15/07/2018
Chúa Nhật tuần 15 Thường Niên năm B
(phần I)
Bài Ðọc I: Am 7, 12-15
"Hãy đi nói
tiên tri cho dân Ta".
Trích sách Tiên tri
Amos.
Trong những ngày ấy,
Amasia (vị tư tế ở Bêthel) nói cùng Amos rằng: "Hỡi tiên tri, người hãy trốn
sang đất Giuđa, sinh sống và nói tiên tri ở đó. Chớ tiếp tục nói tiên tri ở
Bêthel, vì đó là thánh điện của vua và là đền thờ của vương quốc". Amos trả
lời cùng Amasia rằng: "Tôi không phải là tiên tri, cũng không phải là con
của tiên tri, nhưng là đứa chăn bò (và chuyên) đi hái trái sung. Khi tôi đang
đi theo đàn chiên, thì Chúa dẫn tôi đi và nói cùng tôi rằng: "Ngươi hãy đi
nói tiên tri cho dân Israel của Ta".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 84, 9ab
-10. 11-12. 13-14
Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và
ban ơn cứu rỗi cho chúng con (c. 8).
Xướng: 1) Tôi sẽ nghe
Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự
bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang
Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi. - Ðáp.
2) Lòng nhân hậu và
trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Tự mặt đất,
đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Ðáp.
3) Vâng, Chúa sẽ ban
cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái, đức công minh
sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Ep 1, 3-10 {hoặc 3-14}
"Ngài đã chọn
chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian".
Trích thư Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Chúc tụng Thiên Chúa
là Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Ðấng đã chúc lành cho chúng ta bằng mọi
phúc lành thiêng liêng trên trời, trong Ðức Kitô. Như Ngài đã chọn chúng ta
trong Người trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta được nên thánh thiện và
tinh tuyền trước mặt Ngài trong tình yêu thương.
Chiếu theo thánh ý
Ngài, Ngài đã tiền định cho ta được phúc làm con nhờ Ðức Giêsu Kitô, để chúng
ta ca tụng vinh quang ân sủng của Ngài mà Ngài đã ban cho chúng ta được ơn cứu
chuộc nhờ máu Người, được ơn tha tội theo sự phong phú của ân sủng Ngài. Ân sủng
này, Ngài đã đổ tràn đầy trên chúng ta với tất cả sự khôn ngoan thượng trí, khiến
chúng ta được biết mầu nhiệm ý định của Ngài, theo ý Ngài đã định về Người, để
kiện toàn trong thời gian viên mãn, là thâu hồi vạn vật trên trời dưới đất
trong Ðức Kitô.
{Cũng trong Người mà chúng tôi được kêu gọi làm thừa tự,
được tiền định theo ý định của Ngài là Ðấng tác thành mọi sự theo thánh ý Ngài,
để chúng tôi trở thành lời ca vinh quang của Ngài, chúng tôi là những kẻ trông
cậy vào Ðức Kitô. Trong Người, cả anh em nữa, sau khi anh em đã nghe lời chân
thật là Tin Mừng cứu rỗi anh em, anh em đã tin và được ghi dấu Thánh Thần, như
đã hứa. Người là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, để chúng ta được ơn cứu
chuộc, và được ca ngợi vinh quang Ngài.}
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 1, 14 và
12b
Alleluia, alleluia! -
Ngôi Lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người
ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 7-13
"Người bắt đầu
sai các ông đi".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi
mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên
các thần ô uế. Và Người truyền các ông đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy,
không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng
mặc hai áo. Người lại bảo: "Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho
đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy
ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ". Các ông ra đi rao giảng
sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ðược Sai Ði
Truyền Giáo
Những bài Kinh Thánh vừa
nghe đọc cho phép chúng ta gọi Chúa Nhật hôm nay là ơn gọi. Chúng ta được nghe
nói về ơn gọi của Amos, ơn gọi của các tông đồ, ơn gọi của hết thảy Kitô hữu.
Chúng ta đừng tưởng chỉ có bài thư Phaolô nói về ơn gọi Kitô hữu mới trực tiếp
liên hệ đến chúng ta. Hai bài Kinh Thánh kia, dễ hiểu hơn, cũng muốn giáo huấn
chúng ta trong các sứ mạng tiên tri, vương đế và tư tế của dân Chúa. Chúng ta
hãy lần lượt soi gương những người đã thi hành các sứ mạng này.
1. Amos Trung Thành Với
Sứ Mạng Tiên Tri
Ðể hiểu bài sách tiên
tri Amos trên đây, chúng ta cần nhớ: thời ấy có một cuộc phân tranh ở trong dân
Chúa. Mười chi họ phía Bắc làm thành nước Israel; hai chi họ phía Nam thành nước
Yuđa. Yêrusalem trở thành thủ phủ miền Nam; đang khi Samaria dần dần trở nên thủ
phủ miền Bắc. Ðể dân chúng của mình không đi lại lễ bái nơi Ðền thờ Chúa ở Yêrusalem
nữa, các vua Israel lập ra nơi thờ cúng ở Bethel. Hàng tư tế ở đó được chiếu cố
đặc biệt để lễ nghi trở nên huy hoàng và sầm uất hầu lấn át và làm quên sinh hoạt
tôn giáo ở Yêrusalem. Ðó là một thứ chính trị nhằm đào sâu và củng cố việc chia
cắt đất đai và đời sống của một dân đã được Chúa chọn để chuẩn bị công việc tái
lập sự hiệp thông mà tội lỗi đã phá vỡ. Thiên Chúa không làm ngơ trước những
mưu đồ như vậy.
Người chọn Amos, một
người ở gần Bêlem để đưa lên làm tiên tri ở phía Bắc. Ông trở thành vị tiên tri
văn sĩ đầu tiên; tức là trước ông chưa có tiên tri nào để lại bút tích. Không
phải chính ông đã viết nên tất cả cuốn sách hiện thời mang tên ông. Ðúng ra nó
là tác phẩm của môn đệ ông. Nhưng nó làm vọng lại lời giảng của ông nhiều khi rất
trực tiếp. Người ta xếp ông đứng đầu số các tiên tri nhỏ không ngoài mục đích
muốn nói rằng tác phẩm mang bút danh Amos đứng đầu các sách tiên tri có nội
dung ngắn sánh với các sách Tiên tri lớn là Isaia, Yêrêmia, Ezekiel và Ðaniel.
Nguyên sự hiện diện của
Amos ở Israel đã là một vấn nạn lương tâm cho những người có óc chia rẽ trục lợi.
Nó nói lên chủ trương đoàn kết và hiệp nhất của giao ước cứu độ. Hơn thế nữa, sứ
điệp của Amos lại công kích các bất công xã hội, lên án các lễ nghi tôn giáo lấy
hào nhoáng che giấu tâm tư tội lỗi. Hàng tư tế và nhà cầm quyền hợp lực với
nhau để tống cổ Amos về nguyên quán. Ðoạn sách Phụng vụ đọc cho chúng ta nghe
hôm nay thuật lại cuộc đấu khẩu giữa tư tế Amacya và nhà tiên tri. Nhân danh
hàng đạo đức ở Bêthel và cậy vào quyền lực của nhà vua, Amacya đuổi Amos trở về
Yuđa. Ông tỏ ra chẳng hiểu tí gì về sứ mạng tiên tri. Ông coi Amos như là một
thầy bói hay một tiên tri làm nghề nói mò để kiếm tiền. Ông cấm Amos không được
tuyên sấm ở Bêthel nữa vì sứ điệp của ông không hợp với chính trị của nhà vua.
Nhưng Amos không chịu. Ông cãi lại. Ông nói rằng ông không phải là người làm
nghề tiên tri. Trước kia ông chẳng bao giờ nghĩ đến việc tuyên sấm. Ông chăn
chiên và trồng sung lấy trái cho chiên ăn. Nhưng một ngày kia, Thiên Chúa đã gọi
ông và truyền cho ông phải đi tuyên sấm... Ông yêu nhà Israel lắm chứ, nhưng
Chúa lại bảo phải cảnh cáo cho nó biết nó sẽ rơi vào tay quân thù và con cái nó
sẽ bị đem đi đày. Sứ điệp ấy là của Chúa. Ông vâng theo và sẽ vâng theo mãi
mãi.
Chúng ta không cần hỏi
thêm về kết cục của câu truyện. Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta ý thức về sứ mạng
tiên tri. Kẻ Người chọn không có khả năng tự nhiên. Chính Người trao Lời của
Người cho kẻ ấy. Nhà tiên tri đến nói thay cho Người; và như vậy chỉ là phát
ngôn viên của Người. Sứ điệp tiên tri có mục đích đưa người ta trở về giao ước,
nối lại sự hiệp thông mà tội lỗi đã phá hủy khi dựng nên những tham vọng bất
chính. Lời nói đạo đức ấy không vừa tai nhiều người. Bị xua đuổi, bắt giữ, giết
chết là số phận của hầu hết các tiên tri chân chính; đang khi những kẻ tuyên sấm
chiều theo sở thích của người đời lại thường được bảo hộ. Nhưng như lời Phaolô
nói sau này: tiên tri của Chúa có thể bị cầm giữ nhưng Lời Chúa chẳng bao giờ
xích lại. Môn đồ của Amos đã ghi lại lời sấm của ông. Sứ điệp này được loan qua
các thời đại và ảnh hưởng của nhà tiên tri luôn mạnh mẽ.
Nếu chúng ta có một niềm
tin như vậy đối với sứ mạng tiên tri nơi ơn gọi Kitô hữu! Chúng ta sẽ thấy phải
học hỏi và biết rõ sứ điệp Tin Mừng Cứu độ của Chúa hơn nữa. Và chúng ta phải
loan truyền bằng đời sống, lời nói những gì chúng ta đã nghe biết về hạnh phúc
con người. Chỉ có một điều đáng sợ là chính tiếng nói ích kỷ của các dục vọng ở
nơi chúng ta sẽ làm tắt Lời Chúa ghi trong tâm hồn, hay sẽ làm cho Lời ấy trở
nên vô hiệu và có thể đáng cười vì nếp sống không đi đôi với lời tuyên sấm của
chúng ta. Muốn tập trở thành những tiên tri đích thực của Chúa, chúng ta hãy để
mình được chính Người sai đi như các tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay.
2. Các Tông Ðồ Ðược
Sai Ði Truyền Giáo
Thánh Marcô cho chúng
ta thấy Ðức Yêsu gọi 12 tông đồ lại. Người sai họ đi từng đôi một, sau khi ban
cho họ được quyền trên các uế thần. Chúng ta có thể coi đây là quyền vương đế
mà ơn gọi Kitô hữu nào cũng có. Và chúng ta thấy rõ ràng các tông đồ đã thi
hành quyền ấy khi các ông trừ quỷ và chữa bệnh. Vì có quyền cai trị nào thế lực
hơn khả năng xua đuổi được tà thần và chữa lành được các vết thương do tội lỗi
gây ra? Nói cách khác, sứ mạng vương đế mà chúng ta thường nghe nói đã được ban
cho các Kitô hữu trong bí tích Rửa tội, không phải là hình thức thống trị nào
kiểu trần gian, nhưng là khả năng tiêu diệt được quyền lực tối tăm của ma quỷ hằng
lôi cuốn và cầm giữ người ta trong vòng nô lệ tội lỗi. Người Kitô hữu kết hợp với
Ðức Kitô trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh được tham dự vào sức mạnh chiến thắng
của Người. Họ có thể tựa vào ơn Người để sống tự do như con cái Thiên Chúa, giống
như Adong trước khi sa ngã "linh ư vạn vật".
Ngày nay để thi hành sứ
mạng vương đế ấy, Ðức Yêsu bảo các tông đồ phải có hành trang nhẹ. Họ không được
đem gì đi đàng; không bánh, không bị, không tiền. Ðược cầm gậy, được mang hai
áo. Ðến đâu, họ cứ vào nhà ai tiếp rước họ và ở đấy cho đến lúc ra đi. Chỗ nào
không đón tiếp thì họ hãy đi khỏi nơi ấy, rũ bụi chân để làm chứng trước mặt
chúng.
Thật ra, thánh Marcô
đã muốn thích nghi lệnh của Chúa vào thời đại của Người... Người nói rằng các
tông đồ được cầm gậy, mang dép, đang khi theo thánh Matthêu và Luca, không được
làm như vậy. Dù sao tính cách từ bỏ và khó nghèo tuyệt đối vẫn được tôn trọng.
Cho cầm gậy và mang dép chỉ để nói lên tính cách lên đường của ơn gọi tông đồ.
Ơn gọi này như đã nói
nhằm kéo người ta ra khỏi quyền lực của Satan và tội lỗi để cho phép họ được
chia sẻ sứ mạng vương đế của Ðức Kitô khi Người chiến thắng tội lỗi và tử thần.
Mầu nhiệm đưa Người lên vinh quang làm "Chúa" là việc tử nạn phục
sinh mà Người đã thi hành trong tinh thần khó nghèo và từ bỏ tuyệt đối. Chính
vì thế mà Người đã chỉ thị cho các tông đồ khi đi mở rộng Nước Chúa phải tỏ ra
khó khăn và từ bỏ, để sức mạnh của Thiên Chúa phát huy và viên thành trong sự yếu
đuối và sự hư vô của con người.
Như vậy sứ mạng vương
đế của người Kitô hữu thật là độc đáo. Nó không phải là thống trị đối với người
khác hay cai trị đối với tạo vật, nhưng là tự chủ chiến thắng dục vọng để vươn
lên tới đời sống tự do của con cái Thiên Chúa. Bấy giờ tất cả tạo vật cũng sẽ
hân hoan như được đưa ra khỏi cơn đau sinh nở theo lời thánh Phaolô đã nói. Và
từ khắp nơi một bài ca tán tụng sẽ được dâng lên Thiên Chúa khiến sứ mạng tư tế
của người Kitô hữu cũng được hoàn thành. Về sứ mạng này, chúng ta hãy nghe Lời
Chúa trong bài thư hôm nay.
3. Phụng Vụ Tạ Ơn
Ít khi chúng ta gặp một
đoạn văn như đoạn thư Êphêsô này. Thánh Tông đồ như hát một hơi dài. Người để
lòng mình thốt ra những tâm tình tạ ơn dào dạt. Phụng vụ Dothái giáo đã có nhiều
bản văn như vậy. Ở đây tác giả dùng lại mọi chủ đề quen thuộc: tạ ơn Chúa đã
tuyển chọn (4-5), đã cứu chuộc (6-7), đã tập hợp lại (8-10), đã ban những gì đã
hứa (11-12) và nhất là đã đổ ơn Thánh Thần xuống (13-14). Cái mới nằm ở những
câu nói về Ðức Yêsu Kitô và Ðấng Thiên Chúa đã tuyển chọn để ban tất cả những
ơn lành trên đây cho chúng ta, khiến mỗi khi nhắc đến chúng ta phải không ngớt
lời tạ ơn.
Với bản kinh này,
thánh Phaolô cho chúng ta thấy một kiểu mẫu để thi hành sứ mạng tư tế của ơn gọi
Kitô hữu. Nói đến tư tế, người ta nghĩ đến con người dâng lễ. Và cụ thể hơn,
người ta hình dung con người dâng lễ vật. Hơn nữa lễ vật cụ thể là các tế vật
như ở Yêrusalem thời Cựu Ước. Nhưng đó là những quan niệm chưa được thanh lọc.
Ðức Kitô đã đến khai mạc một phụng vụ tinh tuyền. Người đến tìm những con người
tôn thờ trong chân lý và tinh thần. Lễ dâng của Hội Thánh là thánh lễ tạ ơn,
trong đó nhắc nhở và tung hô mọi kỳ công mà Thiên Chúa đã làm trong lịch sử. Ðặc
biệt thánh lễ tái hiện mầu nhiệm Ðức Kitô để đem tất cả tạo vật được cứu chuộc
vào sự sống mới. Người tín hữu dâng lễ thấy tình thương Thiên Chúa mở rộng, đón
nhận mọi người con lạc bước trở về. Những người này không những được tha thứ mà
còn được trở nên giàu có nhờ ơn đa diện của Thánh Thần, để từ lòng họ không bao
giờ ngớt lời cảm mến và đôi tay họ sẽ đem về bao lễ dâng trên bàn thờ là các việc
lành phúc đức họ sẽ làm nhờ ơn Thánh Thể bồi dưỡng. Ngay cả các đau thương ở đời
cũng sẽ được họ dâng lên bởi vì thánh lễ đạo mới tập trung vào mầu nhiệm thập
giá của Ðức Kitô.
Như vậy sứ mạng tư tế
của người tín hữu không bao giờ hết. Họ dâng lễ cho mình và cho mọi tạo vật. Họ
đem tất cả vào nơi cơ thể của Ðức Kitô để ca tụng tình yêu của Thiên Chúa đang
thi hành kế hoạch cứu độ tình thương đối với mọi loài. Họ chỉ làm được như vậy
khi đã được giải thoát khỏi vây hãm của tội lỗi và Satan... Sứ mạng tư tế phải
tựa vào sứ mạng vương đế như điều kiện. Và chính sứ mạng này lại phải nhờ sứ mạng
tiên tri mà hiểu biết kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa để tham dự vào.
Chính trong thánh lễ
này chúng ta cũng thi hành cả ba sứ mạng đó. Lời Chúa nói với chúng ta không những
để biến chúng ta nên các tiên tri của Người trong thế giới ngày nay; nhưng cũng
kêu gọi chúng ta từ bỏ những gì còn liên quan đến tội lỗi để trở thành con cái
tự do của Thiên Chúa mà đồng trị với Ðức Kitô. Nhận biết cương vị của mình như
vậy, chúng ta sẽ hiệp dâng thánh lễ với Người để thi hành sứ mạng tư tế... Và tất
cả chỉ là khởi sự vì thánh lễ ban sự sống mới của mầu nhiệm Ðức Kitô tử nạn phục
sinh, không phải để chấm dứt nơi bàn thờ nhưng để làm sinh động tất cả cuộc sống
con người và giúp họ thi hành sứ mạng tiên tri, vương đế và tư tế ở mọi nơi và
trong mọi ngày.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 15 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Amo
7:12-15; Eph 1:2-14; Mk 6:7-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ơn
gọi của con người qua Đức Kitô.
Con người thiển cận thường cho tất cả những gì mình có được là do sức cố gắng
và tài năng của mình; nhưng nếu họ chịu suy nghĩ và có cái nhìn bao quát hơn, họ
sẽ nhận ra tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa. Khi con người nhìn ra điều đó,
con người sẽ biết ơn Thiên Chúa, và sẽ cố gắng làm mọi cách để rao truyền tình
yêu của Thiên Chúa, để mọi người đều tin Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay giúp con người nhận ra tất cả những gì họ sở hữu đều là hồng
ân của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, khi bị Amaziah ngăn cản và không cho nói
tiên tri tại vương quốc Israel, Amos đã thẳng thắn trả lời: Ông không lựa chọn
để trở thành ngôn sứ; nhưng Thiên Chúa đã chọn và sai ông đi để nói những gì
Ngài muốn nói. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Ephesô nêu lên tất cả những hồng
ân mà Thiên Chúa đã ban cho con người qua Đức Giêsu Kitô. Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu lựa chọn Nhóm Mười Hai để huấn luyện, ban quyền, và sai các ông đi để rao
giảng Tin Mừng và chữa lành mọi vết thương hồn xác.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa chọn lựa ông Amos và sai đi tuyên sấm.
1.1/ Phản ứng của
Amaziah: Tiên-tri Amos sinh ở Tekoa, một
làng thuộc vương quốc Judah ở miền Nam; nhưng Thiên Chúa lại sai ông đi thi
hành sứ vụ tiên tri tại vương quốc Israel, miền Bắc. Ông sống trong một giai đoạn
rất khó khăn của lịch sử Israel (721 BC), vì dân chúng quay lưng lại với Thiên
Chúa, để chạy theo các thần ngoại bang; thêm vào đó, các vua quan toa rập nhau
để ức hiếp dân nghèo, và tiếng kêu cứu của họ đã vang lên tới Thiên Chúa. Amos
không sợ bất cứ một thế lực nào của vua quan, ông can đảm tố cáo những điều họ
đã xúc phạm tới Ngài, và tuyên sấm mất nước và lưu đày sẽ xảy ra nếu họ không
biết ăn năn trở lại. Đó là lý do tại sao Amaziah khinh thường và xua đuổi ông
Amos trong trình thuật hôm nay: “Này thầy ngôn sứ ơi, mau chạy về đất Judah, về
đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! Nhưng ở Bethel này, đừng có hòng nói tiên
tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều.”
1.2/ Phản ứng của Amos: Ông Amos trả lời ông Amaziah: “Tôi không phải là ngôn sứ,
cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật
và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật,
và Đức Chúa đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta.”” Hai điều
nổi bật Amos muốn đề cập tới ở đây:
(1) Ông được Thiên Chúa bắt đi khi ông đang làm việc, chứ chính ông không tình
nguyện để đi tuyên sấm.
(2) Ông không lợi dụng danh nghĩa ngôn sứ để kiếm lợi nhuận vật chất như
Amaziah buộc tội, vì ông đang có việc làm để sinh sống.
2/ Bài đọc II: Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ
trụ.
2.1/ Nhận ra hồng ân của
Thiên Chúa: Trong phần đầu của trình thuật
hôm nay, thánh Phaolô muốn các tín hữu Ephesô nhận ra tất cả những ơn lành
Thiên Chúa đã ban cho họ qua Đức Kitô: “Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước
cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh
thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người
đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng
rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu.” Đây là một đoạn
văn chứa nhiều tư tưởng mặc khải, chúng ta cần suy tư từng chi tiết để hiểu những
gì Thiên Chúa đã làm cho con người:
(1) Cho chúng ta có mặt trong cuộc đời: “Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước
cả khi tạo thành vũ trụ.” Thánh Gioan nói rõ hơn: “Tất cả đều nhờ Người mà được
tạo thành; không có Người, chẳng có chi được tạo thành” (Jn 1:3).
(2) Cho chúng ta biết Đức Kitô: Thiên Chúa quan phòng cho con người được gặp gỡ
Đức Kitô, cách trực tiếp khi Ngài xuống trần hay cách thiêng liêng qua việc rao
giảng Tin Mừng; không những thế, Ngài còn gởi Thánh Thần vào tâm hồn con người
để soi sáng cho con người hiểu những gì Đức Kitô nói và thúc đẩy con người tin
vào Đức Kitô. Thánh Phaolô xác quyết: “Không ai có thể tin Đức Kitô nếu không
do Thánh Thần của Thiên Chúa tác động” (I Cor 12:3).
(3) Cho chúng ta trở thành nghĩa tử nhờ niềm tin vào Đức Kitô: “Còn những ai
đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên
con Thiên Chúa” (Jn 1:12).
(4) Cho chúng ta nhận ra hồng ân và ngợi khen Thiên Chúa: “Để ta hằng ngợi khen
ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu.”
(5) Cho chúng ta trở nên tinh tuyền thánh thiện: Với sự rửa sạch của Đức Kitô
và sự thánh hóa của Chúa Thánh Thần, con người có thể trở nên tinh tuyền thánh
thiện, xứng đáng là những nghĩa tử của Thiên Chúa, những môn đệ giống như Đức
Kitô.
(6) Cho chúng ta sạch khỏi mọi tội lỗi: “Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra
chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú
của Người.”
(7) Cho chúng ta thấu hiểu sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Ân sủng này, Thiên
Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu.” Nếu con người
chịu học hỏi Kinh Thánh, họ sẽ không thiếu bất kỳ sự khôn ngoan nào cần thiết
cho cuộc đời.
(8) Cho chúng ta thấu hiểu Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức
Kitô: “Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu
thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên
mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô.”
Hiểu như thế, tất cả những gì chúng ta có được, đều là hồng ân của Thiên Chúa.
Chúng ta không được kiêu hãnh coi những điều tốt lành chúng ta đang sở hữu là của
mình, nhưng phải biết sấp mình xuống và cám ơn tình yêu bao la Thiên Chúa đã
dành cho chúng ta.
2.2/ Ơn gọi làm ngôn sứ để
rao giảng Tin Mừng: Sau khi đã nhận ra tình
yêu Thiên Chúa, con người có bổn phận loan truyền tình yêu này cho mọi người.
Phaolô không những ý thức được ơn gọi rao giảng Tin Mừng mà Đức Kitô đã trao
cho ông, nhưng còn là của mọi tín hữu.
(1) Của Phaolô: “Cũng trong Đức Kitô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo
quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp
riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng
vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người.” Khi Phaolô đã thấu hiểu những
điều Thiên Chúa đã làm cho ông qua Đức Kitô, ông dùng cả cuộc đời để ngợi khen
Thiên Chúa. Ngay cả việc sai Phaolô đi để rao giảng Tin Mừng cũng bắt nguồn từ
Đức Kitô. Ngài sai ông đi để rao giảng Tin Mừng, làm cho mọi người hiểu biết và
tin vào Đức Kitô để nhận được những hông ân Thiên Chúa ban qua Đức Kitô.
(2) Của mọi tín hữu: “Trong Đức Kitô, cả anh em nữa anh em đã được nghe lời
chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Kitô, một khi đã tin, anh em
được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần
gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để
ngợi khen vinh quang Thiên Chúa.” Các tín hữu sau khi đã chịu Phép Rửa cũng có
bổn phận phải ra đi rao giảng Tin Mừng, làm cho mọi người nhận biết và tin vào
Đức Kitô.
3/ Phúc Âm:
Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một.
3.1/ Chúa Giêsu sai các
Tông-đồ đi rao giảng Tin Mừng: “Người gọi
Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông
quyền trừ quỷ. Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ
cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi
dép, nhưng không được mặc hai áo.” Hai tư tưởng nổi bật trong đoạn văn này:
(1) Chúa Giêsu gọi, dạy dỗ, ban quyền, và sai các tông-đồ đi rao giảng Tin Mừng,
chứ các ông không tình nguyện theo Ngài trước. Khi các môn đệ rao giảng, các
ông rao giảng Tin Mừng các ông đã nghe được nơi Đức Kitô, chứ không phải những
gì của các ông. Sức mạnh chữa lành và sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa, chứ
không phải đến từ các ông.
(2) Rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu các môn đệ phải thi hành, chứ
không phải là bất kỳ bổn phận nào khác. Để chu toàn bổn phận này, Chúa Giêsu biết
người môn đệ phải sống một cuộc đời đơn giản: càng ít lệ thuộc vào vật chất bao
nhiêu càng tốt; vì Ngài biết khi người môn đệ bắt đầu lệ thuộc quá nhiều vào vật
chất, người môn đệ sẽ xao lãng bổn phận rao giảng Tin Mừng
3.2/ Ơn gọi rao giảng Tin
Mừng: Hai điều quan trọng các môn đệ cần biết
khi rao giảng:
(1) Khán giả có thể tiếp nhận hay từ chối các sứ giả loan báo Tin Mừng: Chúa
Giêsu báo trước cho các môn đệ chuẩn bị điều này, khi Người dặn các ông: “Bất cứ
ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi
nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi
chân để tỏ ý phản đối họ.”
Con người được Thiên Chúa ban cho có tự do để nhận ra và tin vào sự thật, Ngài
không ép buộc con người phải tin những gì họ không muốn. Các môn đệ cũng thế, họ
không thể ép buộc khán giả tin những gì họ không muốn tin. Điều các môn đệ có
thể làm được là trình bày sự thật và những lợi ích do việc sống theo sự thật
mang lại, với hy vọng con người sẽ nhận ra và tin theo. Nếu họ từ chối không chấp
nhận sự thật, các môn đệ cũng đừng buồn, vì có nhiều lý do khiến con người từ
chối chấp nhận sự thật, như đã từng xảy ra với khán giả của Chúa Giêsu.
(2) Mục tiêu của việc rao giảng là “kêu gọi người ta ăn năn sám hối.” Khi người
môn đệ rao giảng Tin Mừng, người môn đệ phải giúp khán giả nhận ra tình yêu
Thiên Chúa và những lầm lỗi của họ đã quay lưng lại với tình yêu này, để họ ăn
năn trở lại với tình thương Thiên Chúa; chứ không phải là lúc giải trí, làm cho
con người thư giãn sau những giờ phút làm ăn mệt nhọc, cũng không phải là lúc để
người môn đệ quảng cáo sự khôn ngoan hiểu rộng của mình.
Các quyền trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm, và chữa họ khỏi bệnh
là từ Đức Kitô ban cho các môn đệ để khán giả tin vào những lời các ông rao giảng.
Hiểu như thế, các việc này chỉ là phương tiện; chứ không bao giờ có thể thay thế
việc rao giảng Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG
CUỘC SỐNG:
– Tất cả những gì chúng ta đang có được là do bởi tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta
đừng bao giờ kiêu hãnh để khinh thường người khác; nhưng phải biết cảm tạ Thiên
Chúa, sống cuộc đời tốt lành thánh thiện, và biết loan truyền Tin Mừng đến mọi
người.
– Rao giảng Tin Mừng là bổn phận quan trọng hàng đầu Đức Kitô trao cho chúng ta
là những môn đệ của Ngài. Khi rao giảng Tin Mừng chúng ta loan báo những gì
Ngài dạy dỗ chúng ta, và làm sao để muôn dân tin yêu Ngài.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
15/07/2018 – CHÚA NHẬT TUẦN 15 TN – B
Th. Bô-na-ven-tu-ra, giám mục, tiến sĩ HT
Mc 6,7-13
“NGƯỜI CHỈ THỊ CHO CÁC ÔNG…”
“Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người
một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. Người chỉ thị cho các ông…” (Mc
6,7-8)
Suy niệm: Chúa Giê-su sai Nhóm Mười Hai ra đi rao giảng “với quyền trừ quỷ”.
Sứ mệnh đặc biệt này được kèm theo bởi một chỉ thị cụ thể và chi tiết, liên
quan đến việc phải ăn mặc thế nào, được mang theo những gì, trú ngụ ở đâu, và cả
khi bị tẩy chay thì phải ứng xử thế nào. Phải chăng Chúa Giê-su quá câu nệ những
việc có vẻ tiểu tiết chi li ấy? Thế nhưng, sự thật là sứ mạng loan báo Tin Mừng
và tiễu trừ ma quỷ hết sức quan trọng và cấp bách lại có nguy cơ bị đình trệ bởi
vì những lý do nhỏ nhặt như vậy; và Ngài không muốn sứ mạng cao cả lại trở nên
nặng nề, trở ngại vì sự níu kéo của “bao bị, giầy dép, miếng ăn, manh áo” hay của
bất cứ thứ lợi lộc, tiếng khen nào khác. Những thứ đó làm cho người môn đệ Chúa
bị tê liệt, không còn hứng khởi, không cảm thấy hạnh phúc và vì thế, không còn
thiết tha với việc loan báo Tin Mừng.
Mời Bạn: Lòng đam mê danh vọng, ham muốn hưởng thụ lạc thú, của cải trần gian
cũng như sự cậy dựa vào những phương thế trần tục là những chướng ngại nghiêm
trọng cho công cuộc loan báo Tin Mừng. Cần phải có tinh thần siêu thoát đối với
những điều đó mới có thể đáp lại mệnh lệnh của Chúa Ki-tô qua lời mời gọi của vị
chủ chăn “đi ra đến vùng ngoại biên”, để ưu tiên đến với những người nghèo khó,
hèn mọn.
Sống Lời Chúa: Thường xuyên thực hành những hy sinh từ bỏ nho nhỏ mỗi
ngày để cầu nguyện cho việc loan báo Tin Mừng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
xin cho con luôn đồng cảm với trái tim Chúa, để con hăng say loan báo Tin Mừng.
(5 Phút Lời Chúa)
Ngài gọi và sai đi
(15.7.2018 – Chúa nhật 15 Thường niên, Năm B)
Suy Niệm
Ðức Giêsu là người làm nên Nhóm Mười Hai.
Sau một thời gian ở với Ngài (x. Mc 3,14),
họ đã được Ngài sai đi rao giảng.
Người được sai đi
phải là người có đời sống gần gũi thiết thân với Chúa.
Ðức Giêsu sai họ lên đường.
Ngài trao cho các ông những quyền năng Ngài có:
quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ.
Ðó là hành trang lên đường của các ông.
Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc:
một chiếc áo đang mặc,
một cây gậy và đôi dép khi đi đường.
Ðức Giêsu cấm các ông không được mang theo
lương thực, bao bị, tiền bạc…
Không lương thực đi đường nên có thể bị đói.
Không bao bị nên không thể để dành.
Không tiền bạc nên không thể mua sắm.
Ngài muốn các ông hoàn toàn nương tựa
vào lòng tốt của Thiên Chúa và của con người.
Ra đi mà không có một chút bảo đảm.
Sau một thời gian ở với Ngài (x. Mc 3,14),
họ đã được Ngài sai đi rao giảng.
Người được sai đi
phải là người có đời sống gần gũi thiết thân với Chúa.
Ðức Giêsu sai họ lên đường.
Ngài trao cho các ông những quyền năng Ngài có:
quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ.
Ðó là hành trang lên đường của các ông.
Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc:
một chiếc áo đang mặc,
một cây gậy và đôi dép khi đi đường.
Ðức Giêsu cấm các ông không được mang theo
lương thực, bao bị, tiền bạc…
Không lương thực đi đường nên có thể bị đói.
Không bao bị nên không thể để dành.
Không tiền bạc nên không thể mua sắm.
Ngài muốn các ông hoàn toàn nương tựa
vào lòng tốt của Thiên Chúa và của con người.
Ra đi mà không có một chút bảo đảm.
Các môn đệ đã đi từ nơi nọ đến nơi kia,
lê gót qua các làng mạc và thành phố.
Họ không đóng đô ở một nơi, dù gặp thành công,
vì họ nhớ lời của Thầy:
“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh,
để Thầy còn rao giảng ở đó nữa” (x. Mc 1,38)
Tính cơ động là đặc tính thiết yếu của người tông đồ.
Sẵn sàng đến và cũng sẵn sàng đi.
lê gót qua các làng mạc và thành phố.
Họ không đóng đô ở một nơi, dù gặp thành công,
vì họ nhớ lời của Thầy:
“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh,
để Thầy còn rao giảng ở đó nữa” (x. Mc 1,38)
Tính cơ động là đặc tính thiết yếu của người tông đồ.
Sẵn sàng đến và cũng sẵn sàng đi.
Các môn đệ loan báo về Nước Thiên Chúa đang đến.
Ðó là một tin vui, nhưng đòi con người hoán cải.
Hoán cải là điều chẳng ai ưa.
Người tông đồ cần can đảm nói điều phải nói.
Không làm nhẹ đi những đòi buộc của Tin Mừng,
không bóp méo Tin Mừng để tìm thành công cá nhân,
cũng không mỵ dân để vuốt ve dư luận.
Người tông đồ phải chấp nhận được tiếp đón
một cách nồng hậu hay lạnh nhạt.
Họ chỉ là những người phục vụ cho Tin Mừng.
Chúng ta cần cảm nghiệm niềm vui của các môn đệ.
Những người đánh cá nay trở thành nhà rao giảng.
Những người ít học, bình dân, nay trừ quỷ và chữa bệnh.
Họ đem đến cho con người niềm vui,
sự giải phóng toàn vẹn cả hồn lẫn xác.
Ðó là một tin vui, nhưng đòi con người hoán cải.
Hoán cải là điều chẳng ai ưa.
Người tông đồ cần can đảm nói điều phải nói.
Không làm nhẹ đi những đòi buộc của Tin Mừng,
không bóp méo Tin Mừng để tìm thành công cá nhân,
cũng không mỵ dân để vuốt ve dư luận.
Người tông đồ phải chấp nhận được tiếp đón
một cách nồng hậu hay lạnh nhạt.
Họ chỉ là những người phục vụ cho Tin Mừng.
Chúng ta cần cảm nghiệm niềm vui của các môn đệ.
Những người đánh cá nay trở thành nhà rao giảng.
Những người ít học, bình dân, nay trừ quỷ và chữa bệnh.
Họ đem đến cho con người niềm vui,
sự giải phóng toàn vẹn cả hồn lẫn xác.
Hôm nay Ðức Giêsu vẫn sai ta đến trong thế giới.
Ði từng hai người hay từng nhóm để nâng đỡ nhau.
Chúng ta có thể mang theo nhiều đồ trang bị hơn xưa,
nhưng không vì thế mà bỏ rơi cậy dựa vào Chúa.
Thế giới hôm nay vẫn có nhiều bệnh tật:
bệnh tuyệt vọng chán chường, bệnh hoài nghi khép kín…
Ước gì chúng ta chữa lành những nỗi đau hôm nay.
Ði từng hai người hay từng nhóm để nâng đỡ nhau.
Chúng ta có thể mang theo nhiều đồ trang bị hơn xưa,
nhưng không vì thế mà bỏ rơi cậy dựa vào Chúa.
Thế giới hôm nay vẫn có nhiều bệnh tật:
bệnh tuyệt vọng chán chường, bệnh hoài nghi khép kín…
Ước gì chúng ta chữa lành những nỗi đau hôm nay.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
15 THÁNG BẢY
Con Người Tự Viết
Nên Lịch Sử Của Chính Mình
Được ban cho trí khôn
và linh hồn bất tử, con người bắt đầu hành trình của mình trong thế giới. Con
người bắt đầu viết nên lịch sử của chính mình. Thiên Chúa – trong sự quan phòng
của Ngài – luôn luôn sát cánh với con người mọi nơi mọi lúc trong cuộc hành
trình ấy. Cũng trong sách Huấn Ca, chúng ta đọc thấy: “Đường lối của chúng luôn
luôn ở trước mặt Ngài, và không bao giờ giấu mắt Ngài được” (Hc 17,15).
Tác giả Thánh Vịnh
cũng thốt lên cùng ý nghĩa này:
“Dù chắp cánh bay từ
phía hừng đông xuất hiện,
đến ở nơi chân trời
góc biển phương tây,
tại đó cũng tay Ngài
đưa dẫn,
cánh tay hùng mạnh giữ
lấy con…
Hồn con đây Ngài biết
rõ mười mươi;
xương cốt con Ngài
không lạ lẫm gì” (Tv139, 9-10.14-15).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 15/7
Chúa Nhật XV Thường
Niên
Am 7, 12-15; Ep 1,
3-14; Mc 6, 7-13.
LỜI SUY NIỆM: “Các ông đi
rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu
cho nhiều người đau yếu và chữa họ khỏi bệnh.”
Khi Chúa Giêsu sai Nhóm Mười Hai đi rao giảng thì Người căn dặn họ rất kỷ về
cách trang phục, đi đứng và ngôn từ giao tiếp. Các ông đã tuân giữ đúng những
gì Người đã truyền dạy, với ơn ban của Người: “Người ban cho các ông quyền trừ
quỷ”. Nhờ đó các ông đã giúp người tội lỗi biết sám hối ăn năn, người đau yếu
được lành mạnh.
Lạy Chúa Giêsu. Với thời đại hôm nay. Xin Chúa trang bị cho chúng con những
hành trang cần thiết: Luôn được gắn bó mật thiết với Chúa, bằng cầu nguyện và
hy sinh, biết từ bỏ ý riêng của mình, giúp cho tâm hồn chúng con được trở nên
đơn sơ nghèo khó hơn, để chỉ còn mang theo niềm tin phó thác vào Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 15-07: Thánh
BÔNAVENTURA
Giám mục, tiến sĩ hội
thánh.(1221 – 1274)
Sinh năm 1221 tại
Bagnorea, gần Viterbo, thánh Bonaventura là con ông Giovanni di Fidanza và bà
Ritella. Ngài được đặt tên là Giovanni, lúc lên bốn, Ngài lâm trọng bệnh vô
phương cứu chữa. Người mẹ vội ẵm Ngài tới gặp thánh Phanxicô khó khăn. Thánh
nhân thương cha mẹ dâng lời cầu nguyện và Giovanni hết bệnh. Sung sướng, người
mẹ kêu lên: “Obuona Ventura” (Ôi biến cố phúc hậu). Từ đó Giovanni mang tên
Bônaventura. Ngài theo học tại dòng anh em hèn mọn.
Tới tuổi 15,
Bonaventura theo học tại Paris, trung tâm ánh sáng thời đó. Ngài sống thanh
trong đến nỗi Alexandre de Hales nhận xét: – Anh giống như Adam chưa hề phạm tội.
Ngài kết thân với sinh
viên tài ba khác là Thomas Aquinô. Ngỡ ngàng về sự hiểu biết của bạn mình.
Thomas hỏi Bonaventura xem Ngài đã học sách nào ? Bonaventura chỉ cây thánh giá
trả lời: – Đây là nguồn mọi hiểu biết của tôi. Tôi học Chúa Giêsu bị đóng đinh.
Năm 1257, Ngài được chọn
làm bề trên cả dòng Phanxicô. Tình thế Ngài phải đối diện rất là phức tạp.
Trong dòng đang có sự phân rẽ giữa những người nhiệt tâm muốn tuân giữ nghiêm
nhặt luật dòng và những người muốn chước giảm. Nhờ sự thánh thiện và tài khéo
léo, Bonaventura đã giải quyết các vấn đề cách ổn thỏa, đến nỗi Ngài đang được
gọi là Đấng sáng lập thứ hai của dòng. Trong kỳ đại hội ở Narbonne 1250, Ngài
đã ban hành hiến pháp đầu tiên cho dòng. Sau đó Ngài liên tiếp thăm viếng không
biết mệt các tỉnh dòng để quan sát việc thực hiện bản quy luật này.
Chính Ngài tổ chức việc
học hành cho các giáo sĩ trong dòng, làm cho công cuộc tông đồ được phổ biến rộng
rãi đến cả những bậc thức giả lẫn giới bình dân. Chính Bonaventura là một nhà
dòng giảng thuyết có biệt tài. Ngài đã giảng thuyết từ các tu viện, tới các
thành phố ở Au Châu, trước mặt vua Luy IX Đức giáo hoàng. Luôn luôn Ngài thu phục
được cảm tình của thính giả.
Một thầy dòng khiêm tốn
tên là Gilles hỏi Ngài: – Các cha thông thái, được Chúa ban cho nhiều tài năng.
Còn chúng con, chúng con có thể làm gì được ?
Bonaventura trả lời: –
Nếu Chúa ban cho một người tài năng khác là ơn yêu mến Ngài thế là đủ rồi, và
là kho tàng quí báu nhất.
Thầy dòng hỏi tiếp: –
Một người không biết đọc biết viết có thể yêu mến Thiên Chúa như một nhà thông
thái biết mọi sự không ?
Thánh nhân trả lời: –
Chắc chắn rồi, một bà già có thể yêu Chúa hơn cả một nhà tiến sĩ thần học.
Thày dòng vui vẻ la lớn:
– Một bà già có thể yêu Chúa hơn cả cha Bonaventura của chúng ta nữa.
Ngài còn tiếp: – Biết
một chút về Chúa còn hơn là biết mọi sự trong trời đất.
Ngoài những hoạt động
bên ngoài ấy. Bonaventura còn lo viết sách để huấn luyện các tu sĩ và những
sách về triết học, thần học và thánh kinh. Chúng ta có thể kể đến cuốn “chú giải
luật dòng Phanxicô”, “hạnh tích thánh Phanxicô” nhất là cuốn “hành trình của
linh hồn hướng về Thiên Chúa”.
Trong nỗ lực xây dựng
Hội Thánh, Bonaventura luôn tỏ ra khiêm tốn. Người ta kể rằng: Đức giáo hoàng
Grêgoriô X truyền cho thánh Thomas và thánh Bonaventura soạn thảo bộ kinh lễ
Thánh Thể. Khi hai vị vào yết kiến đức giáo hoàng trình bày công việc, thánh
Bonaventura xé nát bản văn của mình.
Cùng với lời khiêm tốn
ấy, Bonaventura đã từ chối chức Tổng giám mục thành York mà Đức giáo hoàng
Clêment IV đề nghị, lòng khiêm tốn ấy không ngăn cản sự cương quyết và can đảm
của Ngài chống lại thuyết sai lầm của thuyết Aristote và Avéoes… Nhưng Đức giáo
hoàng Grêgoriô X đã quyết định đặt Ngài làm hồng y cai quản giáo phận Albanô và
truyền Ngài về Roma ngay.
Khi hai sứ thần mang
mũ hồng y đến, Ngài còn đang rửa chén. Ngày 28 tháng 5 năm 1273 Ngài nhận chức
và là cánh tay đắc lực của đức giáo hoàng. Phần đóng góp của Ngài vào sự hợp nhất
Giáo hội Hy lạp và Roma tại công đồng Lyon thật lớn lao.
Nhưng khi công đồng
Lyon còn đang nhóm họp thì Bonaventura từ trần ngày 14 tháng 7 năm 1274. Đức Sixtô
IV phong Ngài lên bậc hiển thánh năm 1482 và đức Sixtô V đã đặt Ngài làm tiến
sĩ Hội Thánh năm 1858. Người ta gọi Ngài là “Tiến sĩ sốt mến”.
(daminhvn.net)
15 Tháng Bảy
Dây Chuyền Của Liên Ðới
Một người Ả Rập nọ
có một con ngựa rất đẹp… Ai thấy cũng gợi lòng tham muốn. Một người láng giềng
tìm đủ mọi cách để mua cho kỳ được con ngựa, nhưng chủ nhân vẫn một mực từ chối.
Không còn biết làm cách nào để thuyết phục chủ nhân, người đó đành phải nghĩ ra
mưu kế để chiếm đoạt.
Biết người chủ ngựa
thường hay đi qua sa mạc, hắn mới cải trang thành một người hành khất nằm rét
run bên vệ đường. Người chủ ngựa là một người tốt bụng, gặp bất cứ ai hoạn nạn
cũng đều ra tay cứu giúp. Vừa thấy người hành khất, người đó cảm thấy thương hại,
mới đề nghị trở về một quán trọ để săn sóc.
Khi người chủ ngựa
vừa mở miệng đề nghị, thì tên bất nhân mới than thở: “Ðã mấy ngày nay, tôi
không có được một hạt cơm trong bụng, lấy sức đâu để leo lên ngựa”. Nghe thế,
con người tốt bụng xuống ngựa để giúp người hành khất leo lên lưng ngựa. Nhưng
vừa leo lên lưng ngựa, tên bất lương hiện nguyên hình… Hắn giựt dây cương và
thúc vào hông ngựa mà chạy… Người chủ ngựa đáng thương chỉ còn biết nhìn theo
mà hối tiếc! Nhưng ông cũng cố gắng chạy theo và nói với tên bất lương như sau:
“Ngươi đã ăn cắp con ngựa của ta. Nhưng ta sẵn sàng bỏ qua cho. Ta chỉ xin
ngươi một điều là đừng bao giờ kể cho bất cứ ai nghe mưu mẹo ngươi đã dùng để
cưỡng chiếm con ngựa của ta. Một ngày nào đó, sẽ có những người bệnh thật sự nằm
rên rỉ bên vệ đường và kêu cầu sự giúp đỡ. Ta e ngại rằng sẽ không còn ai dám dừng
lại để cứu giúp kẻ hoạn nạn nữa”.
Dè dặt, thủ thế, nghi
kỵ có lẽ là thái độ thường tình của tất cả những ai đang sống dưới chế độ độc
tài. Lừa lọc, phản bội, tố cáo lẫn nhau đã khiến cho lòng người mỗi ngày một
thêm khép kín… Sợi dây chuyền của khép kín mỗi lúc một dài ra và quấn lấy con
người.
Mỗi một hành động xấu,
trong dây chuyền của tình liên đới, đều gia tăng đau khổ cho người khác. Khi
tôi lừa đảo, không những hành động của tôi chỉ trực tiếp hãm hại một vài người
có liên hệ, nhưng nó cũng góp phần giảm thiểu niềm tin của không biết bao nhiêu
người xung quanh. Khi tôi bạo động, không những tôi chỉ xúc phạm đến người
trong cuộc, nhưng hành động của tôi cũng xóa mờ đi phần nào lòng tự ái của nhân
loại… Tôi là một phần của nhân loại. Cả nhân loại sẽ đau đớn rên rỉ vì một vết
thương của tôi cũng như vì một nhát gươm của tôi.
Người Kitô luôn được mời
gọi để nhìn nhận hình ảnh của Chúa nơi mọi người và đón nhận mọi người như anh
em của mình. Trong cái nhìn ấy, cuộc sống của chúng ta phải luôn hướng đến người
anh em của chúng ta: niềm đau của người anh em cũng chính là niềm đau của chúng
ta, hạnh phúc của người anh em cũng chính là hạnh phúc của chúng ta.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét