Các giải thích khác nhau liên
quan tới sách Diễm Ca
Khi duyệt xét các giải thích sách Diễm Ca chúng ta nhận thấy
giới học giả có rất nhiều lập trường và giả thuyết khác nhau, mỗi người tuỳ
theo cách nhìn tác phẩm. Truyền thống do thái coi sách Diễm Ca như một biểu tượng
bóng bấy xa xôi diễn tả tình yêu giữa Giavê Thiên Chúa là Phu Quân và dân
Israel là Hiền Thê của Chúa. Chính vì vậy sách Diễm Ca được thu nhận vào danh
sách các tác phẩm Thánh Kinh mà không gặp vấn đề gì. Và sách Diễm Ca là một
trong 5 tác phẩm của “Cuộn Sách”, được Do thái giáo đọc trong các ngày lễ lớn.
Sách Diễm Ca được đọc trong các hội đường do thái dịp lễ Vượt Qua. Tuy nhiên,
ngày nay giới học giả Do thái đã bỏ lập trường truyền thống này để giải thích
sách Diễm Ca như một sưu tập các bài ca tình yêu tự nhiên của một cặp thanh
niên thiếu nữ do thái.
Truyền thống kitô theo kiểu giải thích của truyền thống do
thái, nhưng thay thế Giavê Phu Quân và Israel Hiền Thê bằng Chúa Kitô Phu Quân
và Giáo Hội Hiền Thê, theo truyền thống thần học đâm rễ trong Thánh Kinh Tân Ước.
Tiếp theo đó, đặc biệt trong thời Trung Cổ, hình ảnh Chúa Kitô Phu Quân được giữ
nguyên vẹn, nhưng hình ảnh Hiền Thê thay đổi tuỳ theo trường hợp, có khi là
toàn nhân loại, có khi là linh hồn các kitô hữu, có lúc là Đức Trinh Nữ Maria.
Kiểu đọc hiểu cuối cùng này thông dụng trong các văn bản phụng vụ, dưới ảnh hưởng
của thánh Bênađô. Trong toàn truyền thống kitô đã chỉ có giáo phụ Teodoro thành
Mopsuestia là giải thích sách Diễm Ca như các bài thánh thi tình yêu được sáng
tác cho đám cưới của vua Salomon và công chúa Ai Cập.
Trong thế kỷ XVI ý kiến của giáo phụ Teodoro được một người
bạn của Calvin và cũng là người theo Calvin là Sebastian Castellion, lấy lại.
Castellion cho rằng sách Diễm Ca chứa đựng một loạt các đối thoại ngọt ngào giữa
vua Salomon và một phụ nữ nào đó tên là Shulammít. Ngoài ra ông còn trông thấy
trong sách Diễm Ca một loại kịch hát diễn tả các tình yêu của một nam mục tử và
một nữ mục tử. Kể từ đó trở đi sách Diễm Ca được tìm hiểu nghiên cứu sâu rộng
và giải thích tự nhiên – gợi lại các cuộc tình của vua Salomon và hoàng hậu, vợ
vua hay của một trong các vợ của vua: con gái Pharao Ai Cập, Abisaq hay bà
Shulammít – có nhiều người theo trong đó có các học giả như Bossuet, Dom
Calmet, F.A de Salazar vv; tuy nhiên luôn luôn trong viễn tượng các tình yêu
hôn nhân của vua Salomon diễn tả, một cách tiêu biểu, sự kết hiệp thần bí hoặc
của Giavê với dân Israel hoặc của Chúa Kitô với Giáo Hội. Và thế là nảy sinh ra
ý nghĩa tiêu biểu tipico của sách Diễm Ca.
Sau thế kỷ XVIII đã có rất nhiều nghiên cứu về sách Diễm Ca,
đếm không xuể. Tất cả đều là các cố gắng trình bầy một giải thích, và một cách
đặc biệt, nhằm cụ thể hoá ý nghĩa theo chữ của văn bản. Vì thế thật là tốt tóm
tắt các kết quả như sau:
Thứ nhất là kiểu giải thích phụng vụ, phụng tự hay huyền thoại.
Đây là một giải thích khá mới mẻ sau này. Nó sử dụng các khám phá văn bản cổ Ai
Cập và vùng Medopotamia Lưỡng Hà, theo đó sách Diễm Ca chứa đựng các bài ca
khác nhau vinh danh các thần linh của sự phong phú, được ca hát vào mùa xuân đi
kèm với các lễ nghi phụng vụ đặc biệt. Dĩ nhiên, văn bản sách Diễm Ca tuy tuân
theo các ý nghĩa đó, cũng phải chịu nhiều sửa đổi, không luôn luôn nghiêm chỉnh
và nhất là được biện minh.
Thứ hai là giải thích tự nhiên hay duy tự nhiên. Sách Diễm
Ca không gì khác hơn là một sưu tập các bài ca tình yêu chỉ có ý hướng cử hành
tình yêu nhân loại, đôi khi một cách gợi dục tàn bạo và khiêu dâm, giữa một người
nam và một người nữ. Đó là tư tưởng hay sự lo sợ của vài rabbi do thái thuộc thế
kỷ thứ I sau công nguyên, bị rabbi Aqiba phủ nhận và được học giả K. Budde vinh
danh. Học giả Budde khai thác các nghiên cứu nhân chủng học được làm bên Siria,
suy luận rằng sách Diễm Ca chỉ là một sưu tập các bài ca đám cưới được trình diễn
trong “tuần trăng mật” của nhà vua, hay của lễ cưới được cử hành trong một làng
quê nào đó của đất Palestina gần thành Giêrusalem. Khó khăn của giả thuyết này
khi chỉ khẳng định các tình yêu lịch sử của vua Salomon, hay chỉ hạn chế văn bản
trong môi trường bình dân liên quan tới các thói quen hôn nhân tại Siria, đó là
nó tuyệt đối không chấp nhận một quy chiếu ý nghĩa cao hơn của toàn tác phẩm,
và như thế lập trường này không thể chứng minh làm sao văn bản sách Diễm Ca lại
đã được nhận vào danh sách các tác phẩm kinh thánh hợp quy, bởi vì nếu không có
một việc đọc hiểu trở lại đặc biệt, thì người Do thái đã không bao giờ coi sách
Diễm Ca là sách thánh, như các thảo luận trong công nghị nhóm tại Jamnia hồi
năm 90 sau công nguyên chứng minh cho thấy.
Thứ ba là giải thích tiêu biểu hay điển hình tipico. Nó muốn
minh nhiên một khó khăn nghiêm trọng của giải thích tiêu biểu nói trên, là giải
thích chứng minh sự hiện hữu đích thật của ý hướng cần có một Mạc khải được ban
cho trong Thánh Kinh hay trong Truyền Thống. Đối với giải thích biểu tượng bóng
bẩy xa xôi allegorico sách Diễm Ca chỉ có một ý nghĩa do tác giả muốn một cách
trực tiếp: đó là tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Israel, được diễn tả ra với
các lời nói không dựa trên một ý nghĩa riêng tư, mà chỉ là một ảm tỷ và tượng
hình. Đây là giải thích cổ xưa nhất của các nhà chú giải do thái cũng như cuả
các nhà chú giải kitô. Nó là kiểu giải thích đã cho phép sách Diễm Ca được xếp
vào danh sách các tác phẩm kinh thánh được linh hứng, gọi là các tác phẩm hợp
quy, hợp với đòi hỏi của các luật lệ và là điều lệ sống đối với toàn nhân loại.
Thật là tự nhiên khi việc đồng hoá Phu Quân với Giavê và Hiền
Thê với dân Israel, theo tư tưởng do thái, ít nhất cho tới thế kỷ thứ I trở về
sau này đã chịu một sự biến đổi tận gốc rễ trong việc đọc hiểu kitô, với việc đồng
hoá Phu Quân với Chúa Kitô và Hiền Thê với Giáo Hội, và toàn sách Diễm Ca không
gì khác hơn là một loạt các bài ca cử hành hôn lễ, đã xảy ra trong sự Nhập
Thể của Con Thiên Chúa, là cử chỉ tuyệt đỉnh tình yêu của Thiên Chúa Cha
và Chúa Con đối với nhân loại, theo tư tưởng thánh Gioan trình bầy trong chương
3 câu 16 Phúc Âm: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin
vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Đây là tư tưởng của đa số các nhà chú giải công giáo, bắt đầu
từ các nhà chú giải sách Diễm Ca đầu tiên cho tới các vị tên tuổi nổi tiếng
không thể phủ nhận như Ricciotti, Robert, Feuillet và Tournay.
Thứ năm và sau cùng là một kiểu giải thích khác, có thể
gọi là “việc đọc hiểu trở lại có tính cách ngôn sứ khôn ngoan các bài ca
tình yêu cổ xưa của dân Israel”. Đây là kiểu giải thích của các nhà chú giải
như Dubarle, Audet, Buzy, Shedl và Nolli và cũng là giải thích chúng ta theo ở
đây.
Trước hết cần trao ban cho văn bản tất cả giá trị của nó,
như nó là trước mắt chúng ta, bằng cách giải thích nó theo chữ, đánh giá nó
trong hình thái thơ văn, trong văn thể của nó, trong âm nhạc tính các lời của
nó, đặt nó trở lại vào trong môi trường của các sáng tác tương tự về tình yêu của
các nền văn hoá khác. Ý nghĩa đầu tiên văn bản cống hiến cho chúng ta đó là
tình yêu của con người, được ca tụng cho chính nó trong tất cả các giai điệu và
biểu lộ của nó, hay nhằm mục đích cử hành đám cưới đúng đắn, đã là đáng đánh
giá cao lắm rồi, và được chứng tỏ trong Thánh Kinh bắt đầu từ sách Sáng Thế.
Chẳng hạn tả lại cảnh Thiên Chúa tạo dựng nên người nữ
chương 2 sách Sáng Thế viết: “ Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống
trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con
người ra, và lắp thịt thế vào. Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ
con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. Con người
nói: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được
gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra. Bởi thế, người đàn ông lìa
cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.” (St
2,21-24). Soạn giả sách Sáng Thế cũng tả lại cảnh Thiên Chúa phán xử hai vợ chồng
sau khi họ phạm tội và viết trong chương 3: “Với người đàn bà, Chúa phán:
"Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải
cực nhọc lúc sinh con.
Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị
ngươi." (St 3,16).
Thế là tương quan giữa chồng vợ, nam nữ không còn trong sáng
trong nhiệm vụ trợ giúp bổ túc cho nhau giúp đỡ nhau sống ơn gọi làm người nữa,
nhưng biến thành sự thèm muốn nhục dục và đam mê say đắm giữa nam nữ. Sự thật
này cũng được diễn tả trong câu chuyện của tổ phụ Abraham như kể trong chương
12 sách Sáng Thế: “Một nạn đói xảy ra trong xứ ấy, và ông Áp-ram xuống trú ngụ ở
Ai-cập, vì nạn đói hoành hành trong xứ. Vậy khi gần vào Ai-cập, ông nói với vợ
là bà Xa-rai: "Bà coi, tôi biết bà là một người phụ nữ có nhan sắc. Khi
người Ai-cập thấy bà, họ sẽ nói: "Vợ hắn đấy! ", họ sẽ giết tôi và để
cho bà sống. Vậy xin bà cứ nói bà là em tôi, để vì bà, người ta xử tốt với
tôi, và nhờ bà, tôi được sống." Khi ông Áp-ram đến Ai-cập, người Ai-cập
thấy vợ ông rất xinh đẹp. Quan lại của Pha-ra-ô thấy bà thì ca tụng bà trước
mặt Pha-ra-ô, và bà bị đưa vào đền Pha-ra-ô. Vì bà, người ta xử tốt với
ông Áp-ram; ông được chiên, dê, bò, lừa, tôi trai tớ gái, lừa cái, lạc
đà. Tại vì bà Xa-rai, vợ ông Áp-ram, Chúa giáng những tai ương lớn xuống
Pha-ra-ô và gia đình vua. Pha-ra-ô bèn cho gọi ông Áp-ram đến và nói:
"Ngươi làm gì ta thế? Tại sao ngươi đã không khai với ta rằng: nàng là vợ
ngươi? Tại sao ngươi lại nói với ta: "Nàng là em tôi", khiến ta
đã lấy nàng làm vợ? Bây giờ, vợ ngươi đấy, hãy nhận lấy và đi đi!
"Pha-ra-ô ra lệnh cho người của vua tống ông Áp-ram đi, cùng với vợ ông và
tất cả những gì ông có.” (St 12,10-20).
DC 04
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét