01/04/2018
Chúa Nhật Phục Sinh năm B
(phần I)
Bài Ðọc I: Cv 10, 34a.
37-43
"Chúng tôi đã
ăn uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại".
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy,
Phêrô lên tiếng nói rằng: "Như anh em biết điều đã xảy ra trong toàn cõi
Giuđêa, khởi đầu từ Galilêa, sau khi Gioan rao giảng phép rửa: ấy là Chúa Giêsu
thành Nadarét. Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu cho Người.
Người đi khắp nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám, bởi vì Thiên
Chúa ở cùng Người. Và chúng tôi, chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người
đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Ðấng người ta đã giết
treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại
và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng Thiên
Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ
cõi chết sống lại. Và Người đã truyền cho chúng tôi rao giảng cho toàn dân và
làm chứng rằng chính Người đã được Thiên Chúa tôn làm quan án xét xử kẻ sống và
kẻ chết. Mọi tiên tri đều làm chứng về Người rằng: Tất cả những ai tin vào Người,
thì nhờ danh Người mà được tha tội".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 1-2.
16ab-17. 22-23
Ðáp: Ðây là ngày Chúa đã lập ra, chúng ta hãy mừng rỡ
hân hoan về ngày đó (c. 24).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy cảm tạ
Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng
lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". - Ðáp.
2) Tay hữu Chúa đã
hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng
tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. - Ðáp.
3) Phiến đá mà những
người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm
ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Cl 3, 1-4
"Anh em hãy
tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự".
Trích thư Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, nếu
anh em đã sống lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức
Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng
nghĩ đến những sự dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn giấu với
Ðức Kitô trong Thiên Chúa. Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ
anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc: 1 Cr 5, 6b-8
"Anh em hãy
tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự".
Trích thư thứ nhất của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, anh
em không biết sao?: chỉ một tí men là đã đủ làm dậy men cả khối bột! Anh em hãy
tẩy trừ men cũ để nên bột mới anh em là bánh không men. Vì Chiên Vượt Qua của
ta, là Ðức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và
men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật.
Ðó là lời Chúa.
Ca Tiếp Liên
(Ðọc trong Chúa Nhật
Phục Sinh, còn các ngày khác trong tuần Bát nhật thì không buộc đọc)
Các Kitô hữu hãy tiến
dâng
lời khen ngợi hy lễ Vượt
Qua.
Chiên con đã cứu chuộc
đoàn chiên mẹ:
Ðức Kitô vô tội đã hoà
giải tội nhân với Chúa Cha.
Sống và chết hai bên
song đấu cách diệu kỳ,
tướng lãnh sự sống đã
chết đi, nhưng vẫn sống mà cai trị.
Hỡi Maria, hãy nói cho
chúng tôi nghe
bà đã thấy gì trên
quãng đường đi?
Tôi đã thấy mồ Ðức
Kitô đang sống
và vinh quang của Ðấng
Phục Sinh,
thấy các thiên thần làm
chứng,
thấy khăn liệm và y phục.
Ðức Kitô là hy vọng của
tôi đã phục sinh,
Người đi trước chư vị
tới xứ Galilêa.
Chúng tôi biết Ðức
Kitô đã sống lại thật từ cõi chết!
Lạy Chúa, Vua chiến thắng,
xin thương xót chúng con.
Alleluia: 1 Cr 5, 7b-8a
Alleluia, alleluia! -
Lễ Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế vậy chúng ta hãy mừng lễ trong
Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 20, 1-9
"Người phải sống
lại từ cõi chết".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria
Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn
ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu
yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và
chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu". Phêrô và môn đệ kia ra đi
đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước.
Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy
Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ
để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây
băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới
mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh
Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Phục Sinh: Một
Bí Quyết Của Thiên Chúa
"Vì loài người
chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi:
Người đã từ trời xuống
thế...
Người chịu đóng đinh
vào Thập giá vì chúng tôi...
Ngày thứ ba,
Người sống lại như lời
Thánh Kinh...".
Ðó là những điểm trọng
yếu nhất của đức tin Kitô giáo mà ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính tông truyền.
Nghĩa là:
vì ta, Người đã nhập
thể,
vì ta, Người đã chịu
chết,
vì ta, Người đã sống lại.
Nhưng mầu nhiệm Phục
sinh của Chúa Kitô, ta phải hiểu làm sao? Mầu nhiệm đó ảnh hưởng trên đời ta thế
nào?
1. Tranh Tối, Tranh
Sáng, Quanh Một Biến Cố Ðịnh Ðoạt
Các sự kiện xảy đến
trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh đã tạo ra nơi các môn đệ một tâm trạng buồn thảm,
chán ngán và hầu như thất vọng. Cứ quan sát nét mặt ủ dột của hai môn đệ trên
đường Emmau (Lc 24,17) và lắng nghe giọng nói trầm buồn của họ trong câu chuyện
trao đổi với người khách lạ mặt (Lc 24,19-24) thì người ta có thể thấy được nét
thất vọng ê chề của họ sau cái chết bi đát của vị tiên tri thành Nadarét mà họ
đã từng ngưỡng mộ; đồng thời đọc được vẻ hoang mang của họ trước câu chuyện mồ
trống mà mấy người phụ nữ và các môn đệ khác đã chứng kiến. Họ tự hỏi: Chẳng biết
có nên tin hay không? Và cuối cùng Ðức Yêsu đích thực là ai?
Sau ngày thứ Sáu Tuần
Thánh, biết bao tín hữu ở khắp nơi đã phải chạm trán với những vấn nạn tương tự
như hai môn đệ trên đường Emmau. Họ cũng mang một tâm trạng băn khoăn lưỡng lự
như hai ông. Nhưng vấn đề quyết định là: liệu họ có biết lắng tai và mở mắt để
nhìn ra Người? Có mở lòng để đón nhận Người qua lời Thánh Kinh và qua nghi lễ bẻ
bánh? Có gắn bó và tin tưởng vào Người như hai ông khi đối diện với Ðấng vô
hình (Lc 24,27-32)? Nói cách khác: liệu họ có tin vào Ðấng Phục sinh hay không?
Họ có tin rằng vì Người đã sống lại, nên họ cũng sẽ được sống lại như Người? Tất
cả vấn đề là ở đó. Một vấn đề căn bản mà thánh Phaolô đã thẳng thắn đặt ra cho
cộng đoàn Kitô hữu tại Côrintô (1C 15,12-34).
Về biến cố Phục sinh,
các chứng tích duy nhất ta có thể tra cứu đều nằm trong Tân Ước. Theo đó, khi
được nghe loan báo về cuộc Phục sinh, cũng như khi được tiếp xúc với chính Ðấng
Phục sinh, ban đầu các môn đệ đã có những phản ứng bán tín bán nghi (Lc
24,11.39-41), nửa mừng nửa sợ (Mt 28,8; Mc 16,8), và phải nói: hoài nghi và hoảng
sợ nhiều hơn là tin tưởng và vui mừng. Tiêu biểu nhất cho thái độ hoài nghi ấy
là tông đồ Tôma mà tất cả chúng ta đều biết chuyện (Yn 20,24-29). Tựu trung, đó
là một phản ứng rất tự nhiên của con người, khi tiếp xúc với những gì là thiêng
thánh hoặc những thực tại thần linh. Mầu nhiệm Phục sinh là một trong những thực
tại đó.
2. Phục Sinh: Một Bí
Quyết Của Thiên Chúa
Ngay từ đầu, trong các
bản tuyên tín kỳ cựu, cộng đoàn Kitô hữu đã lần lượt kể liên tiếp nhau: việc
Chúa Yêsu chịu chết trên Thập giá, chịu táng xác trong mồ, và ngày thứ ba sống
lại như Lời Thánh Kinh, sau đó Người hiện ra với Phêrô, rồi với nhóm Mười Hai
tông đồ... (1C 15,3-7). Ðó là những sự kiện đã xảy ra trong không gian và thời
gian. Tuy nhiên, trong lúc đám tang Ðức Yêsu diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật,
trước mắt nhiều người gồm cả bạn lẫn thù, thì chính việc Phục sinh của Người lại
là một bí mật... Không một người nào đã có mặt tại đó để xem sự việc xảy ra làm
sao, cũng giống như khi Thiên Chúa dựng nên muôn loài từ nguyên thủy: thì lúc ấy
cũng chẳng có ai đã đứng xem việc Người làm. Trong cả hai trường hợp, ta đều đụng
tới một bí quyết của Thiên Chúa. Cả hai trường hợp đều là những hành động sáng
tạo của Người hướng về nhân loại và lịch sử thế giới, để lập nên một trật tự mới
mẻ.
Các tài liệu Kinh
Thánh liên quan tới biến cố Phục sinh, tựu trung phản ảnh lại hai truyền thống:
Truyền thống về ngôi mộ trống và truyền thống về các cuộc hiện ra của Ðấng Phục
sinh. Ngôi mộ trống là một tang chứng vật chất, mà mọi người bấy giờ có thể kiểm
chứng. Quả thật, theo thánh sử Matthêu, toán lính canh mồ đã thấy mồ trống, đã
gặp các phụ nữ đến viếng mồ mà không còn thấy Chúa Yêsu nữa (Mt 28,2-15). Nhưng
ngôi mộ trống ấy không phải là một bằng cớ hiển nhiên và có giá trị minh chứng
tuyệt đối cho việc Phục sinh của Chúa Yêsu. Ngôi mộ trống tự nó có thể giải
thích nhiều cách, trong đó có cả giả thuyết cho rằng các môn đệ đã đến lấy trộm
xác Người ban đêm, như chính người Dothái đã tung ra, để khích bác cộng đoàn
Kitô hữu (Mt 28,11-15). Chúng ta phải hiểu đúng ý nghĩa của hai truyền thống ấy.
Ðó là những truyền thống đức tin của cộng đoàn tiên khởi: cộng đoàn tuyên xưng
đức tin trong các buổi họp mừng phụng vụ và các giờ giảng dạy giáo lý.
Chính các tông đồ và
những chứng nhân khác đã chia sẻ cho cộng đoàn kinh nghiệm đức tin của mình,
sau khi họ được gặp gỡ Ðấng Phục sinh xuất hiện. Làm như thế các ông kêu mời và
tạo điều kiện cho người khác tới gặp gỡ Ðấng Phục sinh đang hiện diện trong cộng
đoàn tín hữu, qua lời Thánh Kinh và nghi thức bẻ bánh, mà cộng đoàn chia sẻ với
nhau trong tình huynh đệ. Việc Ðấng Phục sinh tự tỏ mình ra với những người đã
được Thiên Chúa chọn trước làm nhân chứng như thế (Cv 10,41) quả là một ân huệ
do sáng kiến của chính Người từ bên ngoài ban cho họ, chứ không phải là một hiện
tượng tâm lý do những mong chờ chủ quan tưởng tượng ra. Thực thế, sau ngày thứ
Sáu Tuần Thánh, các môn đệ của Ðức Yêsu không còn chờ mong về ước vọng gì nữa cả
(Lc 24,21). Thảm bại của Thập giá trên Núi Sọ đã làm cho họ hoàn toàn vỡ mộng và
thất vọng ê chề. Chính Ðức Yêsu và sự nghiệp của Người đáng lẽ ra cũng đã bị lịch
sử chôn vùi trong quên lãng, hay cùng lắm cũng chỉ được nhắc lại như một trong
muôn vàn sự việc thông thường khác, nếu sau ngày thứ Sáu Tuần Thánh, Người
không được Thiên Chúa cho sống lại vinh hiển.
Quả thực, đã xảy ra một
cái gì rất hệ trọng, làm đảo ngược tình thế, tạo ra một hoàn cảnh mới cho thân
thế và sự nghiệp Ðức Yêsu, gây được niềm tin mới cho các môn đệ Người. Các bản
văn Thánh Kinh ta đọc trong mùa Phục sinh, chính là những lời tuyên xưng đức
tin ấy, những bài công bố Tin Mừng về những hành động ngược đời và bất ngờ của
Thiên Chúa. Người ta không thể coi đó như những biên bản của cảnh sát lấy khẩu
cung cho tòa án, hay những tài liệu thông thường để viết sử. Nếu là sử liệu,
thì đó chính là chất liệu để viết nên lịch sử cứu độ làm nguồn mạch diễn nghĩa
và định hướng cho lịch sử loài người. Lịch sử cứu độ bao hàm nhiều bí quyết của
Thiên Chúa, trong đó biến cố Phục sinh là bí quyết hệ trọng nhất, mà ta phải đọc
với cặp mắt đức tin, để khai triển ra các ý nghĩa bằng những suy tư thần học. Vậy
mầu nhiệm Phục sinh hàm chứa những ý nghĩa nào?
3. Người Ðã Sống Lại
Vì Ta
Trước tiên, đối với bản
thân Ðức Yêsu, Phục sinh có nghĩa là trở lại nếp sống cũ, như Người đã sống cho
đến ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Chính Người, lúc bình sinh, đã làm cho con gái ông
Yairô (Mc 5,35-43), con trai bà góa thành Naim (Lc 7,11-17) và Lazarô, em trai
của hai bà Matta, Maria ở làng Bêthania, sống lại như thế. Họ đã chết, nhưng đã
được Người dùng lời nói toàn năng kêu gọi chỗi dậy và trả lại cho nếp sống cũ.
Sau đó, họ lại chết như mọi người. Cuộc Phục sinh của Ðức Yêsu khác hẳn. Chính
Thần Khi của Chúa Cha và sức mạnh vô biên của tình yêu Chúa Con đối với Cha
mình, khi Người tự nguyện chịu chết để tuân hành thánh ý Chúa Cha và chuộc tội
thế gian, đã làm cho thân xác Người từ cõi chết sống lại và đã tạo nên một hoàn
cảnh mới cho Người. Người đã vượt qua từ thân phận tôi đòi trong kiếp sống trần
thế đến thiên chức Chúa Tê, được siêu thăng để bá chủ muôn loài, hầu làm rạng rỡ
Chúa Cha (Ph 2,7-11). Thân xác Người chính là thân xác loài người chúng ta được
thần linh hóa, được nâng lên, được tái tạo. Phục sinh là một cuộc tạo dựng mới
nơi con người Ðức Yêsu và từ đó lan tràn sang chính chúng ta và cả thế giới.
Hoàn cảnh mới có những
định luật mới và đòi hỏi những quan hệ mới. Ðức Kitô ngày Chúa nhật Phục sinh
và Ðức Yêsu ngày thứ Sáu Tuần Thánh vẫn là một. Thân xác còn mang thương tích
tuy lành rồi đã giúp các môn đệ nhận ra Người (Yn 20,27). Nhưng thân xác ấy đã
được thần-trí-hóa, không còn bị chi phối bởi các định luật vật lý thông thường
nữa, nhưng từ nay được thấm nhiễm Thần Khí tự do. Từ nay, phải tiếp xúc với Người
một cách khác và mới mẻ. Khi nghe Chúa gọi tên mình, Maria Mađalêna đã nhận ra
Người, và thưa lại: "Rabboni, lạy Thầy!" và muốn ôm chân Người mà hôn
kính (Yn 20,16-17; Mt 28,9). Nhưng Ðấng Phục sinh đã nói gì với nàng? -
"Con đừng giữ Ta lại cho con nữa, vì Ta chưa lên với Cha Ta; nhưng hãy đi
đến với anh em Ta và nói với họ: Này Ta lên với Cha Ta và cũng là Cha các
con..." (Yn 20,17); "... hãy đi loan báo cho các anh em Ta và bảo họ:
hãy đến gặp Ta tại Galilêa" (Mt 28,10). Qua mầu nhiệm Phục sinh, Người được
siêu thăng lên với Chúa Cha, nhưng Người cũng đi đến với các môn đệ. Thân xác
Người đã được thần-trí-hóa, nên có thể hiện diện một cách sâu xa mật thiết
trong lòng mọi người tín hữu và ở giữa mọi nhóm nhân danh Người họp nhau lại
(Mt 18,20). Ngoài ra, Người còn có thể hiện ra một cách phổ cập khắp mọi nơi,
trong mọi thời với Giáo Hội cho đến tận thế (Mt 28,20b). Từ nay ai muốn gặp
Chúa Phục sinh thì phải đến với anh em Người trong Giáo Hội, nhất là khi cộng
đoàn tín hữu cử hành bí tích và phụng vụ Lời Chúa. Và ai đã gặp Chúa nơi đó rồi,
đều có sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục sinh cho anh em như Maria Mađalêna đã
làm. "Tôi đã thấy Chúa" (Yn 20,17-18), tôi đã được cảm nghiệm Người.
Người đã phục sinh để
lên với Chúa Cha, nhưng cũng là để ở gần với ta hơn trong thế giới này. Vì thế,
Giáo Hội tuyên xưng rằng: "Người đã sống lại vì ta", sau lời tuyên
xưng: "Vì ta, Người đã chịu chết; vì ta, Người đã nhập thể". Thật vậy,
khi Con Thiên Chúa mặc lấy xác phàm, thì mọi thực tại trần gian đã được liên kết
mật thiết với Thiên Chúa, để Người lôi kéo tất cả lên với Người. Ðức Kitô được
siêu thăng trong mầu nhiệm Phục sinh, là để siêu thăng nhân loại lên hàng con
cái Thiên Chúa. Chỉ sau khi Phục sinh, Người mới bắt đầu gọi các môn đệ là anh
em mình (Yn 20,17; Mt 28,10) theo một nghĩa sâu đậm và phong phú, vì từ đó, Người
gọi Thiên Chúa là Cha mình và Cha của các môn đệ cùng một trật. Thánh Phaolô và
thánh Yoan gọi Ðức Kitô Phục sinh là Trưởng tử mọi loài thọ sinh, là Anh Cả của
một đoàn em (Rm 8,29; 1C 15,20; Co 1,18; Kh 1,5); nghĩa là Người sống lại đầu
tiên như bông hoa đầu mùa nở giữa vườn nhân loại đang chờ ngày phục sinh. Người
là Thủ lãnh Giáo hội (Ep 1,22-23; Co 1,15-20) thì cũng trở thành nguyên lý làm
cho vạn vật được siêu thăng, đúng như lời đã nói: "Khi bị kéo lên khỏi mặt
đất, Ta sẽ lôi tất cả lên cùng Ta" (Yn 12,32). Với một trực giác thần học
sâu sắc, thánh Yoan cũng như thánh Phaolô đã hiểu rằng: chết và sống lại là hai
mặt của một mầu nhiệm duy nhất: mầu nhiệm Vượt qua, mầu nhiệm của Con Thiên
Chúa tự nguyện đi xuống đáy sâu của hư vô, khốn khổ và ô nhục, để từ đó vươn
lên đỉnh cao của vinh quang và sức sống thần linh (Ph 2,6-11). Bản tính thần
linh của Ðức Yêsu được biểu lộ ra trên thập giá (Yn 8,28), khi Người dùng cái
chết tự nguyện để minh chứng tình yêu tột độ đối với Chúa Cha và anh em loài
người. Thiên Chúa chính là tình yêu (1Yn 4,8-16), vì thế tình yêu mang tính chất
thần linh mà Ðức Kitô biểu lộ trên thập giá, không thể tàn lụi và trở thành hư
vô, nhưng chứa trong mình mầm mống vinh quang và sức sống vô tận, là những thực
tại đã bừng lên và trào ra trong biến cố Phục sinh. Vì thế, Phục sinh là trạng
thái Khải huyền xán lạn của Thập giá. Thập giá mà ta mang trong tâm hồn và bóng
nó bao trùm khắp vũ trụ, đang lập loè ánh lửa Phục sinh.
Ðức Kitô đã sống lại
vì ta, để ở lại với ta luôn mãi (Mt 28,20). Ðặc biệt tác động của Người quy hướng
về Giáo hội. Những lần xuất hiện giữa các môn đệ, Người muốn khơi dậy niềm tin
nơi các ông. Ðấy là một niềm tin mới mẻ. Từ ngày thứ Sáu Tuần Thánh, niềm tin của
các ông như kẻ đã chết: vì kẻ thì đã phản bội, người thì bỏ trốn đi, và tất cả
đều thất vọng ê chề (Lc 24,17-24). Những lần tiếp xúc đầu tiên với Ðấng Phục
sinh hoặc những khi được nghe nói về việc Người sống lại, các ông còn hoài
nghi, sợ sệt và do dự. Chính Ðấng Phục sinh đã tác động cách nhiệm mầu trên tâm
hồn các ông, để làm cho các ông tin vào Người. Ðó là đức tin Phục sinh, vì chẳng
những lòng tin của các ông được phục hồi và tái tạo, mà còn vì một lý do hệ trọng
khác: từ nay đối tượng và nội dung của đức tin Kitô hữu chính là mầu nhiệm Phục
sinh. Vì Thiên Chúa mà người Cựu Ước tin nhận là Cha của Ðức Yêsu Kitô, đã làm
cho Người sống lại từ cõi chết nhờ năng lực Thánh Thần (Rm 4,24; 6,4; 8,11; Co
2,12; 1P 1,21). Qua biến cố Phục sinh, Ðức Yêsu thành Nadarét mà dân chúng cũng
như các môn đệ ngưỡng mộ như một vị tiên tri có uy tín (Lc 24,24) nay lại xuất
hiện biểu dương trước mắt trần gian như Con Thiên Chúa, như Chúa Tể và như Ðấng
Thiên Sai Cứu thế mang bản chất thần linh (Rm 1,3-4; Cv 2,32-36). Người là
trung tâm điểm của lịch sử, là tột đỉnh của mạc khải (Hr 1,2), là nguồn phát xuất
ơn cứu độ nhân trần. Trong Kinh Tin Kính tông truyền, mầu nhiệm Phục sinh sẽ là
hệ điểm chủ yếu cho các tín điều khác.
Chúa Kitô Phục sinh đã
gây dựng đức tin cho các tông đồ, thì chính Người cũng sẽ tiếp tục khơi động
lên niềm tin mới, niềm tin Phục sinh trong lòng những kẻ nghe các ông rao giảng
về Người, vì đức tin bắt nguồn và chớm nở từ chỗ nghe dân chúng nói về Ðấng Phục
sinh (Rm 10,17). Do đó, mọi người hôm nay được ban cho ơn đức tin qua trung
gian của Giáo hội tông truyền. Ðấng Phục sinh đã sáng tạo ra Giáo hội, thì cũng
chính Người nuôi dưỡng Giáo hội bằng Lời Người và Thánh Thể, là "bí tích đức
tin" tuyệt hảo.
4. Sống Niềm Tin Phục
Sinh Hôm Nay
Ðức tin và đời sống
Kitô hữu bắt nguồn từ biến cố Phục sinh. Biến cố ấy đã làm xuất hiện một mẫu
người mới trong những tương quan mới với Thiên Chúa và anh em đồng loại. Quả thật,
đây là một cuộc tái tạo nơi con người Ðức Yêsu và từ đó lan tràn sang chúng ta
và cả thế giới. Thánh Phaolô viết: "Anh em đã chết, và đời sống mới của
anh em gắn liền với Ðức Kitô và được bao bọc bởi mầu nhiệm Thiên Chúa" (Co
3,3). "Anh em đã được thanh tẩy trong Ðức Kitô, nghĩa là chịu mai táng với
Người qua nghi thức tượng trưng dìm anh em trong cái chết, để từ đó anh em nhô
đầu vươn lên nếp sống mới, tương tự như Ðức Kitô đã được quyền năng của Chúa
Cha làm cho sống lại" (Rm 6,4). Quả thật, chúng ta đã được Chúa Cha tái
sinh trong Nước Rửa tội, được ơn Chúa Thánh Thần thêm sức củng cố, và được Lời
và Mình, Mát Chúa Yêsu nuôi dưỡng. Chúng ta đang hiệp thông với nhau trong Giáo
hội như một dấu chỉ giữa thế giới loài người.
Ðối với ta, sống niềm
tin Phục sinh hôm nay, có nghĩa là để cho Thiên Chúa tiếp tục làm những điều bất
ngờ và mới mẻ. Các môn đệ ngày xưa đâu có ngờ rằng Thiên Chúa sẽ làm cho Ðức
Yêsu sống lại sau ngày thứ Sáu Tuần Thánh.
Có những lúc ta gặp thất
bại và tủi nhục đến muốn chết, có những lúc ta bị dồn vào bước đường cùng không
thể làm gì được nữa... nếu lúc đó, ta ngước mắt nhìn lên Thập giá Chúa Kitô và
nhớ lại rằng: từ cơn thảm hại ấy, Thiên Chúa đã làm phát sinh ra sự sống mới và
niềm hy vọng mới..., thì chính lúc đó ánh sáng Phục sinh sẽ len lỏi vào cõi
lòng trống rỗng và cô quạnh của ta. Ta tưởng như đã hết rồi, nhưng thực sự, bên
kia bờ giới hạn của ta, còn có Thiên Chúa, còn có tất cả. Người là Ðấng có khả
năng hoàn sinh kẻ chết và gọi cái có từ cõi không (Rm 4,17). Chính lúc đó, tia
sáng Phục sinh làm nổi dậy trong lòng ta niềm hy vọng, khi ta không còn gì để
hy vọng nữa (Rm 4,18). Ðó là một hy vọng hoàn toàn mới mẻ, một niềm tin Phục
sinh từ cõi lòng héo khô tuyệt vọng.
Có những lúc ta bị kềm
kẹp trong tội lỗi và thói hư tật xấu, ta đã chết trong tâm hồn. Nhưng, khi ta
quyết tâm đứng dậy, để vươn tới một đời sống thanh cao, thánh thiện hơn, thì
chính lúc đó mầu nhiệm Phục sinh đang tái diễn trong ta. Tâm tình thống hối ăn
năn là một ơn Phục sinh, làm cho ta sống lại trong ân sủng và thanh luyện tâm hồn
ta cho sạch mọi vết nhơ.
Có những lúc ta bị vu
oan, giáng họa, và bị đối xử tàn tệ; ta bị ghét, nhưng không ghét lại kẻ thù
ta. Những lúc ấy, ta đang sống tinh thần Phục sinh, vì ta chứng minh cho mọi
người thấy rằng: tình yêu mạnh hơn hận thù, tình yêu mạnh hơn cái chết, giống
như Chúa Kitô đã yêu thương tột độ đến chịu chết và còn tha cho kẻ giết mình,
nên được Thiên Chúa làm cho sống lại vinh hiển.
Có những lúc ta đối diện
với những kẻ tội lỗi hoặc không cùng chia sẻ một niềm tin..., ta tưởng như họ
hoàn toàn hư hỏng, hoàn toàn xa lạ. Nếu ta nghĩ được rằng: họ cũng là anh em, họ
có thể thay đổi, -thế nào và lúc nào, ta không biết, vì Thiên Chúa hành động bất
ngờ- thì lúc đó, ta đang sống niềm tin Phục sinh, tuyên xưng rằng Thiên Chúa có
khả năng hoàn sinh kẻ đã chết - chết trong thể xác hay chết trong tâm hồn.
Mầu nhiệm Vượt qua của
Chúa Kitô cũng đã mạc khải cho ta bản chất sâu xa của con người, gồm cả cái nhục
lẫn cái vinh, cả sự thấp hèn lẫn điều cao trọng. Con người mang trong mình một
hình ảnh thần linh, nhưng lại không có khả năng sống tương xứng với hình ảnh ấy,
ta phải nhìn nhận sự bất lực đó, để khỏi kiêu căng vô lối, đồng thời ý thức về
định hướng cao cả của đời mình để không bao giờ thất vọng. Biến cố Phục sinh đã
chứng tỏ cho ta: yếu tố thần linh có thể thắng và biến cái bất lực thành sức mạnh
vô song.
Bởi đó, niềm tin Phục
sinh đem lại cho ta một cái nhìn lạc quan, một thái độ sống phấn khởi và hòa đồng,
vì Chúa Kitô đã sống lại, đã toàn thắng tội lỗi để ban hòa giải cho mọi người.
Giảng Lễ
Làm thế nào để tất cả
chúng ta ý thức được tầm mức quan trọng của việc Chúa sống lại, đó là mục đích
của Phụng vụ hôm nay và của mùa Phục sinh này. Không ý thức được tầm quan trọng
đó, chúng ta sẽ không tha thiết với việc kết hợp cùng Ðức Kitô Phục sinh. Và
không kết hợp với Người, chúng ta không có đời sống mới; cuộc đời của ta sẽ
hoàn toàn vô ích về phương diện tôn giáo. Chính thánh Phaolô đã viết: nếu Ðức
Kitô đã không sống lại, đức tin của anh em trở thành hão huyền và chúng ta thật
là những người dại dột nhất. Nói cách khác: vì đạo của chúng ta xây trên nền tảng
niềm tin Chúa sống lại, nên chúng ta phải chắc chắn về niềm tin này mới hy vọng
xây dựng được một đời sống đạo đức vững vàng. Vậy chúng ta hãy theo Phụng vụ của
Giáo hội để thêm ý thức về niềm tin ở việc Chúa Phục sinh.
Trước hết, Phụng vụ lần
lượt trích dẫn các đoạn văn Kinh Thánh nói về việc Chúa sống lại. Ba bài đọc
hôm nay đều nói về việc đó. Bài Phúc Âm trình bày việc Chúa Phục sinh là một biến
cố rõ ràng nhưng quá bất ngờ đối với tất cả mọi người, đặc biệt đối với những
người tin Chúa. Chúa đã khẳng định cách công khai và không úp mở cho biết Người
sẽ bị nộp, bị đánh, bị treo trên Thập giá, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Nhưng
Phêrô chỉ để ý đến đoạn đầu. Ông khăng khăng xin Chúa đừng làm như vậy, đừng để
mình bị bắt. Ông không để ý đến câu cuối nói rằng ngày thứ Ba Người sẽ sống lại.
Các tông đồ khác cũng chẳng để ý hơn. Họ có nghe nói, nhưng không tin. Nói đúng
hơn, họ không muốn tin. Nên vừa thấy Chúa bị bắt, họ đã bỏ Chúa, chối Chúa, muốn
trở về làng cũ, chấm dứt lý tưởng theo Chúa. Ít nhất, họ cũng đã rút lui vào
nhà, đóng kín cửa, không dám ló mặt ra. Họ chỉ nhớ Ðức Kitô chịu chết: người
Dothái có thể sắp bắt đến họ. Lời Chúa nói rằng Người sẽ Phục sinh không còn ở
trong đầu óc họ một tí nào nữa. Phúc Âm hôm nay nói rõ: các ông chưa hiểu rằng
Người phải sống lại từ cõi chết.
Kẻ thù của Chúa cẩn thận
hơn. Họ nhớ như vậy nên xin Philatô cho đặt lính gác mồ. Họ tưởng rằng có thể
ngăn chặn không cho Chúa phục sinh. Nhưng Chúa đã làm việc thật kỳ diệu trước mắt
thiên hạ, cả những kẻ tin cũng như không tin Người. Người làm việc thật ngoạn mục
để ai tin thì được thấm thía tình Người yêu thương họ và để ai không tin phải
bàng hoàng khiếp sợ.
Việc Chúa phục sinh vì
thế không phải là chuyện mấy tông đồ bịa đặt ra. Họ không còn đầu óc để nhớ lại
Lời Chúa nói trước, thì làm sao có được trí tưởng tượng xếp đặt khéo léo câu
chuyện sống lại. Cả Phêrô, cả Yoan đã nhận được tin Thầy sống lại. Họ được
Mađalêna báo cho biết xác Thầy không còn ở trong mồ nữa. Hai ông đã ra đi, người
đi chậm, người chạy nhanh. Nhưng cả hai đều đã quan sát rõ ràng và tỉ mỉ; các
khăn liệm còn đó, nhưng Chúa thì ở đâu? Phải đợi khi nhận được nhiều bằng chứng
khác, thêm vào bằng chứng mồ trống, và nhất là, như lời Phêrô nói hôm nay, khi
được Chúa sống lại hiện ra trò chuyện, ăn uống, dạy dỗ thêm cho mình, và môn đệ
mới thật sự tin Chúa sống lại. Như vậy, niềm tin của các tông đồ không những đã
căn cứ vào Lời Chúa báo trước, nhưng nhất là vào các sự kiện và bằng chứng rõ
ràng của nhiều người và của nhiều nhóm người khác nhau. Ðức tin đó sáng suốt vững
vàng đến nỗi có thể nói tất cả đã bằng lòng chịu chết để làm chứng Chúa đã sống
lại.
Chúng ta không đặt nặng
vấn đề này. Tin Chúa từ bé, chúng ta thuộc lòng Kinh Tin Kính và năm nào cũng mừng
lễ Phục sinh; nên chẳng bao giờ đặt vấn đề Chúa sống lại. Hôm nay có nhắc lại sự
kiện lịch sử ấy, chẳng qua là để như lời thánh Phêrô nói, sẵn sàng có thể trả lời
cho người khác về niềm tin của mình. Ðối với chúng ta, công việc quan trọng hơn
là tìm ra liên lạc giữa việc Chúa sống lại và đời sống đạo đức của ta. Thánh
Phaolô trong bài thư hôm nay cho ta một ý tưởng có thể trở thành ánh sáng, giúp
ta suy niệm thích hợp. Người viết: sự sống của chúng ta ẩn giấu với Ðức Kitô ở
trong Thiên Chúa.
Ta biết Ðức Kitô đã sống
lại. Người đang sống trong Thiên Chúa. Và Ðức Kitô vừa là người vừa là Chúa.
Nơi Người có cả bản tính Thiên Chúa lẫn bản tính loài người. Người là Ngôi Hai
nhập thể để là người ở giữa chúng ta. Hơn nữa, Người đã mang lấy tất cả tội lỗi
của loài người vào thân mình để đem theo lên cây Thánh giá; Người chịu đóng
đinh thân thể và chết đi như vậy, là để tiêu diệt bản tính tội lỗi loài người của
ta, để khi sống lại, Người đổi mới bản tính ấy để bây giờ nó được ở nơi vinh hiển
phục sinh. Khi thánh Phaolô viết: chúng ta bây giờ được ẩn giấu với Ðức Kitô
trong Thiên Chúa, là có ý nói đến điều ấy. Thánh nhân muốn chúng ta hiểu rằng Ðức
Kitô Phục sinh đã mang theo bản tính loài người lên ở với mình trong Thiên
Chúa. Và như vậy, ai kết hợp với thân thể Ðức Kitô, thì cũng được ở với Người
trong Thiên Chúa. Ðó là điểm then chốt, độc đáo của đạo ta. Kitô giáo không phải
là tôn giáo ở đó mỗi người trực tiếp giao thiệp với Thiên Chúa mà thôi; nhưng
còn là đạo để ai nấy có thể kết hợp với Ðức Kitô, hầu ở trong Ðức Kitô người ta
mới gặp được Thiên Chúa, giao thiệp được với Người và làm đẹp lòng Người. Mà Ðức
Kitô làm sao để mọi người mọi thời có thể kết hợp được với mình, nếu thân thể
Người vẫn chỉ là một thân thể sống ở một nơi và trong một thời? Không ai có thể
ở trong người nào, khi hai người đang còn sống trong xác thịt. Nhưng bây giờ
thân xác Ðức Kitô đã phục sinh, đã trở thành thân thể mầu nhiệm, nên bây giờ ta
đã có thể ở trong Người bằng tinh thần, chờ ngày được ở trong Người bằng cả xác
thịt sống lại nữa.
Mầu nhiệm Phục sinh vì
thế là nền tảng của đạo mới. Thân thể Chúa Phục sinh là đền thờ mới, dựng nên
sau ba ngày đền thờ cũ đã bị phá hủy. Chính Ðức Kitô đã tuyên bố khi Người đuổi
phường buôn bán ra khỏi đền thờ Yêrusalem. Người khẳng định: sau ngày Người sống
lại, chẳng đền thờ bằng gạch, bằng đá, bằng sắt nào có giá trị nữa. Ai muốn thờ
phượng Thiên Chúa Cha, phải ẩn náu ở trong thân thể phục sinh của Người, là đền
thờ đạo mới. Và như vậy thật phải, vì chúng ta có thể nào đẹp lòng Thiên Chúa
được, nếu không ở trong Con Người phục sinh của Ðức Kitô? Vì chỉ ở nơi đó mới
có ơn tha tội và cứu độ. Ðồng thời, thân xác phục sinh của Ðức Kitô bảo đảm cho
sự sống lại của thân xác chúng ta sau này, nếu ngay bây giờ ta đã bắt đầu sống
kết hợp với Chúa Phục sinh.
Vấn đề phải đặt ra trước
mắt là phải làm thế nào để kết hợp được với Ðức Kitô phục sinh, để hiện tại đời
sống đạo của ta có giá trị trước mặt Chúa và để sau này thân xác chúng ta cũng
được phục sinh? Chỉ có một cách là biết vượt qua như Ðức Kitô, là tham dự vào mầu
nhiệm vượt qua của Người. Mà vượt qua có nghĩa là chế ngự xác thịt, tội lỗi và
thế gian để vươn lên cùng Thiên Chúa. Lễ Phục sinh là lễ Vượt qua mới. Người dự
lễ Phục sinh phải chấm dứt đời sống lầm than, tội lỗi và bắt đầu cuộc đời mới
chân thành và thánh thiện. Chúng ta xem gương các môn đệ: sau khi tin Thầy đã sống
lại, họ đã thay đổi như thế nào, để trở thành những con người xây dựng một nếp
sống mới và một thế giới mới. Dĩ nhiên, họ đã phải chờ Thần Trí của Chúa Phục
sinh nhập vào mình để trở nên những con người mới như vậy. Chúng ta cũng sẽ nhận
được Thánh Thể ban Thần Trí của Ðức Kitô Phục sinh.
Vậy hôm nay và từ nay
chúng ta hãy đem tinh thần và cảm nghĩ mới vào tất cả đời sống, để đổi mới đời
ta, đổi mới xã hội bằng tinh thần của Ðức Kitô Phục sinh. Như vậy lễ Phục sinh
hằng năm phải như là lễ Phục sinh của các tông đồ ngày trước: hay tin Chúa sống
lại các môn đệ đã nhớ lại Lời Người và gương Người đã sống để dần dần thay đổi
tất cả tâm tư, nếp sống và xã hội của mình. Ước gì hôm nay chúng ta cũng lãnh
nhận được ơn Phục sinh mạnh mẽ như vậy!
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật Phục Sinh, Năm
ABC
Bài đọc: Acts
10:34, 37-43; Col 3:1-4; Jn 20:1-9.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa
Giêsu đã sống lại từ cõi chết.
Để hiểu niềm vui của Tin
Mừng Phục Sinh, chúng ta cần so sánh hai thái độ của các tông đồ: nỗi thất vọng
của các ông khi phải đối diện với Cuộc Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu;
các ông đã sợ hãi và bỏ trốn hết vì sợ liên lụy: Chúa chết hết truyện. Nhưng nỗi
thất vọng của các ông được bừng lên thành niềm hy vọng của Ngày Phục Sinh: vì
Chúa sống lại, mọi biến cố của quá khứ cùng sống lại, được nhìn và mang ý nghĩa
với Chúa Phục Sinh.
Các Bài Đọc hôm nay tập
trung vào các nhân chứng của Mầu Nhiệm Phục Sinh và Tin Mừng họ làm chứng và
rao giảng. Trong Bài Đọc I, Phêrô, từ một con người chối từ Chúa 3 lần trong Cuộc
Thương Khó của Ngài, giờ can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu trước mặt mọi người.
Điều đã cải biến ông là Tin Mừng Phục Sinh: Nếu Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại,
quyền lực thế gian đã không thắng nổi quyền lực Thiên Chúa, chẳng còn gì để sợ
hãi nữa. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Côlossê nhắc nhở cho các tín hữu biết hậu
quả của Mầu Nhiệm Phục Sinh mang lại: Họ mang trong mình mầm sống của Đức Kitô
Phục Sinh; mầm sống này đòi hỏi họ phải luôn biết tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu
của Nước Trời, đừng chỉ bằng lòng với những giá trị của hạ giới là của thế gian
này. Họ phải sống làm sao để có ngày được cùng sống lại với Chúa Kitô phục
sinh. Trong Phúc Âm, Bà Maria Magdala ra thăm mộ Chúa từ sáng sớm khi trời còn
tối; Bà không tìm thấy xác Chúa nên vội chạy về báo cho các môn đệ biết. Phêrô
và Gioan, khi biết được, đã vội vã chạy đến mộ. Các ông thấy và các ông đã tin
những gì Chúa tiên báo trước khi Ngài chịu chết.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tin Mừng về Chúa Giêsu.
Trình thuật của Sách
Tông Đồ Công Vụ chỉ tập trung trong những biến cố chính của cuộc đời Chúa
Giêsu; một phần có lẽ vì rao giảng cho thế hệ cùng thời với Chúa, một phần vì bản
tính đơn sơ, chất phác của Phêrô.
1.1/ Ông Phêrô làm chứng
cho Chúa Giêsu.
(1) Về cuộc đời của
Ngài: Ông Phêrô nhắc lại những gì khán giả biết về Chúa Giêsu:
- Gioan Tẩy Giả là Tiền
Hô của Thiên Chúa: “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Judah, bắt
đầu từ miền Galilee, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng.” Phêrô chỉ nhắc lại
cuộc đời công khai rao giảng của Chúa.
- Phêrô muốn nhắc lại
cho khán giả cuộc đời Chúa Giêsu cách tổng quát: lai lịch, biến cố Rửa Tội tại
sông Jordan, các phép lạ chứng tỏ uy quyền của Ngài. “Quý vị biết rõ: Đức Giêsu
xuất thân từ Nazareth, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn
phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ
bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người.”
(2) Về cái chết và sự
sống lại của Ngài:
- Phêrô làm chứng cho
sự chết của Đức Kitô trên Thập Giá: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc
Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Jerusalem. Họ đã treo Người
lên cây gỗ mà giết đi.”
- Phêrô làm chứng cho
sự phục sinh của Đức Kitô: “Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy,
và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt
những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã
được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại.”
1.2/ Bổn phận của các
Tông-đồ: Chúa chọn các ông là cho một sứ vụ;
giờ đây đã đến lúc các ông phải thay Ngài để rao truyền Tin Mừng cho muôn dân.
Hai bổn phận chính của các Tông-đồ:
(1) Phải rao giảng:
“Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân.”
(2) Phải long trọng
làm chứng hai điều:
- Chính Người là Đấng
Thiên Chúa đặt làm thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết.
- Chúa Giêsu là Đấng
Thiên Sai mà các tiên tri đã loan báo: “Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người
và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội."
Lời của tiên tri Isaiah trong các Bài ca về Người Tôi Trung của Thiên Chúa mà
chúng ta nghe trong Tuần Thánh là căn bản của lời chứng này.
2/ Bài đọc II: Nguyên lý của đời sống mới: kết hợp với Đức Kitô phục sinh.
2.1/ Thượng giới và hạ giới:
“Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô,
nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu
Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng
chú tâm vào những gì thuộc hạ giới.”
- Thượng giới là Thiên
Đàng nơi Đức Kitô đang sống với Thiên Chúa; hạ giới là trần gian nơi con người
chúng ta đang sinh sống. Chúa Giêsu cũng đã đề cập đến sự cách biệt này khi
tranh luận với người Do-thái: "Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng
giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này.
Tôi đã nói với các ông là các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết. Thật vậy, nếu
các ông không tin là Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết."
- Vấn đề của con người
hiện đại là đang quá chú tâm đến hạ giới: nhà cửa sang trọng, xe cộ mắc tiền,
hưởng thụ các thú vui vật chất … Dĩ nhiên, con người cần phải chú tâm đến các vấn
đề ăn, uống, ở … nhưng không đến nỗi gạt bỏ hay không chút quan tâm đến các giá
trị của thượng giới.
2.2/ Sự sống mới của Đức
Kitô đang tiềm tàng nơi các tín hữu: “Thật vậy,
anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi
Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất
hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.”
Làm sao biết có sự sống
mới này đang tiềm tàng nơi con người? Thứ nhất, qua tấm áo trắng của Bí-tích Rửa
Tội, người Kitô hữu được “mặc lấy” toàn thể Đức Kitô: cả sự chết lẫn sự phục
sinh của Ngài. Thứ đến, qua Bí-tích Thánh Thể, người Kitô hữu được tháp nhập
vào thân thể của Ngài. Vì có sự sống mới này trong người, các Kitô hữu phải từ
bỏ nếp sống cũ với các tội lỗi của nó, để sống đời sống mới, đời sống ân sủng
và nhân đức như Đức Kitô. Khi con người sống kết hợp với Đức Kitô, họ có thể thốt
lên như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi, mà là chính Đức Kitô sống
trong tôi.”
3/ Phúc Âm: Ngôi mộ trống
3.1/ Sức mạnh của tình
yêu: Tác giả Sách Diễm Ca ca tụng tình yêu: “Nước
lũ không dập tắt nổi tình yêu, sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp. Ai đem hết gia
tài sự nghiệp mà đổi lấy tình yêu,
ắt sẽ bị người đời khinh dể.”
ắt sẽ bị người đời khinh dể.”
(1) Chúa Giêsu yêu
Mary Magdala: Bà là người được Chúa Giêsu chữa cho khỏi bảy quỉ. Đối với con
người, chẳng có gì là đáng yêu trong người đàn bà này; nhưng đối với Thiên
Chúa, Ngài thương con cái mình bị ma quỉ xiềng xích. Từ lúc được lành bệnh, Bà
luôn theo Chúa Giêsu, và đứng dưới chân Thập Giá khi Ngài hấp hối.
(2) Bà Mary Magdala
yêu Chúa Giêsu: Bà là người đã khóc công khai để lấy nước mắt rửa chân, lấy tóc
lau chân, và lấy dầu đắt tiền xức chân Chúa. Ngay cả cái chết cũng không dập tắt
nổi tình yêu của Bà Mary Magdala dành cho Chúa Giêsu. Một người có thể nói Bà
là người sống tình yêu với Chúa hơn ai hết qua sự kiện Bà chỉ chờ khi bắt đầu
ngày mới (3-6 giờ sáng), là người đầu tiên lên đường ra mộ tìm Chúa. Tình yêu
dành cho Chúa Giêsu làm Bà vượt qua nhiều sự sợ hãi: quân lính Rôma, người
Do-thái, bóng tối, ma quỉ, lạnh lẽo, lười biếng …
Khi đến nơi và thấy tảng
đá lớn đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Đức
Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi
chẳng biết họ để Người ở đâu."
3.2/ Hai ông Phêrô và
Gioan ra thăm mộ: Các môn đệ không dám xuất
hiện trước công chúng vì họ sợ sẽ bị truy tố như Thầy mình. Các ông chắc cũng
thất vọng vì Chúa Giêsu không hoàn thành ước mơ của các ông. Khi được Mary
Magdala cho biết tin ngôi mộ trống, ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả
hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước.
Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào.
(1) Ngôi mộ trống: Ông
Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải
để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải,
nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Hai câu hỏi được nêu ra từ trình thuật
này:
- Tại sao người môn đệ
chạy tới trước không vào lại chờ cho Phêrô tới và vào trước? Phải chăng vì ông
sợ? Phải chăng vì ông muốn tôn trọng quyền bính của Phêrô? Tuy Phêrô đã chối
Chúa ba lần, nhưng ông luôn là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Chính Chúa Giêsu
đã đặt Phêrô vào địa vị này.
- Vì các ông không ngờ
là Chúa đã sống lại, nên chỉ còn giả thuyết là người ta đã đánh cắp xác Chúa;
nhưng điều làm các ông ngạc nhiên là tại sao lấy xác mà không lấy khăn niệm, lại
còn cuộn lại cẩn thận và xếp gọn lại một nơi!
(2) Ông đã thấy và ông
đã tin: “Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy
và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức
Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.” Bản dịch của NPVCGK dịch không chính xác, phải
dịch: “Ông đã thấy và đã tin; dù chưa hiểu theo Kinh Thánh Đức Giêsu phải sống
lại từ cõi chết.” Thánh sử Gioan muốn phân biệt hai niềm tin:
- Thấy và tin: Đây là
niềm tin thực nghiệm.
- Theo Kinh Thánh: Đức
Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Đây là niềm tin dựa vào uy thế của Sách Thánh.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Biến cố Chúa Giêsu
phục sinh chứng tỏ rõ ràng cho chúng ta một điều quan trọng: chết không hết.
Chúa Giêsu đi trước để dọn đường, và Ngài sẽ kéo mọi người chúng ta lên với
Ngài. Vì thế, chúng ta không được sống như không có đời sau.
- Chúa Giêsu đã gánh
chịu mọi đau khổ để đền thay tội lỗi của chúng ta, và Ngài đã phục sinh vinh hiển
để chuẩn bị cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Còn ai yêu thương và lo lắng
cho chúng ta hơn Chúa Giêsu? Hãy dành trọn vẹn tình yêu cho Ngài.
- Hãy làm hết sức cho
có được tình yêu với Chúa Giêsu như Mary Magdala. Một khi có được tình yêu như
thế, chúng ta sẽ vượt qua mọi trở ngại để trung thành với Thiên Chúa và làm chứng
cho Thiên Chúa bằng cách yêu thương mọi người.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
01/04/2018 - CHÚA NHẬT PHỤC SINH – B
MỪNG CHÚA SỐNG LẠI
Ga 20,1-9
TỪ “THẤY’ ĐẾN “TIN”
Ông Si-mon
Phê-rô vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức
Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một
nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và
đã tin. (Ga 20,6-8)
Suy niệm: Những điều Gio-an thấy tại mộ Chúa vào buổi sáng ngày thứ nhất trong
tuần hôm ấy được trình bày một cách rõ ràng, mạch lạc và chính xác chẳng khác
nào một biên bản hiện trường: - việc Gio-an đến mộ nhưng nhường cho Phê-rô vào
trước; - hiện trường ngôi mộ được bảo vệ nguyên vẹn (khăn liệm và các giải
băng vải được gấp xếp gọn ghẽ trong mộ…); - sự hiện diện của 2 nhân chứng
(Phê-rô và Gio-an) tại ngôi mộ trống. Những điều Gio-an “thấy” chỉ là một ngôi
mộ trống với những chứng tích còn lại. Và từ những điều trông thấy đó, Gio-an
đã khẳng định ngắn gọn và chắc nịch: “Ông đã thấy và đã tin”.
Mời Bạn: Gio-an đã “thấy” chính những điều mà Phê-rô, Tô-ma hay các tông đồ
khác cũng thấy, đó là ngôi mộ trống và tấm khăn liệm. Nhưng nhờ đó, Gio-an “thấy”
được cả những “điều không thấy”: xác Chúa không còn trong mộ nữa. Từ “điều
không thấy”, Gio-an đã tin: tin Đức Ki-tô đã sống lại. “Phúc cho ai đã không thấy
mà tin”, phải chăng Đức Ki-tô phục sinh nói điều đó trước hết cho Gio-an ?
Chia sẻ: Từ sự kiện “mồ trống”, bạn lập luận để xác tín rằng niềm
tin vào Đức Ki-tô phục sinh mà Gio-an và các tông đồ rao giảng cho chúng ta quả
là xác thực.
Sống Lời Chúa: Bạn làm một cử chỉ (phủ phục trước Thánh Thể Chúa…) hoặc
nói một lời nguyện vắn tắt để tuyên xưng niềm tin vào Đức Ki-tô phục sinh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa con, lạy
Thiên Chúa của con, con tin Chúa đã chết và đã sống lại để cứu chuộc con.
(5 Phút Lời Chúa)
ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN (1.4.2018 – Chúa nhật Phục sinh, Năm B)
Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria. Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu, nhưng bà sẽ gặp chính Ðấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Suy niệm:
Niềm vui phục sinh khởi
sự bằng thái độ hốt hoảng.
Tảng đá che cửa mộ đã bị
ai đó lăn ra.
Xác của Thầy đặt bên
trong đã biến mất.
Thật là chuyện kinh khủng
đối với bà Maria Macđala!
Bà đã đi thăm mộ lúc trời
còn tối.
Có lẽ cả đêm qua bà không
chợp mắt được,
chỉ mong cho chóng sáng
để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái
tim của bà?
Tình yêu đã khiến bà đứng
dưới chân thập giá (Ga 19,25)
và tham dự cuộc mai táng
Thầy Giêsu (Mt 27,61).
Bây giờ tình yêu ấy lại
thúc đẩy bà ra mộ trước tiên,
trước cả người môn đệ
được Ðức Giêsu thương mến...
Maria hốt hoảng chạy về
báo tin cho hai môn đệ.
Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn
cắp xác Thầy.
Vấn đề duy nhất làm bà âu
lo khắc khoải,
đó là họ đang để Người ở
đâu (Ga 20,2.13.15).
Bà cần biết chỗ đó, để
lấy ngay xác về.
Maria chẳng nghĩ gì đến
chuyện Chúa phục sinh,
bà chỉ mong tìm lại xác
của Thầy đã chết.
Maria chạy về để kéo theo
Phêrô và Gioan chạy đến mộ,
những bước chân hối hả
vội vàng.
Chỉ có ngôi mộ trống và
những băng vải đặt ở đó,
còn khăn che đầu thì được
cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan
tin rằng Thầy đã phục sinh.
Chẳng ai ăn cắp xác mà để
lại gọn ghẽ khăn vải liệm.
Chúng ta cần có lòng mến
thiết tha của bà Maria Macđala,
nhưng cũng cần có sự nhạy
cảm để tin như Gioan.
Khi tin, người ta khám
phá ra ý nghĩa của các biến cố:
ý nghĩa của cái chết bi
đát trên núi sọ,
ý nghĩa của ngôi mộ trống
và tấm khăn xếp gọn gàng.
Chúng ta cần có lòng tin
để khỏi rơi vào sự thất
vọng hay hốt hoảng,
trước những thất bại, đổ
vỡ mất mát trong cuộc đời.
Ðời chúng ta lắm khi
giống ngôi mộ trống trải.
Những gì chúng ta yêu quý
nay chẳng còn.
Chúng ta đôn đáo kiếm tìm
điều đã mất,
trong nước mắt đau khổ
như bà Maria (Ga 20,11).
Nhưng nếu xác Ðức Giêsu
cứ nằm yên trong mồ,
để cho bà Maria đến thăm
viếng,
thì làm gì có chuyện Chúa
phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ
được Ngài,
những băng vải không ngăn
được Ngài ra đi.
Sự sống bật dậy từ tro
tàn của cái chết.
Ánh sáng bừng lên từ bóng
tối mịt mù.
Tình yêu thắng trận khi
tưởng như bị hận thù nuốt chửng.
Niềm vui phục sinh là quà
tặng bất ngờ cho Maria.
Bà sẽ chẳng bao giờ tìm
thấy xác Thầy trong mộ đâu,
nhưng bà sẽ gặp chính
Ðấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng
còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con được tự do bay
cao,
không bị nỗi sợ hãi của
phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết
lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của
người kitô hữu
là cái liều chín chắn và
có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu
phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê
chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông
đã hiến mình vì Đạo.
Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi
mang một sức thu hút mãnh
liệt
khiến con đổi cái nhìn về
cuộc đời:
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực
sự của từng thụ tạo.
Sự Phục Sinh của Chúa
giúp con dám sống tận
tình hơn
với Chúa và với mọi
người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
1 THÁNG TƯ
Thiên Chúa Của Tình
Yêu Vô Hạn
Bao nhiêu người trên
thế giới, bao nhiêu dân tộc, bao nhiêu truyền thống, bao nhiêu nền văn hóa, bao
nhiêu tôn giáo đã bảo vệ và tiếp tục bảo vệ hình ảnh của chính mình nghĩ ra về
Thiên Chúa?
Thiên Chúa là hữu thể
vô cùng hoàn hảo, là hữu thể tối cao và khôn dò; Ngài là Chủ Tể tuyệt đối của mọi
sự. Dường như chuyện Ngài trở thành con người là điều không thể được; cũng dường
như không thể được, chuyện Ngài hầu hạ và rửa chân cho các tông đồ, hoặc chuyện
Ngài có thể chết trên thập giá. Nhưng, đó là cái nhìn của con người.
Cái nhìn của Thiên
Chúa thì hoàn toàn khác. Nói một cách thật đơn giản: Thiên Chúa là tình yêu. Vì
Ngài là tình yêu, Ngài đã tạo thành con người theo hình ảnh Ngài và giống như
Ngài. Vì Ngài là tình yêu, Ngài đã thiết lập giao ước với con người. Vì Ngài là
tình yêu, Ngài đã trở thành con người. Thiên Chúa đã yêu thương thế giới đến nỗi
đã trao ban chính Con Một Ngài, để cho con người có thể đạt được sự sống đời đời
(Ga 3,16). Vì Ngài là tình yêu, Thiên Chúa đã chấp nhận con đường thập giá để
thứ tha tội lỗi nhân trần và để thiết lập giao ước mới – giao ước vĩnh cửu –
trong máu Ngài. Vì Ngài là tình yêu, Ngài đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể.
Tình yêu không nhắm gì
khác ngoài sự tốt lành mà nó khao khát muốn làm. Vì sự tốt lành này mà Đấng
Toàn Năng sẵn lòng trở nên yếu đuối như một con người, chấp nhận số phận chết
như một con người. Ngài sẵn lòng trở nên yếu đuối và bị nhai nuốt đi như tấm
bánh: “Này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì anh em. Anh em hãy làm việc này để tưởng
nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).
Con người có thể chấp
nhận một Thiên Chúa chịu đóng đanh hay không? Con người có thể chấp nhận một
Thiên Chúa hiến tế hay không? Đó là câu hỏi được đặt ra ngay chính trung tâm của
Tam Nhật Thánh.
Hỏi – tức là đã trả lời.
Vâng, con người có thể chấp nhận hay từ chối vị Thiên Chúa của tình yêu vô hạn ấy.
Thật vậy, con người có thể quay lưng chống lại Thiên Chúa hay thậm chí phủ nhận
sự hiện hữu của Ngài. Nhưng còn Thiên Chúa, Ngài “không thể phủ nhận chính
Ngài” (2Tm 2,13). Ngài không thể thôi là chính Ngài! Ngài không thể thôi là
tình yêu!
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 01/4
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Cv 10, 34a.37-43;
Cl 3, 1-4; Ga 20, 1-9.
LỜI SUY NIỆM: “Bấy giờ người
môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin.”
Thánh Gioan khi bước
vào trong mộ, ông đã thấy và ông đã tin chính là ông có con tim đầy yêu thương
Chúa Giêsu một cách trọn vẹn. Gioan là Tông Đồ duy nhất theo Chúa vào tận dinh
Philatô và và người đứng dưới chân Thánh Giá chứng kiến tất cả về sự thương khó
và cái chết của Người, giờ đây những điều đã được ghi vào trong ký ức của
Gioan, đã trổi dậy trong ông, đã làm cho ông nhớ lại những lời mà Chúa đã loan
báo trước đó.
Lạy Chúa Giêsu. Xin
cho mỗi người trong chúng con có tương quan trong Mầu Nhiệm Thương Khó, để
chúng con được sống trong tình yêu Phục Sinh.
Mạnh Phương
01 Tháng Tư
Tu Ðâu Cho Bằng Tu Nhà Thờ Cha Kính Mẹ Mới Là Ðạo Con
Dương Phủ sinh ra
trong một gia đình nghèo. Nhưng ông để hết tâm phụng dưỡng song thân.
Một hôm, ông nghe
nói bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ. Dương Phủ bèn xin từ biệt song thân để đến
thụ giáo bậc hiền triết.
Ði được nửa đường,
ông gặp một vị lão tăng. vị lão tăng khuyên Dương Phủ: "Gặp được bậc Vô Tế
chẳng bằng gặp được Phật".
Dương Phủ hỏi vặn lại:
"Phật ở đâu?". Vị lão tăng giải thích: "Nhà ngươi cứ quay trở về,
gặp người nào mặc cái áo sắc như thế này, đi đôi dép kiểu như thế này thì chính
là Phật đấy".
Dương Phủ nghe lời
quay về nhà. Ði dọc đường, ông chẳng gặp ai như thế cả. Về đến nhà thì đã
khuya, Dương Phủ gõ cửa gọi mẹ. Người mẹ mừng rỡ, khoác chăn, đi dép ra mở cửa.
Bấy giờ, Dương phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ mình hình dáng của Ðức Phật mà vị
lão tăng đã mô tả.
Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật.
Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật.
Thứ nhất thì tu tại
gia
Thứ hai tu chợ, thứ
ba tu chùa.
Tu đâu cho bằng tu
nhà
Thờ cha kính mẹ mới
là đạo con.
Ðể yêu thương con người
một cách trọn vẹn, Chúa đã trở thành một con người. Chúa có cha, có mẹ. Chúa
sinh ra trong một gia đình... Con người không chỉ được cứu rỗi một cách lẻ loi,
nhưng trong một gia đình. Con người cần có một gia đình để sinh ra, để lớn lên
và thành toàn... Tại Nagiaréth, Chúa đã lớn lên trong ân sủng và dáng vóc. Chúa
đã vâng phục Thánh Giuse và Mẹ Maria. Chúa đã học đọc, học viết và ngâm nga từng
câu kinh thánh với Mẹ Maria. Chúa cũng học cách sử dụng từng dụng cụ trong xưởng
mộc của Thánh Giuse.
Trong ba năm sống đời
công khai, ngôn ngữ vàcách suy nghĩ của Chúa phản ánh phần nào sự giáo dục mà
Chúa đã thụ hưởng nơi cha mẹ.
Xin Chúa thánh hóa tất
cả mọi gia đình Việt Nam. Xin Chúa ban cho bậc cha mẹ ý thức được trách nhiệm
giáo dục của họ. Xin Chúa ban cho con cái lòng hiếu thảo để biết vâng phục,
kính yêu và phụng dưỡng cha mẹ, nhất là trong lúc tuổi già của các ngài... Và
xin cho mọi gia đình Việt Nam luôn biết tranh đấu để bảo vệ sự hiệp nhất trong
gia đình và biến gia đình thành Giáo Hội nhỏ của Chúa.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét