Trang

Thứ Ba, 24 tháng 4, 2018

25-04-2018 : THỨ TƯ - TUẦN IV PHỤC SINH - THÁNH MÁCCÔ, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG - LỄ KÍNH


25/04/2018
Thứ Tư tuần 4 Phục Sinh
THÁNH MÁCCÔ, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG.
Lễ kính.


Thánh Marcô là cháu của thánh Barnaba. Người đã đi theo thánh tông đồ Phaolô trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất, và theo đến tận Rôma.
Người cũng là môn đệ của thánh Phêrô và là thông ngôn của thánh Phêrô, đã soạn lời giảng của thánh Phêrô thành sách Tin Mừng. Truyền thống cho rằng người đã sáng lập giáo đoàn Alexandria.

Bài Ðọc I: 1 Pr 5, 5b-14
"Marcô, con tôi, gửi lời chào anh em".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, tất cả anh em hãy mặc lấy đức khiêm nhường để đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho người khiêm nhường. Vậy anh em hãy hạ mình dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người nhắc anh em lên trong thời giờ Người thăm viếng. Anh em hãy trút bỏ cho Người mọi điều lo lắng của anh em, bởi vì chính Người chăm sóc anh em.
Anh em hãy ăn ở tiết độ và hãy tỉnh thức, vì kẻ thù anh em là ma quỷ, như sư tử gầm thét, nó rình mò chung quanh, tìm kiếm một ai để nuốt. Anh em hãy vững vàng trong đức tin mà chống lại nó, vì biết rằng hết mọi người anh em khác trong thế gian đều phải chịu cùng một sự đau khổ đó. Nhưng Thiên Chúa nguồn mạch mọi ân sủng, Ðấng đã kêu gọi anh em tham dự vinh quang đời đời của Người trong Ðức Giêsu Kitô, chính Người sẽ làm cho anh em là những người chịu đau khổ ít lâu, được hoàn thiện, vững vàng và kiên cố. Nguyện Người được vinh quang và uy quyền đến muôn đời. Amen.
Nhờ Silvanô, người anh em trung tín, tôi cam đoan như thế, tôi viết vắn tắt thư này cho anh em, để khuyên nhủ và chứng thực rằng đó là ơn đích thực của Thiên Chúa, và anh em đang tận hưởng. Hội thánh được tuyển chọn ở Babylon và Marcô, con tôi, gởi lời chào anh em. Anh em hãy chào nhau trong cái hôn thánh thiện.
Nguyện (chúc) ơn Chúa ở cùng tất cả anh em, những người ở trong Ðức Giêsu Kitô. Amen.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 6-7. 16-17
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời. Qua mọi thế hệ, miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, trời xanh ca tụng những kỳ công của Chúa, và lòng trung thành Chúa trong công hội thánh nhân. Vì trên cõi nước mây, ai bằng được Chúa, trong các con Thiên Chúa, ai giống như Ngài? - Ðáp.
3) Phúc thay dân tộc biết hân hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài. - Ðáp.

Alleluia: 1 Cr 1, 23. 24
Alleluia, alleluia! - Chúng tôi rao giảng Ðức Kitô chịu đóng đinh, Ngài là quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa. - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 16, 15-20
"Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng".
Bài kết thúc Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh".
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
Ðó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Thánh Sử Marcô
Người ta không chắc chắn Mác-cô là tác giả sách Tin Mừng thứ hai, nhưng người ta rất đồng ý về đời sống của Ngài là một phần tử thực hiện lệnh truyền đi rao giảng Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô cho mọi dân tộc không phân biệt ranh giới không gian và thời gian. Sách Công Vụ Tông Đồ (13, 13, 15, 38) đã cho chúng ta thấy Mác-cô còn trẻ người non dạ, vì Thánh Phaolô đã thất vọng từ chối không nhận  Mác-cô trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ hai của Ngài. Tuy nhiên khi trở về Giê-ru-sa-lem quê nhà cha mẹ, Mác-cô đã có nhiều điểm tốt phụng vụ cộng đồng Ki-tô hữu tiên khởi. (Cv. 12,12). Rồi Ngài đi với cậu mình là Bêrnabê đi truyền giáo ở đảo Síp.(Chypre), sau đó đến Rôma nhập đoàn với Thánh Phaolô đang bị tù, và Ngài đã giúp Thánh Phêrô như là một thông dịch viên, có lẽ nhờ công việc này, đã xuất bản cuốn Tin Mừng Mác-cô, rất tượng hình, rất gần kinh nghiệm của Phêrô sống với Đức Giê-su; người ta còn nói Ngài còn là Giám Mục tiên khởi Hội Thánh ở Alexandria, và sau cùng ở Venise, nên Tin Mừng của Ngài có biểu tượng nổi tiếng là con sư tử.
Chúng ta hãy trở lại Tin Mừng của Ngài. Người ta tin tác phẩm Tin Mừng là của Ngài đã để lại một tâm sự trong đoạn 14, 51-52  kể lại: “Trong khi đó có một cậu thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn chỉ một tấm vải gai. Họ túm lấy anh. Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng”. Đây cũng là dấu chỉ sự sống lại trong những người được sai đi rao giảng Tin Mừng và cũng đủ trả lời khá rõ ràng về tác giả Tin Mừng là của Thánh Mác-cô, một Tin Mừng có một có một sức mạnh rất cụ thể sống động chống lại sức mạnh của quỉ dữ muốn làm hại Đức Giê-su. Ngày nay người ta khá coi thường một thứ Tin Mừng có nhiều phép lạ, nó lôi kéo chú ý về những kỳ lạ hơn về sứ điệp thứ tha và giải tháot của Tin Mừng; may thay bản văn vẫn ưu tiên dành cho lời Chúa. Hãy suy nghĩ đến sức mạnh tâm hồn của các vị truyền giáo, đến những ân huệ các Ngài đã mang đến cho một thế giới trong lầm than được nghe loan báo về Đấng Cứu Thế đã toàn thắng, đã đoạt được vinh quang của ngai tòa Thiên Chúa. Như Mác-cô, khiêm tốn nhưng hăng say, chính Ngài đã tiếp tục theo chân những người nghèo khó nói những lời định mệnh cho đến tận thế để nối đất của chúng ta với trời.
L.P



LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Lễ Thánh Marcô Thánh Sử (Ngày 25 tháng 4)
Bài đọc1 Pet 5:5b-14; Mk 16:15-20.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành với sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
Theo truyền thống, Marcô Thánh Ký được đồng nhất với John Mark (Acts 12:12, 25; 15:37; Col 4:10; 2 Tim 4:11; Phi 24). Thánh Phêrô trong bài đọc I hôm nay gọi Marcô là “con của ngài” (1 Pet 5:13). Marcô là anh em họ (anepsios) của Barnabas (Col 4:10), là con của bà Mary. Bà này là bạn với thánh Phêrô, sống tại Jerusalem (Acts 21:12), và là một thành phần quan trọng của giáo hội sơ khai tại Jerusalem. Chính tại nhà Bà mà thánh Phêrô đến, sau khi được sứ thần của Thiên Chúa giải thoát khỏi ngục tù (Acts 12:12-13).
Khi nạn đói xảy ra vào năm 45-46 AD, Barnabas và Phaolô sau khi đã hoàn thành sứ vụ tại Jerusalem, họ mang Marcô đi với họ trong hành trình trở về Antioch (Acts 12:25). Không lâu sau đó, khi bắt đầu hành trình truyền giáo thứ nhất, họ đem Marcô theo như một trợ tá (hupereten, Acts 13:5). Theo văn mạch ám chỉ, Marcô có thể đã giúp hai ông ngay cả trong việc rao giảng Tin Mừng. Khi hai ông tiếp tục cuộc hành trình từ Perga tiến vào trong vùng trung tâm của Asia Minor, Marcô bỏ hai ông và trở về Jerusalem (Acts 13:13). Tại sao Marcô trở lại Jerusalem, không ai biết rõ lý do; nhưng có thể Marcô sợ khổ cực (Acts 15:38). Phaolô không quên biến cố này, nên ông từ chối cho Marcô đi theo trong hành trình truyền giáo thứ hai. Sự từ chối này dẫn tới việc phân ly giữa Phaolô và Barnabas, Phaolô tiếp tục cuộc hành trình, Barnabas và Marcô xuống thuyền tới đảo Cyprus (Acts 15:37-40). Sau biến cố này (khoảng 49-50 AD), chúng ta mất dấu Marcô trong CVTĐ, cho tới khi Marcô xuất hiện khoảng 10 năm sau như một bạn đồng hành của Phaolô, và đi theo Phêrô tại Rôma.
Theo cuốn Lịch Sử Giáo Hội của Eusebius (III,39), viết khoảng năm 130 AD, đặt căn bản trên thế giá của một kỳ mục, Marcô là “người thông dịch” (hermeneutes) của Phêrô, và đã viết cách chính xác, mặc dù không theo niên lịch, giáo huấn của Phêrô. Nhiều người giả sử chàng thanh niên ở trần trốn chạy từ vườn Gethsemane là Marcô (Mk 14:51). Điều này có thể vì nhà mẹ của Marcô nằm trong Jerusalem và là nơi các môn đệ hay lui tới. Ngày chết của Marcô không chắc chắn, thánh Jerome cho là năm thứ tám của triều đại Nero (62-63 AD). Thánh Marcô là quan thầy của Alexandria, Ai-cập; và là quan thầy của thành phố Venice, nước Ý.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hội-thánh ở Babylon, và Marcô, con tôi, gửi lời chào anh em.
1.1/ Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường.
Trình thuật hôm nay là phần khuyên nhủ và kết thúc Thư I của thánh Phêrô. Ngài tóm tắt những điều cần khuyên nhủ quan trọng tới các tín hữu.
(1) Hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định: Đây là đức tính quan trọng hàng đầu người tín hữu cần luyện tập; nếu không có đức tính này, họ sẽ dễ dàng rơi vào bẫy giăng của ma quỉ và sa ngã như ông Adam và bà Eva trong Vườn Địa Đàng
(2) Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em: Lo lắng làm con người bất an và nghi ngờ tình thương của Thiên Chúa. Để diệt lo lắng, con người cần tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa, chẳng lẽ Ngài bỏ rơi con cái trông đợi nơi tình thương của Ngài!
(3) Hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé: Tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa không có nghĩa con người không cần phải làm chi cả. Thánh Phêrô khuyên con người hãy tập luyện để biết sống tiết độ. Nói cách khác, con người cần tập luyện nhân đức mới có thể thắng vượt các chước cám dỗ của ba thù.
(4) Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế: Đức tin cần được thử thách bằng những gian khổ, ai cũng phải trải qua tiến trình rèn luyện để vượt qua những gian khổ. Người chiến thắng là người kiên vững trong đức tin cho dù phải gian nan, đau khổ, ngay cả phải chấp nhận cái chết.
1.2/ Phần thưởng của các tín hữu là cuộc sống mai sau: Các Kitô hữu phải chịu đau khổ để thử luyện đức tin trước khi được lãnh nhận vinh quang: “Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng, cũng là Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Kitô. Phần anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường.”
Ân sủng của Thiên Chúa đủ cho các tín hữu: Khi phải chịu thử thách nặng nề, thay vì kêu trách Thiên Chúa và tha nhân, các tín hữu cần chạy đến với Thiên Chúa để xin gia tăng ơn thánh, hầu có thể đứng vững trong đức tin. Thánh Phêrô, cũng như thánh Phaolô, tin chắc ơn thánh của Thiên Chúa ban đủ sức giúp các tín hữu vượt qua mọi trở ngại trong cuộc đời: “Tôi viết ít lời để khuyên nhủ anh em và làm chứng rằng đó thật là ân sủng của Thiên Chúa: anh em hãy sống vững vàng trong ân sủng đó.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ.
2.1/ Trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Người nói với các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án." Khi Chúa Giêsu phục sinh và lên trời, Ngài đã hoàn tất sứ vụ mang lại ơn cứu độ cho con người. Giờ đây Ngài trao sứ vụ loan báo Tin Mừng cho các môn đệ, để các ông mang ơn cứu độ này cho mọi người sống trên trần thế. Để được hưởng ơn cứu độ, con người cần tin vào Đức Kitô và chịu Phép Rửa.
2.2/ Ban uy quyền cho các môn đệ để khán giả tin vào lời các ông rao giảng: Chúa hứa với các nhà rao giảng: "Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ:
(1) Khai trừ quỷ: Phaolô truyền cho quỉ xuất khỏi người đầy tớ tại Philippi (Acts 16:18)
(2) Nói được những tiếng mới lạ: Các Tông-đồ nói tiếng của thổ dân trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Acts 2:1-11)
(3) Tránh được nguy hiểm: "Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao."
(4) Chữa lành: "Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ." Điều này đã được làm bởi Phêrô, Phaolô, và rất nhiều môn đệ.
"Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trung thành theo Chúa đến cùng không phải là điều dễ dàng vì chúng ta phải đương đầu với ba kẻ thù nặng ký là ma quỉ, thế gian và xác thịt.
- Để có thể vượt qua các thử thách, con người cần tập luyện nhân đức và cầu nguyện xin Thiên Chúa ban ơn thánh. Chúng ta phải trỗi dậy sau mỗi lần bị ngã và tiếp tục tiến bước. Ngoài ra, chúng ta cũng phải giúp nhau để trung thành trong ơn gọi của mình.
Lm.Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.

25/04/2018
THỨ TƯ TUẦN 4 PS
Thánh Mác-cô, tác giả sách Tin Mừng
Mc 16,15-20

KHÔNG THỂ BƯNG BÍT TIN MỪNG

Đức Giê-su hiện ra với Nhóm Mười Một và nói với các ông rằng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15)

Suy niệm: Một khi đã là ‘tin mừng’ thì dù có cấm người ta vẫn cứ loan đi. Nhiều lần Chúa Giê-su chữa lành bệnh nhân và liền sau đó chỉ thị họ đừng nói cho ai biết; nhưng thông tin về việc Ngài chữa lành không thể bưng bít, bởi niềm vui được lành bệnh quá lớn, khiến những người được chữa lành không thể im lặng, mặc cho lời Chúa Giê-su dặn (x. Mc 1,40-45; 7,31-37...). Sau này, các Tông đồ cũng thế, mặc cho giới lãnh đạo tôn giáo Do-thái cấm đoán, đe dọa, bỏ tù, thậm chí là giết chết, các ngài vẫn không thôi loan báo về Chúa Ki-tô Phục sinh, bởi vì niềm vui được gặp Chúa phục sinh quá lớn: Không gì có thể ngăn cản các ngài ra đi làm chứng, dù phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Như thế chúng ta mới hiểu tâm trạng của thánh Phao-lô khi bảo rằng: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 6,16).

Mời Bạn: Để loan báo Tin Mừng, trước hết chúng ta cần gặp gỡ Đức Ki-tô phục sinh. Nếu không cảm nhận được niềm vui khi biết Ngài, và không tự hào về những giá trị Ngài mang đến, chúng ta chẳng có gì để mà loan báo!

Sống Lời Chúa: Hãy dành thời gian sống thân mật với Chúa Ki-tô, đặc biệt qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa, để có thể cảm nhận cách sâu sắc về Ngài, hầu ‘có cái’ để mà loan báo.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, không ai có thể loan báo Tin Mừng nếu trước đó không cảm nhận được niềm vui về Chúa. Xin cho con biết Chúa, hầu có thể say mê loan báo Tin Mừng, như thánh Mác-cô mà chúng con mừng lễ hôm nay. Amen.
(5 phút lời Chúa)


Loan báo Tin Mng (25.4.2018 – Th tư: Thánh Marcô, tác gi Sách Tin Mng)
Giáo Hi hôm nay cn nhiu kitô hu say mê rao ging Tin Mng... Làm sao đ cuc đi chúng ta tr thành mt cun sách Tin Mng đ ai đc cũng gp được Giêsu?


Suy nim:
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ thánh Marcô, tác giả sách Tin Mừng.
Ngài thường được coi là người viết cuốn sách Tin Mừng đầu tiên.
Ngài đã thu tập những tài liệu có trước, rồi sắp xếp lại thành một câu chuyện.
Marcô muốn kể một câu chuyện lý thú về Đức Giêsu.
Dù khả năng viết tiếng Hy lạp của ngài không thuộc loại giỏi,
nhưng bù lại, ngài là một nhà kể chuyện có tài.
Ngài cho chúng ta một khuôn mặt Đức Giêsu rất sống động và rất người.
Đức Giêsu ấy biết giận dữ, biết xao xuyến, biết ngạc nhiên như người khác.
Marcô đã cầm bút viết tác phẩm của mình về Thầy Giêsu
trong một giai đoạn đen tối của Giáo hội sơ khai.
Vào năm 64, bạo chúa Nêrô đốt thành Rôma và đổ tội cho các kitô hữu.
Cuộc bách hại dữ dội bắt đầu tại Rôma.
Vậy mà tại nơi ấy, giữa thời điểm căng thẳng ấy, Marcô viết sách Tin Mừng
dành cho những kitô hữu không phải là người Do Thái.
“Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,1):
Marcô đã bắt đầu tác phẩm của mình như thế.
Sách này thật là Tin Mừng nâng đỡ các tín hữu bị chao đảo bởi bách hại.
Đức Giêsu vác thánh giá mời gọi người ta trung tín bước theo Ngài.
Ngài đã chết nhưng hẹn gặp lại các môn đệ ở Galilê sau khi Ngài phục sinh.
Bài Tin Mừng hôm nay, tuy không phải do thánh Marcô soạn thảo,
nhưng lại hợp với ngày lễ mừng thánh nhân.
Đấng sống lại kêu gọi nhóm Mười Một đi khắp thế giới để rao giảng Tin Mừng.
Đó là Tin Mừng về Đức Giêsu bị đóng đinh nhưng nay được phục sinh,
được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (c. 19).
Các tông đồ đã vâng lời, đi rao giảng khắp nơi.
Chúa lên trời nhưng Ngài vẫn cùng làm việc với họ như xưa.
Ngài giúp họ có khả năng trừ quỷ, chữa bệnh, nói những thứ tiếng mới.
Ngài bảo vệ họ khỏi những hiểm nguy do rắn rít hay thuốc độc (cc.17-18).
Giáo Hội hôm nay cần nhiều kitô hữu say mê rao giảng Tin Mừng.
Trên quê hương vẫn còn nhiều nơi vắng tiếng chuông nhà thờ buổi sáng.
Marcô đã kể chuyện về Giêsu bằng ngòi bút, viết trên giấy da hay giấy cói.
Chúng ta có nhiều phương tiện nhanh hơn, rộng hơn, để kể chuyện về Giêsu.
Làm sao để Giêsu đến gặp con người qua internet, sách báo, phim ảnh…?
Làm sao để cuộc đời chúng ta trở thành một cuốn sách Tin Mừng
để ai đọc cũng gặp được Giêsu?
Cầu nguyn:

Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.

Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.

Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.

Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.

Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.

Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25 THÁNG TƯ
Phục Sinh Trong Hiện Tại
Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết tại một thời điểm nhất định trong thời gian. Tuy nhiên, Người vẫn đang đợi chờ sự Phục Sinh của Người tác động biến đổi mọi người. Người vẫn đang đột phá vào cuộc sống của mỗi cá nhân và vào lịch sử của mọi dân tộc. Nhưng tác động chuyển hóa của cuộc Phục Sinh đối với xã hội và cá nhân còn tùy thuộc vào sự hợp tác của con người nữa.
Trong cuộc Phục Sinh này, người ta phá vỡ sự ràng buộc của tội lỗi và sự chết. Người ta sống lại trong Đức Kitô như chính Người đã sống lại vào buổi sáng Phục Sinh cách đây hai mươi thế kỷ ấy. Vâng, bất cứ ở đâu có một trái tim thắng vượt ích kỷ, bạo lực, và đố kỵ – bất cứ ở đâu có một trái tim mở ra cho một ai đó đang cần đến mình – thì ở đó Đức Kitô được Phục Sinh từ cõi chết, được Phục Sinh trong hiện tại hôm nay. Bất cứ ở đâu có người theo đuổi công lý và hòa bình đích thực, thì sự chết bị đánh bại và cuộc Phục Sinh của Đức Kitô được khẳng định lại. Bất cứ khi nào một người lìa đời sau khi đã sống một cuộc sống đầy tràn tin, yêu, và đau khổ vì Đức Kitô … thì ở đấy và lúc ấy có sự Phục Sinh.
Cuộc Phục Sinh này – được định liệu cho mọi người – là chiến thắng tối hậu. Đó là câu trả lời của Thiên Chúa cho những đau buồn và thử thách của con người. Đó không phải là sự chết mà chính là sự sống. Đó không phải là thất vọng mà chính là hy vọng. Và Giáo Hội mời gọi mọi con người hôm nay đón nhận niềm hy vọng này.
Giáo Hội nhắc lại với chúng ta, với mọi người, lời công bố khó tin nhưng rất thật rằng: Đức Kitô đã sống lại! Mong sao cả thế giới cùng sống lại với Người! Alleluia!


Hạnh Các Thánh
Thánh Máccô


    Những gì chúng ta biết về Thánh Máccô thì trực tiếp từ Kinh Thánh Tân Ước. Ngài thường được coi là nhân vật Máccô trong Tông Ðồ Công Vụ 12:12 (Khi Phêrô thoát khỏi ngục và đến nhà mẹ của Máccô).

    Phaolô và Barnabas muốn đem theo Máccô trong chuyến truyền giáo đầu tiên, nhưng vì một vài lý do nào đó, Máccô đã ở lại Giêrusalem một mình. Trong cuộc hành trình thứ hai, Phaolô lại từ chối không muốn đem theo Máccô, bất kể sự nài nỉ của Barnabas, điều đó chứng tỏ Máccô đã làm phật lòng Phaolô. Sau này, Phaolô yêu cầu Máccô đến thăm ngài khi ở trong ngục, điều đó cho thấy sự bất hòa giữa hai người không còn nữa.

    Là phúc âm đầu tiên và ngắn nhất trong bốn Phúc Âm, Máccô nhấn mạnh đến việc Ðức Giêsu bị loài người tẩy chay trong khi chính Người là Thiên Chúa. Phúc Âm Thánh Máccô có lẽ được viết cho Dân Ngoại tòng giáo ở Rôma -- sau cái chết của Thánh Phêrô và Phaolô khoảng giữa thập niên 60 và 70.

    Cũng như các thánh sử khác, Máccô không phải là một trong 12 tông đồ. Chúng ta không rõ ngài có biết Ðức Kitô một cách cá biệt hay không. Một số sử gia cho rằng vị thánh sử này đã nói đến chính ngài trong đoạn Ðức Kitô bị bắt ở Giệtsimani: "Bấy giờ một người trẻ đi theo Người chỉ khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh, nhưng anh tuột tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng" (Máccô 14:51-52).

    Nhiều người khác cho rằng Máccô là giám mục đầu tiên của Alexandria, Ai Cập. Thành phố Venice, nổi tiếng với quảng trường San Marco, cho rằng Thánh Máccô là quan thầy của thành phố này; một vương cung thánh đường vĩ đại ở đây được coi là nơi chôn cất thánh nhân.

    Dấu hiệu của Thánh Máccô là sư tử có cánh, do bởi đoạn Máccô diễn tả Gioan Tẩy Giả như một "tiếng kêu trong hoang địa" (Máccô 1:3), mà các nghệ nhân so sánh tiếng kêu ấy như tiếng sư tử gầm. Ðôi cánh của sư tử là vì người ta dùng thị kiến của Êgiêkien về bốn con vật có cánh mà áp dụng cho các thánh sử.

    Lời Bàn

    Cuộc đời Thánh Máccô đã hoàn tất những gì mà mọi Kitô Hữu được mời gọi để thi hành: rao truyền Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Ðặc biệt, phương cách của Thánh Máccô là qua sự viết văn. Những người khác có thể loan truyền Tin Mừng qua âm nhạc, nghệ thuật sân khấu, thi văn hay giáo dục con em ngay trong gia đình.

    Lời Trích

    Hầu hết những gì Thánh Máccô viết đều có đề cập đến trong các Phúc Âm khác -- chỉ trừ bốn đoạn. Sau đây là một đoạn: "... Chuyện nước trời cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Ðêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Ðất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa" (Máccô 4:26-29).
    

    Trích từ NguoiTinHuu.com


25 Tháng Tư
Sư Tử Có Ðôi Cánh

Khách du lịch đến thưởng ngoạn Venezia, một thành phố mơ mộng nằm trên sông nước và được làm tăng thêm vẻ đẹp bằng những công trình kiến trúc độc đáo cũng như bằng những tác phẩm nghệ thuật thời danh nằm ở mạn đông bắc Italia, không thể bỏ qua công trường Marcô, công trình mang tên của vị thánh bổn mạng của thành phố Venezia và cũng là vị thánh Giáo hội mừng kính hôm nay.
Trên con đường tiến gần đến công trường Marcô, du khách nhìn thấy một con sư tử có đôi cánh đứng sừng sững trên một ngọn tháp cao. Hình sư tử này nhắc đến sự nghiệp viết sách Phúc Âm đầu tiên của thánh Marcô, như chứng từ của sử gia Papias, sinh sống vào cuối thế kỷ thứ hai viết như sau:
"Marcô, người thông ngôn của Phêrô, đã viết ra đúng những gì nhớ được, tuy không theo thứ tự, về những điều Ðức Kitô đã nói và đã làm. Marcô không trực tiếp nghe Chúa giảng, cũng không phải là môn đệ của Ngài. Nhưng ông đã tháp tùng Phêrô, người đã giảng dạy theo những gì ông cảm thấy cần thiết, chứ không phải chủ tâm thuật lại lời Chúa một cách có hệ thống".
Marcô là người thông ngôn và lãnh trách nhiệm chép lại những lời Phêrô giảng, vì thế không lạ gì ở cuối bức thư thứ nhất, Phêrô gọi ông là "Marcô, người con của tôi".
Ngoài sự gần gũi với thánh Phêrô, Marcô cũng tiếp xúc lân cận với Phaolô, bắt đầu vào lần gặp gỡ đầu tiên vào năm 44, khi Phaolô và Barnaba đưa về Giêrusalem số tiền cộng đoàn Antiokia quyên được để trợ giúp cộng đoàn Mẹ. Khi trở về, Barnaba đem theo Marcô, là cháu của ông.
Sau đó, trong khi đồng hành với Phaolô và Barnaba để hoạt động truyền giáo ở đảo Cypre, vì một sự bất đồng ý kiến nào đó, Marcô đã bỏ về Giêrusalem. Vì lý do này, trong chuyến truyền giáo thứ hai, Phaolô đã nhất quyết không cho Marcô theo, mặc dù Barnaba tha thiết yêu cầu. Sự kiện này đã gây đổ vỡ đến sự cộng tác giữa Phaolô và Barnaba.
Nhưng trong những ngày cuối đời, khi chờ đợi ngày hành quyết, Phaolô đã viết thư nhắn với Timôthê: "Hãy đem cả Marcô đến nữa, vì tôi cần sự giúp đỡ của anh ấy lắm". Bạn bè người ta muốn gặp trong những ngày cuối đời phải là những người đồng sinh đồng tử!
Những chi tiết khác nhau đó của cuộc đời của thánh Marcô không lấy gì làm chắc. Có tài liệu cho là thánh nhân chết tự nhiên. Tài liệu khác lại cho là thánh nhân được phúc tử đạo. Vương cung thánh đường tại công trường Marcô ở Venezia tự hào là còn giữ lại hài cốt của Ngài.
Trong cuộc sống, Marcô đã chu toàn bổn phận mà mọi người Kitô được kêu gọi phải thực thi: Ðó là rao giảng Tin Mừng và làm chứng về Ðức Kitô. Marcô đã thực hiện công việc này đặc biệt qua công tác viết sách Phúc Âm, những người Kitô khác qua kịch nghệ, âm nhạc, thơ phú hay qua việc dạy đạo cho con em quanh bàn ăn của gia đình hoặc qua cuộc sống chứng tá trong những sinh hoạt và nếp sống hằng ngày.
Lẽ Sống

Lectio Divina: Thánh Máccô, Phúc Âm Thánh S – Mc 16:15-20
Thứ Tư 25 Tháng Tư, 2018
Thánh Mátthêu, Phúc Âm Thánh Sử
Mùa Phục Sinh                                                    


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con,
Có rất nhiều điều trong chúng con đã che lấp Lời của Chúa
Và ngăn trở chúng con trở thành Giáo Hội thật sự của Chúa.
Hôm nay, chúng con cầu xin Chúa:
Xin hãy gọi chúng con, như Chúa đã gọi Máccô xưa kia,
Để chúng con nói và sống Lời Chúa.
Xin Chúa hãy linh ứng chúng con qua Chúa Thánh Thần
Và xin hãy dạy chúng con sống trong hy vọng
Rằng vương quốc của Chúa sẽ đến
Và ở lại giữa chúng con
Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con
Bây giờ và muôn đời.

2.  Bài Đọc Tin Mừng – Máccô 16:15-20 

Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán:  “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật,  Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được ơn cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt.  Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin:  nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh.”  Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa.  Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.

3.  Suy Niệm

  Bài Tin Mừng hôm nay là một phần của phần phụ lục của sách Tin Mừng Máccô (Mc 16:9-20), trong đó trình bày bản danh sách một số lần hiện ra của Chúa Giêsu:  với bà Maria Mađalêna (Mc 16:9-11), với hai môn đệ đang trên đường về miền quê (Mc 16:12-13) và với nhóm Mười Một Tông Đồ (Mc 16:14-18).  Lần hiện ra cuối cùng này cùng với lời tường thuật việc Chúa về Thiên Đàng (Mc 16:19-20) tạo thành bài Tin Mừng hôm nay.
  Mc 16:14:  Các phép lạ kèm theo với lời loan báo Tin Mừng.  Chúa Giêsu hiện ra với mười một tông đồ và quở trách các ông vì đã không tin vào những người đã trông thấy Chúa đã phục sinh.  Các ông đã không tin lời bà Maria Mađalêna (Mc 16:11), cũng chẳng tin hai môn đệ trên đường đi về miền quê (Mc 16:13).  Nhiều lần, thánh Máccô đề cập đến sự ương ngạnh của các môn đệ trong việc tin vào những nhân chứng là những người đã có kinh nghiệm về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu.  Tại sao thánh Máccô lại nhấn mạnh rất nhiều đến việc thiếu lòng tin của các môn đệ như vậy?  Có lẽ, để giảng dạy hai điều:  Thứ nhất, đó là niềm tin vào Chúa Giêsu phải đi qua lòng tin vào những người làm chứng.  Thứ hai, không ai được nản lòng khi có sự ngờ vực trong lòng.  Ngay cả nhóm mười một môn đệ cũng đã hoài nghi!
  Mc 16:15-18:  Sứ vụ loan báo Tin Mừng cho toàn thế giới.  Sau khi đã quở trách việc thiếu lòng tin của các môn đệ, Chúa Giêsu giao phó sứ vụ cho các ông:  “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật,  Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được ơn cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt.”  Đối với những ai đã có đủ can đảm để tin vào Tin Mừng và những ai đã chịu phép rửa, Chúa Giêsu hứa hẹn những phép lạ sau đây:  họ sẽ trừ quỷ, họ sẽ nói được nhiều thứ tiếng lạ, họ sẽ cầm rắn trong tay và sẽ không bị hề hấn gì nếu họ uống phải chất độc, họ sẽ đặt tay trên những người bệnh và những bệnh nhân này sẽ khỏi bệnh.  Điều này vẫn còn xảy ra ngay cả ngày nay:
* Trừ quỷ:  đó là để chiến đấu chống lại quyền lực tội lỗi phá hủy sự sống.  Đời sống của nhiều người cải thiện bởi vì họ đã gia nhập vào cộng đoàn và đã bắt đầu sống Tin Mừng về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống của họ.
* Nói nhiều ngôn ngữ lạ:  đó có nghĩa là bắt đầu thông tri với người khác theo phương cách mới.  Thỉnh thoảng chúng ta gặp một người mà chúng ta chưa từng gặp bao giờ, thế mà dường như chúng ta đã quen biết người ấy lâu rồi.  Điều này xảy ra bởi vì chúng ta nói cùng một ngôn ngữ, ngôn ngữ của tình yêu.
Chất độc sẽ chẳng làm hại được họ:  có nhiều điều đầu độc cuộc sống chung, cuộc sống cộng đoàn.  Có quá nhiều chuyện bàn tán phá hủy mối quan hệ giữa các cá nhân.  Một người sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa không nên quan tâm đến những chuyện này và do đó không thể bị quấy rầy bởi chất độc khủng khiếp này.
Họ chữa bệnh:  Bất cứ nơi nào có một lương tâm trong sáng và sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa, thì nơi đó cũng có một sự chăm sóc đặc biệt dành cho những kẻ bị thiệt thòi và hắt hủi, cách riêng là những kẻ bệnh tật.  Điều mà có thể giúp chữa lành là người đó cảm thấy được chấp nhận và yêu thương.
  Mc 16:19-20:  Qua cộng đoàn, Chúa Giêsu tiếp tục sứ vụ của mình.  Chính Chúa Giêsu đã sống ở vùng Paléstine, và chấp nhận người nghèo khó của thời bấy giờ, mặc khải tình yêu của Chúa Cha với họ, và trong cùng cách này Chúa Giêsu tiếp tục sống ở giữa chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta.  Qua chúng ta, Người muốn tiếp tục sứ vụ của Người để mặc khải Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa dành cho những kẻ nghèo khó.  Ngay cả ngày nay, việc sống lại vẫn diễn ra.  Và nó thôi thúc chúng ta phải ca khen lên:  “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?”  Không có một quyền lực nào của thế gian này có thể tách rời chúng ta khỏi sức mạnh đến từ đức tin vào Chúa Phục Sinh (Rm 8:35-39).  Một cộng đoàn muốn trở thành nhân chứng cho Chúa Phục Sinh phải là một dấu chỉ của sự sống, phải đấu tranh chống lại quyền lực của sự chết, theo một cách mà thế gian có thể là nơi thuận lợi cho sự sống, nơi để tin rằng một thế giới khác là điều có thể.  Hơn hết cả, tại châu Mỹ Latin, nơi đời sống người dân đang gặp nguy khốn bởi vì chế độ chết chóc đã được áp đặt, các cộng đoàn phải là một bằng chứng sống động cho niềm hy vọng vượt thắng thế gian, mà không sợ được hạnh phúc!

4.  Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân

  Những dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa xảy ra trong đời sống của tôi như thế nào?
–  Ngày nay, những dấu chỉ nào về sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa chúng ta sẽ thuyết phục người ta nhất?

5.  Lời nguyện kết

Tình thương CHÚA, đời đời con ca tụng,
Qua muôn ngàn thế hệ
Miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài.
Vâng con nói:  “TÌnh thương ấy được xây dựng tới thiên thu,
Lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời.”
(Tv 89:1-2) 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét