại kết của các vị tử đạo; và điều này tiếp tục với ĐTC
Phanxicô. “Đại kết của máu” là một trong các đề tài quan trọng thường được ngài
nhắc tới.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung bài phát biểu
của ĐHY Kurt Koch.
Mở đầu bài phát biểu ĐHY khẳng định rằng chiều kích đại kết
của việc bách hại các kitô hữu và của sự tử đạo đã trở thành hữu hình chính là
nhờ các Giáo Hoàng sau Công Đồng Chung Vaticăng II. Trong khoá họp thứ ba của
Công Đồng ngày 18 tháng 10 năm 1964 Đức Phaolô VI đã phong Chân phước cho các vị
tử đạo Uganda, và cũng đã vinh danh các vị tử đạo tin lành cùng bị bách hại như
các anh em công giáo. Trong Năm Thánh 2000 Đức Gioan Phaolô II cũng đã tổ chức
một buổi cử hành đại kết tại hí trường Colosseo với sự hiện diện của hàng lãnh
đạo các Giáo Hội Kitô khác.
Trong dịp này ngài đã nhắc tới các vị tử đạo của thế kỷ XX
và chứng tá của các vị như: mục sư Paul Schneider, ĐTGM Serafim và cha
Maximiliano Kolbe. Đức Gioan Phaolô II đã bình luận như sau: “Gia tài quý báu
mà các chứng nhân can đảm này đã để lại là một gia tài chung cho tất cả mọi
Giáo Hội và các cộng đoàn giáo hội. Đó là một gia tài nói với chúng ta bằng một
tiếng nói mạnh hơn là tiếng nói của những kẻ chia rẽ chúng ta. Đại kết thuyết
phục nhất là đại kết của các vị tử đạo và các chứng nhân đức tin. Nó chỉ
cho các kitô hữu của thế kỷ XXI con đường của sự hiệp nhất” (Gioan Phaolô II
bài giảng trong dịp tưởng niệm các chứng nhân đức tin của thế kỷ XX, ngày
7-5-2000).
** Năm 2008 nhân dịp viếng thăm vương cung thánh đường thánh
Bartolomeo trên đảo Tevere dâng kính các vị tử đạo của thế kỷ XX, ĐGH Biển Đức
XVI đã tôn vinh sự tử đạo đại kết như là chứng tá tình yêu cao cả nhất (Bài giảng
nhân dịp tưởng niệm các vị tử đạo của thế kỷ XX tại vương cung thánh đường
thánh Bartolomeo trên đảo sông Tevere ngày 7-4-2008).
Việc nhấn mạnh tầm quan trọng đại kết của các vị tử đạo
rất may tiếp tục với ĐGH Phanxicô. Ngay từ đầu triều đại của mình ngài đã làm
cho đại kết của các vị tử đạo trở thành “đại kết của máu” như chính ngài đã định
nghĩa. Và đây là một trong các đề tài đại kết quan trọng nhất. Theo ngài chính
các kẻ bách hại đạo chỉ cho chúng ta việc đại kết máu này. Thật vậy, “đối với
các kẻ bách hại chúng ta không bị chia rẽ, chúng ta không phải là tín hữu
luther, chính thống, tin lành, công giáo. Không! Chúng ta là một! Đối với các kẻ
bách hại chúng ta là kitô hữu! Họ không chú ý tới gì khác. Đó là đại kết của
máu mà chúng ta sống ngày nay!” (Phanxicô, Diễn văn đọc trước các thành viên
Huynh đoàn công giáo các cộng đoàn giao ước đặc sủng và Bằng hữu ngày
31-10-2014). Như vậy, trong đại kết của các vị tử đạo cũng có một thách đố lớn
đối với chúng ta, mà ĐGH Phanxicô đã diễn tả khi nói câu nổi tiếng này: “Nếu kẻ
thù hiệp nhất chúng ta trong cái chết, thì chúng ta là ai để chia rẽ nhau trong
sự sống?” (Diễn văn trước Phong trào Canh tân đặc sủng Thánh Linh 3-7-2015). Thật
vậy, đôi khi lại không nhục nhã sao, khi các kẻ bách hại các kitô hữu có một
quan niệm đại kết tốt hơn quan niệm của chúng ta, bởi vì họ biết rằng nói cho
cùng các kitô hữu chỉ là một giữa họ với nhau?”
Các khẳng định quan trọng này của các Giáo Hoàng cho
thấy rằng sự hiệp nhất của Giáo Hội đã thành toàn trong các thánh và trong các
vị tử đạo. Giáo Hội không chia rẽ. Như Giáo Hội thuở ban đầu đã xác tín rằng
máu các vị tử đạo là hạt giống làm nảy sinh ra các kitô hữu mới, thì chúng ta
ngày nay cũng thế, chúng ta có thể hy vọng rằng một ngày kia máu của biết bao
nhiêu vị tử đạo của thời đại chúng ta sẽ được vén mở như hạt giống của sự
hiệp nhất đại kết tràn đầy của Thân Mình Chúa Kitô.
ĐGH Phanxicô và Đức Thượng Phụ Kirill đã làm chứng cho niềm
hy vọng ấy trong tuyên ngôn chung tại La Habana, trong đó các vị viết: “Chúng
tôi nghiêng mình trước sự tử đạo của những người làm chứng cho sự thật của Tin
Mừng bằng giá cuộc sống của chính mình, thích cái chết hơn việc chối
bỏ Chúa Kitô. Chúng tôi tin rằng các vị tử đạo này của thời đại chúng ta phát
xuất từ nhiều Giáo Hội khác nhau, nhưng hiệp nhất bởi một khổ đau chung là bảo
đảm cho sự hiệp nhất các kitô hữu” (Tuyên ngôn chung của ĐGH Phanxicô và Đức
Thượng Phụ Kirill Matscơva và toàn nước Nga, La Habana 12-2-2016, s. 12).
** Như vùng Trung Đông là vùng đất nguồn gốc của Kitô giáo,
nó có thể đòi cho mình một chỗ duy nhất trong phong trào hiệp nhất các tín hữu
kitô. Phong trào đại kết được in dấu bởi xác tín sâu xa rằng các kitô hữu sẽ
tìm ra các con đường dẫn tới sự hiệp nhất, và sẽ đào sâu các gốc rễ chung của họ.
Vì thế không phải vô tình mà tại Giêrusalem đã có biến cố ghi dấu sự khởi đầu của
“cuộc đối thoại tình yêu” giữa các tín hữu công giáo và chính thống, nghĩa là
chuyến hành hương mà chân phước Phaolo VI và Đức Thượng Phụ đại kết Athenagoras
đã cùng làm tại thành thánh ngày mùng 6 tháng giêng năm 1964. Trên vùng đất nơi
Chúa Kitô đã thành lập Giáo Hội Ngài, và nơi Ngài đã đổ máu ra cho Giáo Hội,
hai vị lãnh đạo của Giáo Hội đã trao đổi nụ hôn hoà bình, đã lắng nghe đọc
chương 17 Phúc Âm thánh Gioan, và đã cầu nguyện chung, và như thế dấn thân trên
con đường hướng về sự hiệp nhất một cách không thể quay lại đàng sau được nữa.
Trung Đông chắc chắn là một trong các vùng trên thế giới,
trong đó tình hình của các kitô hữu khó khăn và bất ổn, nhưng là nơi các tương
quan đại kết lại mạnh mẽ và hứa hẹn, nhất là giữa các anh em chính thống và
công giáo. Tình hình thiểu số và bối cảnh khó khăn này chắc chắn là các lý do của
việc xích lại gần nhau trong cách thức mà người ta có thể định nghĩa là “đại kết
của cuộc sống”, và nó được diễn tả ra bằng các thoả hiệp mục vụ quan trọng. Nhất
là tôi nghĩ tới thoả hiệp quan trọng ký kết hồi năm 1996 tại Charfeh
bên Libăng bởi các Thượng Phụ công giáo và chính thống vùng Trung Đông, đặc biệt
liên quan tới các vụ hôn nhân hỗn hợp, và việc biên soạn một sách giáo lý chung
cho trẻ em. Ngoài ra tình liên đới cần thiết trong bối cảnh bất ổn đã thúc đẩy
các Giáo Hội ký kết các thoả hiệp mục vụ quan phòng trong các trường hợp cần
thiết, và cho phép các tín hữu của các Giáo Hội khác lãnh nhận các bí
tích tích, chẳng hạn như trong Giáo Hội công giáo và Giáo Hội chính thống Siro
năm 1984, và trong Giáo Hội Canđê và Giáo Hội Assiri Đông Phương năm 2001.
Trong tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục “Ecclesia in
Medio Oriente” ký tại Beirut ngày 14 tháng 9 năm 2012 ĐGH Biển Đức XVI đã mạnh
mẽ khích lệ việc phát triển các liên lạc đại kết này giữa các kitô hữu thuộc
nhiều Giáo Hội Trung Đông. Ngài nhấn mạnh chiều kích đaị kết của sự thánh thiện
như sau: “Các chuyên viên tử đạo chứng thực rằng các thánh và các vị tử đạo thuộc
mọi giáo hội đã – và vài vị ngày nay vẫn còn – là các chứng nhân sống động
của sự hiệp nhất vô biên giới trong Chúa Kitô vinh hiển, việc nếm trước sự hiệp
nhất của chúng ta như dân sau cùng được hoà giải trong Ngài” (Ecclesia in Medio
Oriente, s. 11).
Sự thánh thiện được cho thấy trong cuộc sống và chứng tá
chung của các kitô hữu vùng Trung Đông là một chứng cớ của sự hiệp nhất. Trong
thư gửi kitô hữu Trung Đông ngày 21 tháng 12 năm 2014 ĐTC Phanxicô đã nhấn mạnh
lời kêu gọi đại kết của sự thánh thiện, mà việc bách hại hướng tới các tín hữu
kitô thuộc mọi Giáo Hội. Ngài viết: “Tình hình trong đó anh chị em sống là một
lời kêu mời mạnh mẽ sống thánh thiện, như các thánh và các vị tử đạo thuộc
mọi giáo hội chứng thực. Với lòng yêu mến và tôn kính tôi nhớ tới các chủ chăn
và các tín hữu trong các thời gian sau này đã được đòi hỏi hy sinh mạng sống,
thường khi chỉ vì là kitô hữu. Tôi cũng nhớ tới các người bị bắt cóc, trong đó
có các giám mục chính thống và các linh mục thuộc nhiều lễ nghi khác nhau. Ước
chi các vị có thể mau chóng trở về nhà và cộng đoàn của các vị yên hàn bằng an.
Tôi xin Thiên Chúa, vì biết bao khổ đau kết hiệp với thập giá Chúa, ban nhiều
hoa trái tốt lành cho Giáo Hội và cho các dân tộc vùng Trung Đông.”
** Trong cùng thư Đức Phanxicô cũng bầy tỏ niềm vui của ngài
trước sự đại kết cụ thể được các tín hữu kitô trung đông sống. “Giữa các thù
nghịch và xung đột, sự hiệp thông được sống giữa anh chị em trong tình
huynh đệ và sự đơn sơ là dấu chỉ của Nước Thiên Chúa. Tôi sung sướng vì các
tương quan tốt lành và sự cộng tác giữa các thượng phụ của các Giáo Hội công
giáo đông phương và các thượng phụ của các Giáo Hội chính thống, cũng như giữa
tín hữu của các Giáo Hội khác nhau. Các khổ đau mà các tín hữu kitô phải chịu
góp phần vô cùng quý giá cho sự hiệp nhất. Đó là đại kết của máu, đòi hỏi một sự
tin tưởng phó thác cho hoạt động của Chúa Thánh Thần”.
Tình hình, trong đó các kitô hữu trung đông sống, là một
thúc đẩy đại kết không chỉ cho chính họ, mà cũng cho các tín hữu kitô trên toàn
thế giới nữa. Việc lo lắng cho các kitô hữu Trung Đông đã được nhắc tới trong
các tuyên ngôn chung khác nhau mà ĐGH Phanxicô đã ký với các vị lãnh đạo khác của
Giáo Hội, như với Đức Thượng Phụ đại kết Bartolomaios I tại Giêrusalem ngày 25
tháng 5 năm 2014 và tại Istanbul ngày 30 tháng 11 năm 2014, hay với Đức Thượng
Phụ Tawadros tại Cairo ngày 28 tháng 4 năm 2017. Tuyên ngôn chung với Đức Thượng
Phụ Kirill tại La Habana ngày 12 tháng 2 năm 2016 cũng đã là một thí dụ ngoại
thường của việc đại kết xích lại gần nhau, phát xuất từ tình hình thê thảm của
các kitô hữu bên Trung Đông. Cũng chính trong nghĩa này mà các khổ đau của các
anh chị em của chúng ta trong đức tin tuyệt đối không vô ích.
Tình trạng đớn đau của các kitô hữu Trung Đông là một lời mời
gọi cấp thiết đối với chúng ta tiếp đón họ trong con tim, nhớ tới họ trong lời
cầu nguyện, và đem các nhu cầu của họ tới trước mặt Thiên Chúa. Trong hai chuyến
viếng thăm mà tôi đã có thể làm trong các năm qua tại các trại tỵ nạn bên
Giordania và trên đảo Leros, các anh chị em tỵ nạn đã luôn luôn xin tôi đừng
quên họ, nhưng hãy nhớ tới họ. Chúng ta không bao giờ được cho họ cảm tưởng bị
lẻ loi và bị bỏ rơi. Điều này tuỳ thuộc sự tham dự liên đới của chúng ta trong
lời cầu nguyện. Tôi uớc mong kết thúc bài phát biểu của tôi bằng các lời cầu
nguyện cho vùng Trung Đông trong tuyên ngôn chung đã được ĐGH Phanxicô và Đức
Thượng Phụ Kirill ký tại La Habana: “Chúng con nâng lời cầu nguyện lên Chúa
Kitô, Đấng Cứu thế giới, cho việc tái lập hoà bình trên vùng đất Cận Đông, là
“kết quả của công lý” (Is 32,17), để cho sự sống chung huynh đệ giữa các dân tộc,
các Giáo Hội và tôn giáo khác nhau sống trong đó được củng cố, cho các người tỵ
nạn được trở về tổ ấm của họ, cho các người bị thương được bình phục và
cho sự an nghỉ của linh hồn những người vô tội đã bị giết”
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét