Đặt lại vấn đề các vụ hiện ra và
việc phân định chúng
Trong hai thế kỷ XVIII-XIX lập trường của Giáo Hội dựa trên
vài tiêu chuẩn đo Đức Prospero Lambertini, sau này là ĐGH Biển Đức XIV
(1740-1758), đề ra. Theo đó Giáo Hội chấp nhận các vụ hiện ra và các mạc khải
tư, để xây dựng và vì thiện ích của tín hữu. Nhưng các tin hữu có thể khước từ
chấp nhận và không buộc phải tin, cả khi các vụ hiện ra được Giáo Hội chấp nhận.
Tuy nhiên, trong Đại hội thánh mẫu học quốc tế triệu tập tại
Lộ Đức, nhân kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra với chị Bernadette Soubiroux
(1854), cha C. Balíc, giám đốc Học viện thánh mẫu học quốc tế, đã công khai đưa
vấn đề ra thảo luận và nêu lên hai câu hỏi. Thứ nhất, việc chấp nhận các vụ hiện
ra và các mạc khải tư này có phải là niềm tin nơi Thiên Chúa hay không? Và thứ
hai: việc chấp thuận chính thức các vụ Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức và Fatima từ
phía các Giáo Hoàng, lại không vượt quá việc đơn sơ cho phép hay sao?
Chúng không dấn thân sự bất khả ngộ sao? Có thể hỏi xem trong trường hợp này
chúng có dấn thân việc không thể sai lầm không? Và thay vì một cử chỉ của
“niềm tin chỉ có tính cách nhân bản”, thì trái lại phải cho các vụ hiện ra tại
Lộ Đức một sự chấp nhận của “niềm tin thần học”?
Có hai học giả là cha Roy dòng Biển Đức và cha Valentini
dòng Salesien đã nhận lòi mời của cha Balíc đến thuyết trình trong đại hội. Cha
Roy ủng hộ luận thuyết dấn thân hơn gồm hai điểm sau đây. Thứ nhất các vụ
hiện ra tại Lộ Đức được thừa nhận một cách giống với các cuộc tôn phong hiển
thánh, nên có tính cách của một sự kiện tín lý. Trong cách thức đó người ta hiểu
một sự kiện không bao gồm trong “mạc khải”, nhưng gắn liền một cách quá chặt chẽ
với sự thông truyền của nó để có thể thoát khỏi quyền bất khả ngộ của các Giáo
Hoàng. Trong phạm trù hàm hồ “các sự kiện tín lý” người ta bao gồm lời tuyên bố
danh sách các tác phẩm Thánh Kinh, sự kiện 5 khẳng định bị kết án tìm thấy
trong giáo thuyết của Giansenio, và việc phong thánh. Thứ hai, trong nghĩa này,
đây là đức tin của Giáo Hội, được xây dựng trên chứng tá của Giáo Hội và được
đòi hỏi bởi sự tuân phục con thảo của Giáo Hội.
** Cuộc tranh luận lại bùng nổ trong Đại hội thánh mẫu tại
Fatima với các bài thuyết trình của các cha I. Ortiz de Urbina và Moreira
Ferras. Cha Ferras ghi nhận tính cách tích cực, chứ không chỉ cho phép, của các
chấp thuận của Giáo Hội. Điều cần thừa nhận với các thần học gia Yves Congar,
Karl Rahner và Ortiz de Urbina đó là các chấp thuận của Roma đối với vài mạc khải
tư vượt quá việc cho phép đơn sơ hay không có gì chống đối. Thần học gia Rahner
viết: “Người ta không hiểu tại sao một mạc khải tư lại không phải được chấp nhận
bởi tất cả những người biết nó, nếu họ cảm thấy một cách chắc chắn đủ rằng nó đến
từ Thiên Chúa? Thật là không thể biện minh, vô lý và nguy hiểm yêu sách – như
thường xảy ra để chứng thực nguồn gốc thiên linh của các mạc khải tư sau Chúa
Kitô – yêu sách một mức chắc chắn đến độ, nếu người ta yêu sách đối với mạc khải
chính thức, thì sẽ khiến cho không thể được mọi nền tảng đức tin trong mạc khải
kitô.”
Tóm lại, có thể chấp nhận với thần học gia Rahner một cách
chủ quan rằng việc gắn bó với các mạc khải tư nằm trong lãnh vực của đức tin thần
học, không chỉ đối với thị nhân, mà cũng đối với cả những người nhận chứng tá
ngôn sứ của thị nhân nữa. Chính ĐGH Gioan XIII, trong sứ điệp radio ngày 18
tháng 2 năm 1959 hướng tới Lộ Đức, nhấn mạnh rằng các Giáo Hoàng đã coi là một
bổn phận phải lưu ý tín hữu liên quan tới các vụ hiện ra. Liên quan tới phạm
trù các sự kiện tín lý nó rất hàm hồ và bị tranh luận. Như đã thấy đa số các
nhà thần học trước Công Đồng Chung Vaticăng II đã chấp nhận rằng các vụ phong
thánh dấn thân sự không thể sai lầm trong tư cách là sự kiện tín lý. Giờ đây
phán đoán này về sự thánh thiện, dựa trên viêc duyệt xét dữ kiện đặc biệt và
suy diễn, thuộc cùng bản chất của phán đoán có đối tượng là các vụ hiện ra. Vì
thế là điều không rõ ràng làm sao lý thuyết cổ điển lại đã có thể dùng
hai quả cân và hai kiểu đo khác nhau giữa phán xử của việc phong thánh được coi
là không thể sai lầm và việc phán xử các vụ hiện ra được coi là một sự
khoan nhượng đơn thuần, vì nó không dấn thân đức tin. Và sự so sánh đi xa hơn rất
nhiều: cả hai truờng hợp đều liên quan tới việc sùng mộ. Ngày nay vấn đề đã
thay đổi, sự không thể sai lầm của các vụ phong thánh hầu như không được chấp
nhận nữa: trong tổng thể của nó nền thần học dè dặt hơn liên quan tới điều mà
ngưòi ta định nghĩa là sự kiện tín lý và tính cách không sai lầm của nó.
Liên quan tới việc phân định các vụ hiện ra trước hết
có khiá cạnh lý thuyết là việc lượng định sự siêu nhiên có thể cảm nghiệm.
Vấn đề mà các vụ hiện ra đặt ra đó là sự siêu nhiên có thể cảm nghiệm được. Điều
lạ lùng và hàm hồ trong các biểu lộ có thể cảm đuợc và có tính cách siêu nhiên
đó là đức tin được định nghĩa như việc chấp nhận các sự thật hay thực tại
không hiển nhiên. Nó là xác tín về điều người ta không trông thấy, và là
việc diễn tả trước điều chúng ta hy vọng, nói theo văn bản thư gửi tín hữu Do
thái hay Diễn từ về chức linh mục của Chúa Giêsu: “Đức tin là bảo đảm cho những
điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1). Và từ
đó phát xuất định nghĩa kết thúc Phúc Âm thánh Gioan: “Phúc cho những ai không
thấy mà tin” (Ga 20,29).
** Tin là gắn bó với các sự thật hay thực tại không hiển
nhiên. Đó là tin nơi lời nói, tin nơi chứng tá. Các thị kiến hay các vụ hiện ra
siêu nhiên tấn công việc áp dụng các luật lệ này, trong mức độ trong đó chính dấu
chỉ không có tính cách cơ cấu, quy ước, tự nhiên như là các bí tích và các điều
có tính cách bí tích, nhưng là siêu nhiên được ban cho như là ơn.
Như vậy, thật là quan trọng nhớ rằng các thị kiến hay các vụ
hiện ra siêu nhiên không thay thế đức tin, nhưng đưa đức tin ra ánh sáng, đặt để
nó như nguyên tắc giúp nhận ra và phân biệt điều được biểu lộ. Còn tốt hơn nữa,
những điều được biểu lộ bình thường xem ra tuỳ thuộc trật tự của các dấu chỉ
hơn là tuỳ thuộc một trực giác tức khắc các thực tại siêu nhiên. Nếu có một
loan báo nơi sự kiện các vụ hiện ra của Đức Trinh Nữ khác biệt liên quan tới y
phục – và trong một nghĩa nào đó khó lượng định hơn - liên quan tới tuổi tác,
gương mặt, chính mầu mắt, thì lại nguy hiểm việc giải thích lý do của các thay
đổi đó.
Đề cập tới dấu chỉ không có nghĩa là nói tới các ảo tưởng. Mọi
hiểu biết nhân loại trên trần gian này đều là sự hiểu biết qua các dấu chỉ:
bởi vì dấu chỉ, bất cứ nó là dấu chỉ nào đi nữa, đều là một phương tiện giúp hiểu
biết và cho phép đạt tới chính thực tại với sự trung gian của nó, theo các kiểu
khác nhau. Trong nghĩa này có một sự tương đối tuỳ thuộc kiểu thường là bí nhiệm
của sự trung gian. Việc nói tới các dấu chỉ không loại bỏ rằng một vụ hiện
ra có thể có tích cách khách quan. Nhưng tích cách khách quan không được tùy
thuộc các điều kiện chịu sự đong đếm như sự thường xuyên và chiều dài làn sóng
của các nhịp rung định tính sự hiểu biết cảm nhận được một cách vật chất. Nếu
Chúa Kitô hay Đức Trinh Nữ muốn tự biểu lộ ra, thì đó sẽ là một sự thông truyền
“thuộc thứ loại của nó”, khó mà có thể xác định kiểu hiện hữu. Đây là một trong
các lý do qua đó mọi vụ hiện ra đều tương đối so với điều nòng cốt của đức
tin.
Chúng ta có thể thu góp nhiều khác biệt khác nữa. Một việc
hiện ra nói chung là một hiện tượng không kéo dài, hay sự ngắn gọn thường là một
tiêu chuẩn của tính chất đích thực, trong khi đức tin thì thường hằng. Một thị
kiến hay một việc hiện ra cung cấp một sự hiển nhiên cảm nhận được trái nghịch
với quy chế đêm tối của đức tin, đêm đen của các giác quan. Bình thường nó có
tính cách đặc biệt, gắn liền với một vùng miền hay một thời đại. Tự nó điều này
không phải là một mâu thuẫn, bởi vì đức tin và sự mạc khải luôn luôn đâm rễ sâu
trong một thời đại và một nơi chốn đặc biệt. Chúng ta hãy nghĩ tới các sứ điệp
của các ngôn sứ chẳng hạn. Nhưng các vụ hiện ra trong thời của Giáo Hội có một
nhiệm vụ hạn hẹp hơn, đặc biệt trong lịch sử cứu rỗi, cả khi sự thông truyền
này không thiếu chiều kích hoàn vũ.
** Đức tin là sự chắc chắn, trong nghĩa nó định nghĩa nền thần
học, không phải với sự hiển nhiên của đối tượng, nhưng qua chứng tá thân tình của
chính Thiên Chúa. Ngược lại, một việc hiện ra chỉ có thể được nhận diện qua các
dự phóng phức tạp và khác biệt: đó là lý do giải thích sự thận trọng của Giáo Hội.
Tuy nhiên, điều này không loại trừ rằng ánh sáng được ban cho các thị nhân có
thể, qua ơn thánh, cho chúng một sự hiển nhiên và một chắc chắn tương tự như sự
chắc chắn của đức tin. Và sau cùng, sứ điệp của của một vụ hiện ra không được
thêm vào lời của Thánh Kinh và của Truyền Thống từ bên ngoài, như là một bổ túc
hay một lời nói khác, nhưng gợi lại hay biểu lộ với sức mạnh mới điều đã được mạc
khải. Như chúng ta đã nói, nhiệm vụ của nó là làm sống dậy đức tin và niềm hy vọng.
Như thế, các biểu lộ đặc sủng này dấy lên vấn đề các tương
quan giữa quyền bính chính thức của Giáo Hội và các ơn đặc sủng nhưng không. Nếu
không phải là điều bị loại trừ sự kiện quyền bính hưởng nhờ các đặc sủng đặc biệt
- và đây là điều thường xảy ra - thì trong nhiều trường hợp đây là các tín hữu
thường. Và việc hiện ra, xem ra trực tiếp liên lạc với trời, lại dấy lên
sự nghi ngờ của giáo quyền, phán xử theo các tiêu chuẩn khiêm tốn hơn. Điều này
làm nảy sinh ra các căng thẳng đã làm giảm thiểu hay đàn áp các hiện tượng này
một cách đôi khi thái quá. Thật thế, việc cần sự hiện diện, các dấu chỉ, ánh
sáng, sự hiển nhiên đã luôn luôn là phần của đức tin, nơi các ngôn sứ thời cựu
ước cũng như trong Giáo Hội thời khai sinh qua các thế kỷ. Đức tin tìm ánh sáng
và các dấu chỉ của Thiên Chúa. Ở đâu các dấu chỉ đóng góp một phần ngoại
thường của sự hiện diện hay sự hiển nhiên, thì chúng đòi hỏi nhiều thận trọng
và phân định, bởi vì chúng có thể sai lạc và có tính cách chủ quan. Tuy nhiên,
một đường lối đàn áp và thuần tuý tiêu cực chỉ trích bề ngoài, duy lý hay phân
tâm học vv… không nhất thiết là lành mạnh và phong phú. Chắc chắn là có các trường
hợp, trong đó sự sai lầm phải bị khước từ hay đàn áp với quyền bính của Thiên
Chúa, và cần phải làm điều đó với sự cương quyết, như ĐC Laurence, Giám Mục Lộ
Đức, đã làm thời có nạn dịch các thị nhân tại Lộ Đức. Sau vụ Đức Mẹ hiện ra với
chị Bernadette Soubiroux, có hàng chục người khác cũng tuyên bố họ trông thấy Đức
Mẹ hiện ra. Nhưng hành động tốt nhất của Đức Cha đã là việc phân định và hướng
dẫn các dấu chỉ đến từ trên cao và đem lại hoa trái. Và như vậy thật đáng cầu
mong là không có một sự căng thẳng giữa quyền bính cơ cấu và các đặc sủng như
đã quá thường xảy ra trong quá khứ.
TMH 533
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét