16/09/2018
Chúa Nhật tuần 24 Thường Niên năm B
(phần
I)
BÀI ĐỌC
I: Is 50, 5-9a
“Tôi đã đưa
lưng cho kẻ đánh tôi”.
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Thiên
Chúa đã mở tai tôi mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa
lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không che mặt giấu mày,
tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi.
Vì
Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết
tôi sẽ không phải hổ thẹn. Đấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh tụng với
tôi được? Chúng ta hầu toà, ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây! Này đây
Chúa là Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi? Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 114, 1-2. 3-4. 5-6. 8-9
Đáp:
Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (c. 9).
Xướng:
1) Tôi yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi cầu khẩn, vì Chúa đã lắng tai
nghe lời tôi, trong ngày tôi kêu cầu Chúa. – Đáp.
2) Thừng
chão tử thần đã quấn lấy tôi, và màng lưới âm phủ đã chụp trên người tôi; tôi
đã rơi vào cảnh lo âu khốn khó. Và tôi đã kêu cầu danh Chúa: “Ôi lạy Chúa, xin
cứu vớt mạng sống con!” – Đáp.
3)
Chúa nhân từ và công minh, và Thiên Chúa của chúng ta rất từ bi. Chúa gìn giữ
những người chất phác; tôi đau khổ và Người đã cứu thoát tôi. – Đáp.
4) Bởi
người đã cứu tôi khỏi tử thần, cho mắt tôi khỏi rơi lệ và chân tôi không quỵ
ngã. Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh. – Đáp.
BÀI ĐỌC
II: Gc 2, 14-18
“Đức tin không
có việc làm là đức tin chết”.
Trích
thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh
em thân mến, nếu ai nói mình có đức tin, mà không hành động theo đức tin, thì
nào có ích gì? Đức tin như thế có thể cứu được nó ư? Nếu có anh chị em nào
không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em lại bảo họ rằng: “Chúc anh chị em đi
bình an, và ăn no mặc ấm”, mà anh em lại không cho họ những gì cần dùng cho
thân xác, thì nào có ích gì?
Về đức
tin cũng vậy, nếu không có việc làm, là đức tin chết tận gốc rễ. Nhưng có người
sẽ nói: “Anh, anh có đức tin; còn tôi, tôi có việc làm”. Anh hãy tỏ cho tôi thấy
đức tin không việc làm của anh, và tôi sẽ lấy việc làm mà chỉ cho anh thấy đức
tin của tôi. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA:
Ga 14, 5
Alleluia,
alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến
được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia.
PHÚC
ÂM: Mc 8, 27-35
“Thầy là Đấng
Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều”.
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy,
Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền
Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: “Người ta bảo Thầy là ai?” Các
ông đáp lại rằng: “Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại
cho là một trong các vị tiên tri”. Bấy giờ Người hỏi: “Còn các con, các con bảo
Thầy là ai?” Phêrô lên tiếng đáp: “Thầy là Đấng Kitô”. Người liền nghiêm cấm
các ông không được nói về Người với ai cả.
Và
Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các
kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống
lại. Người công khai tuyên bố các điều đó. Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà
can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng:
“Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài
người”.
Người
tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ
mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ
mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng
sống mình”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Ðức Tin Có Việc Làm
Chúa
nhật trước đã cho chúng ta thấy Ðức Yêsu chữa lành một người điếc và câm, để thực
hiện lời Ysaia loan báo rằng đến thời cứu độ kẻ điếc sẽ nghe thấy và kẻ câm sẽ
nói được. Hơn nữa phép lạ chữa lành kia còn ám chỉ muốn được ơn cứu độ người ta
phải mở tai đón nhận Lời Chúa và phát biểu lời này ra trong đời sống.
Bài đọc
I hôm nay nói ngay đến người tôi tớ sáng láng lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực
hành, không sợ gian lao khổ sở. Như vậy, giáo huấn của Hội Thánh trong ngày
Chúa nhật hôm nay dường như muốn tiếp nối các bài học của Chúa nhật trước, và sẽ
dạy sâu hơn về đời sống của các tôi tớ Chúa. Mà cách tốt nhất để làm công việc
này là hay giương cao hình ảnh Người Tôi Tớ lý tưởng lên, để tất cả chúng ta
cùng bắt chước. Thế nên Chúa nhậ này thật đáng gọi là "Chúa nhật người tôi
tớ".
Chúng
ta sẽ xem hình ảnh người tôi tớ này ở trong Cựu Ước, rồi Tân Ước, trước khi kết
luận chúng ta phải sống thế nào để trở thành tôi tớ Chúa.
1.
Bài Ca Về Người Tôi Tớ
Cựu Ước
gọi nhiều người là tôi tớ Chúa. Abraham, Môsê, Ðavít, các tiên tri đều là những
tôi tớ xứng đáng. Toàn dân Chúa chọn cũng được gọi là tôi tớ của Người. Nhưng
trong sách Ysaia có 4 bài ca được mệnh danh là các bài ca về Người Tôi Tớ. Tác
giả không nêu tên người nào: cũng không dứt khoát coi người đó là một cá nhân
hay là một tập thể. Ðoạn văn chúng ta nghe hôm nay là đoạn văn thứ ba.
Nó bắt
đầu bằng những nét tả chính xác về người tôi tớ. Ðó là con người có đôi tai
"môn đệ". Sáng sáng chú tâm nghe lời Chúa. Rồi ông quyết tâm đem ra
thực hành, không sợ gì nguy khó. Phần lớn bài ca hôm nay nói đến những khổ đau
mà ông phải chịu vì trung thành giữ Lời Chúa và nói Lời Chúa. Ông bị người ta
đánh đập, giựt râu và khạc nhổ vào mặt. Khổ đau dường như cứ tăng dần. Nhưng
ông vẫn giơ mặt ra cứng như đá và không hổ thẹn vì ông tin có Chúa hằng nâng đỡ
ông.
Tác
giả Ysaia muốn nói về ai đây? Dường như không phải về dân Chúa vì lời văn có vẻ
chỉ hợp cho một cá nhân. Hơn nữa văn mạch cho phép nghĩ ở đây dân Chúa đóng vai
trò hành hạ người tôi tớ thì đúng hơn. Nghĩa là đoạn văn này nói đến một người
tôi tớ Chúa bị chính dân Chúa hành hạ. Người ấy là ai? Một người công chính vô
danh bị đời bạc đãi? Hay lại là một trong số nhiều tiên tri đã bị đồng bào của
mình hất hủi? Nhiều người đã nghĩ đến Yêrêmia, vì nhà tiên tri này quả thật đã
bị bắt bớ. Tuy nhiên có lý do khiến chúng ta suy luận và khẳng định người tôi tớ
được nói ở đây, không phải là một nhân vật đã sống trong quá khứ, hay đang lúc
hiện tại cùng thời với tác giả bài ca này. Người ấy sẽ là một vị sẽ đến trong
tương lai, bởi vì các bài ca về Người Tôi Tớ nằm trong khâu các lời sấm an ủi
Israel, tức là đưa về hậu vận và nói đến thời Thiên Chúa sẽ ra tay cứu độ dân.
Người tôi tớ chính là công cụ mà Người sẽ dùng để làm công việc cứu thế này. Do
đó bài ca hôm nay nói về Ðấng cứu thế là Người Tôi Tớ lý tưởng của Thiên Chúa.
Và có lẽ tác giả chỉ dựa vào cuộc đời đau khổ của một Yêrêmia để gợi lên hình ảnh
Người Tôi Tớ lý tưởng này thôi. Thế nên phụng vụ hôm nay rất có lý khi đọc bài
sách Ysaia này trước bài Tin Mừng Marcô hôm nay về việc Ðức Yêsu chịu đau khổ.
Chúng ta ghi lấy tư tưởng: Người Tôi Tớ của Chúa phải can đảm đi qua gian khổ,
để đi vào bài Tin Mừng.
2. Mạc
Khải Về Cuộc Tử Nạn
Thánh
Marcô kể: bấy giờ Ðức Yêsu đang đi với các môn đệ ở vùng Caisaria của Philip, tức
là miền cực Bắc đất Dothái, nơi bắt nguồn của dòng sông Yorđan sẽ chảy xuống
phía Nam. Người ta gọi nơi này là Caisaria của Philip, vì chính Hêrôđê Philip
đã xây ở đây một thành mang tên Caisarê, tức là tên của hoàng đế Lamã. Do đó, đặt
chân đến chốn này, ai cũng phải nghĩ tới hoàng đế và uy quyền thống trị của
ông. Và mặc nhiên người ta cũng phải nghĩ đến thân phận của mình.
Có lẽ
vì vậy mà Ðức Yêsu đã quay sang hỏi các môn đệ: "Theo như người ta nói,
thì Ta là ai?". Họ không ngần ngại trả lời, vì dư luận về Người kể ra đã
khá rõ rệt. Ai ai cũng nghĩ Người là bậc xuất chúng, ít nhất cũng như Yoan Tẩy
giả, hoặc như Êlia, hay một vị tiên tri nào đó. Còn đối với chính họ thì sao? Họ
là môn đệ của Người, luôn ở với Người và được Người chăm sóc. Họ phải có một
cái nhìn về Người hơn những người khác. Thế nên Phêrô đã thay mặt anh em thưa
Người rằng: "Ngài là Ðức Kitô".
Không
thể có lời tuyên xưng nào đúng hơn nữa. Ðó là lời tuyên xưng của Hội Thánh sau
khi tin mầu nhiệm phục sinh đã đưa Người lên làm Chúa. Phêrô hôm ấy nói được như
vậy là nhờ ở Thánh Thần hoạt động trong lòng trí ông. Ông thốt ra lời rất đúng
nhưng vượt quá tầm hiểu biết của ông như nhiều khi các tiên tri phát biểu những
lời của Thiên Chúa mà họ chưa quán xuyến được tất cả nội dung phong phú.
Chính
vì vậy mà Ðức Yêsu đã lập tức cấm môn đệ lập lại lời Phêrô vừa tuyên xưng. Họ
không nên nói những điều họ chưa hiểu biết, kẻo có thể gây ra những sự hiểu lầm.
Họ phải đợi đến khi chân tướng của Người đã lộ ra hết rồi hãy tuyên xưng Người
bằng tước hiệu đúng hơn hết. Vì "giờ" của Người chưa đến. Người ta
còn phải chờ đến giờ đó mới hiểu được Người. Và cái diện quan trọng nhất của
Người trong giờ ấy sẽ là cuộc khổ nạn; thế nên hôm nay và từ nay, Người bắt đầu
mạc khải cho môn đệ biết khía cạnh quan trọng này.
Người
nói với họ: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ... và bị giết đi, và sau ba
ngày sẽ sống lại". Người không nói theo kiểu nhìn về tương lai; nhưng coi
như đang sống mầu nhiệm tử nạn và phục sinh này. Ðiều đó làm cho các môn đệ khó
hiểu, và nhất là không thể chấp nhận được. Có lẽ nào Người lại để các niên trưởng
phế thải và giết đi? Thay mặt anh em, Phêrô kéo Người ra và trách Người đã nói
như vậy. Vì nhiệt thành, ông đã quá trớn. Là môn đệ, ông phải đi theo, chứ sao
lại muốn dẫn đầu Người.
Thế
nên Người bảo ông trở về cương vị. Và Người muốn cho tất cả các môn đệ hiểu bài
học này, nên Người không nhìn vào một mình Phêrô, nhưng vào hết thảy bọn họ.
Người bảo ý tưởng của họ là cảm nghĩ do Satan chứ không theo như ý Chúa. Satan
đã có lần cám dỗ Người làm lớn khi bày ra trước mắt Người mọi uy quyền và phú
quý của thế gian để xúi Người vồ vập lấy. Nhưng ý của Thiên Chúa Cha lại không
phải như vậy. Những bài ca về người tôi tớ lý tưởng đang còn đó... Ðức Kitô sẽ
phải chịu đau khổ và bị đóng đinh... và ai muốn theo Người để trở thành môn đệ
của Người cũng phải vác lấy thập giá và đi theo Người đang vác thập giá lên Núi
Sọ.
Thật
ra không phải hết mọi môn đệ đều phải vác những thập giá cụ thể bằng gỗ nặng và
phải đi đến những nơi xử hình. Nhưng mọi người, không trừ ai, đều phải từ bỏ
mình và sẵn sàng chịu mọi sự khó vì Chúa.
Bài
Tin Mừng hôm nay nói rõ như vậy, sau khi khẳng định Ðức Kitô phải đi vào con đường
khổ nạn. Nó cho chúng ta thấy các bài ca về Người Tôi Tớ trong sách Ysaia đã muốn
nói về ai. Chính Ðức Kitô là Người Tôi Tớ đau khổ này. Và mọi Kitô hữu cũng một
phần nào là người tôi tớ ấy... Chúng ta chưa hiểu vì sao lại phải như vậy!
Nhưng rõ ràng đó là ý muốn của Thiên Chúa và là kế hoạch cứu thế của Người. Người
muốn cứu độ bằng đường thánh giá; ai muốn được ơn cứu độ của Người, phải bằng
lòng đi vào con đường ấy. Nhiệm vụ của chúng ta hằng ngày là phải tự hỏi Thiên
Chúa muốn cho tôi ngày hôm nay, trong giờ phút này vác thập giá nào đây để tôi
được cứu độ và góp phần vào việc cứu thế? Bài thư Yacôbê không muốn trả lời một
cách đầy đủ, nhưng cũng khá tổng quát và đồng thời cũng khá cụ thể để giúp
chúng ta suy nghĩ và đem ra thực hành.
3.
Hãy Liệu Cho Ðức Tin Có Việc Làm
Như lần
trước đã nói, điều quan trọng là phải có quan điểm tốt. Vác thập giá đi theo Ðức
Kitô không phải là làm việc khó này, chịu sự cực kia; nhưng trước hết là phải
có phương hướng và luôn đi theo phương hướng đó. Mà phương hướng của cuộc đời
tín hữu đã được quy định ngay từ đầu bởi chính niềm tin mà họ đã lãnh nhận. Ðức
tin có những đòi hỏi của nó; nếu không, nó chỉ là một mớ, hay một hệ thống những
ý tưởng trừu tượng, chứ không phải là sự sống đức tin Kitô giáo hơn mọi niềm
tin khác, khi đưa người ta lại gần Ðức Kitô, sát nhập vào với Người, trở nên
chi thể của Người để lãnh được sự sống ở nơi Người, hầu sống ở trong Người và để
Người ở nơi mình. Ðức tin ấy là một sự sống. Và như mọi sự sống nó phải sinh hoạt,
phải làm ra việc này việc khác... Nếu không, nó đã chết tiệt rồi, như lời thư
Yacôbê hôm nay nói.
Như vậy,
người có đức tin phải làm những việc của đức tin. Và chính khi làm những việc
này, người ta phải vác thập giá và đi theo Chúa.
Tại
sao vậy?
Thưa
vì đức tin đưa người ta đi vào đường lối cứu thế và là đường lối thương người.
Công việc của đức tin trở thành những công việc của đức ái. Thế nên thánh
Yacôbê hôm nay cho chúng ta một thí dụ. Có người anh chị em đến với chúng ta,
mình thân trần trụi và thiếu thốn lương thực. Nếu chúng ta chỉ bảo người ấy:
"Hãy về đi, mặc áo cho ấm và ăn cho no" mà không giúp đỡ người ấy một
tí phương tiện nào thì há chẳng phải chúng ta đã biết phương hướng phải giải
quyết mà đã không làm hay sao? Và sở dĩ chúng ta đã không muốn làm, chính là vì
công việc này sẽ gây phiền lụy cho chúng ta khiến chúng ta phải khổ. Chúng ta
đã tránh vác thập giá đi theo Ðức Kitô vậy.
Do đó
sẽ không ích gì cho chúng ta và cho ai nếu chúng ta đã hiểu rõ bài sách Ysaia
và bài Tin Mừng để biết rằng Người Tôi Tớ Chúa phải chịu đau khổ, mà lại không
thi hành lời thư Yacôbê để biến niềm tin của chúng ta vào Sách Thánh và vào Ðức
Kitô nên đức tin sống động có việc làm. Và cũng chẳng sẽ
ích gì nếu chúng ta chỉ tuyên xưng niềm tin ở đây, trong lúc này, khi đọc Kinh
Tin Kính và các kinh lễ, mà không đem các lời đó ra thực hành trong đời sống.
Chúng ta muốn là những người tôi tớ thật của Chúa thì hãy làm như Ðức Kitô dạy,
là lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, cho dù có gặp khó khăn khổ sở; vì có
như vậy mới là Tôi Tớ đau khổ của Chúa.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời
Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn
Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 24 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Isa 50:5-9a; Jas 2:14-18; Mk
8:27-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đau khổ là con
đường duy nhất dẫn tới vinh quang.
Cô P đang mang thai và sắp đến ngày sinh nở, mẹ cô đã qua đời để lại cha cô và
3 người em. Cô phải thay mẹ chăm sóc các em; nhất là người em gái còn trẻ mắc
chứng bệnh “lupus” hiểm nghèo. Khi gặp một linh mục công giáo đến an ủi, cô rơm
rớm nước mắt và thắc mắc: Tại sao một Thiên Chúa có uy quyền làm mọi sự và
thương yêu con người, lại bắt cô, em cô, và gia đình cô phải chịu nhiều đau khổ
như thế?
Các Bài Đọc hôm nay có thể giúp trả lời thắc mắc của cô P: mặc dù Thiên Chúa có
uy quyền làm cho mẹ cô P sống và chữa lành em cô khỏi bệnh; nhưng Ngài chọn con
đường đau khổ để mọi người trong gia đình cô P được hưởng ơn cứu độ muôn đời.
Trong Bài Đọc I, tiên tri Isaiah tiên báo những gì sẽ xảy ra cho Người Tôi
Trung của Thiên Chúa: Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ; nhưng sẽ vượt qua tất cả
vì một niềm tin không lay chuyển vào Thiên Chúa. Chính vì những đau khổ Ngài chịu,
mà ơn cứu độ được dâng tặng cho mọi người. Trong Bài Đọc II, thánh Giacôbê
khuyên các tín hữu: đức tin của họ vào Thiên Chúa phải được bày tỏ qua hành động.
Nếu họ yêu thương Thiên Chúa, họ cũng phải giúp đỡ tha nhân bằng những hành động
cụ thể. Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Trong Phúc Âm, khi Phêrô can
ngăn Chúa Giêsu đừng chấp nhận con đường đau khổ, Ngài mắng Phêrô: “Satan! lui
lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa,
mà là của loài người.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Bài ca thứ ba về Người
Tôi Trung của Thiên Chúa
1.1/ Người
Tôi Trung phải chịu đau khổ: Tiên-tri
Isaiah được Thiên Chúa cho thấy trước những gì sẽ xảy ra cho Đấng Thiên Sai và
cho con người. Đấng Thiên Sai là Người Tôi Trung của Thiên Chúa sẽ giải thoát
con người bằng cách chịu mọi cực hình và gian khổ: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã
mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng
cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị
mắng nhiếc phỉ nhổ.” Những điều tiên đoán này đã xảy ra cho Đức Kitô khi Ngài
được Thiên Chúa sai xuống trần để chuộc tội cho con người; nhất là trong Cuộc
Thương Khó và cái chết đau khổ của Ngài trên Thập Giá.
1.2/ Niềm
tin vững mạnh của Người Tôi Trung vào Thiên Chúa: Để vượt qua đau khổ, Người Tôi Trung cần
có một niềm tin không lay chuyển vào Thiên Chúa, Đấng đã sai Ngài tới thế gian:
“Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế,
tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Đấng tuyên bố rằng
tôi công chính, Người ở kề bên. Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà! Ai
muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi! Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ
tôi, ai còn dám kết tội?”
Trong những phải đương đầu với đau khổ như cô P, không ai có thể giúp cô được,
ngoại trừ một mình Thiên Chúa. Ngài để đau khổ xảy ra cho cô, không phải vì
Ngài không thương cô hay muốn cô chịu đau khổ cho bỏ ghét; trái lại, Ngài muốn
cô và mọi người trong gia đình nhận ra một sự thật: họ không thể sống thiếu
tình thương của Thiên Chúa. Trong giai đoạn hiện tại, họ phải chịu gian khổ;
nhưng trong tương lai, họ nhận ra tình thương của Thiên Chúa, của cha mẹ, của
những thành phần trong gia đình. Những điều này sẽ giúp họ trung thành với
Thiên Chúa và với nhau hơn. Hậu quả là họ sẽ cùng nhau đoàn tụ trong Nước Trời.
Nhưng giả sử nếu những điều này không xảy ra cho gia đình cô P, có thể cô P và
những người trong gia đình quá bằng lòng với vật chất thế gian, mà không cần đến
Thiên Chúa; điển hình là có vài phần tử trong gia đình cô đã không tham dự
thánh lễ hàng tuần nữa! Đây là câu hỏi cho cô P phải suy nghĩ: Nếu mục đích của
cuộc đời là được đoàn tụ với Thiên Chúa đời đời trên Thiên Đàng, điều nào đáng
cho cô P mong ước hơn: chịu đau khổ tạm thời ở đời này hay chịu đau khổ và xa
cách vĩnh viễn ở đời sau?
2/ Bài
đọc II: Đức tin không có
hành động thì quả là đức tin chết.
2.1/ Ngụy
biện của con người: Nhiều
con người ngày nay đang đánh lừa chính mình và người khác bằng ngụy thuyết: con
người được công chính hóa nhờ đức tin, chứ không nhờ bất cứ việc lành nào con
người làm (Rom 3:28, Gal 2:16). Thánh Phaolô quả thực có lý do để nói điều này
vì con người được cứu chuộc nhờ giá máu của Đức Kitô; nhưng không phải vì đó,
mà con người sẽ được cứu chuộc bằng bất cứ giá nào. Chính thánh Phaolô cũng đưa
ra bao điều con người phải thực hành để được cứu độ. Chúng ta có thể liệt kê ít
là 3 ví dụ trong Thư Rôma:
(1) Trong Ngày Phán Xét: “Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ
làm; những ai bền chí làm việc thiện mà tìm vinh quang, danh dự và phúc trường
sinh bất tử, thì Thiên Chúa sẽ cho họ được sống đời đời” (Rom 2:6-7).
(2) Hay nói về việc không được xét đoán, thánh Phaolô dạy: “mỗi người trong
chúng ta sẽ phải trả lời về chính mình trước mặt Thiên Chúa. Vậy chúng ta đừng
xét đoán nhau nữa. Tốt hơn, anh em hãy xét sao để tránh gây cớ cho anh em mình
phải vấp hay phải ngã” (Rom 14:12-13).
(3) Hay nói về việc chuẩn bị cho Ngày Phán Xét, ngài khuyên: “Đêm sắp tàn, ngày
gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của
sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa
ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ
ghen tương” (Rom 13:12-13).
Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố thẳng thắn: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy:
“Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn
của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21). Thánh
Giacôbê trong trình thuật hôm nay đưa ra một trường hợp cụ thể: “Thưa anh em,
ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi
gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em
không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại
nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no,” nhưng lại không cho họ
những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?”
2.2/ Đức
tin phải biểu tỏ bằng hành động: Vấn đề ở chỗ không phải chọn có đức tin hay làm việc lành; nhưng
ở chỗ có đức tin và làm việc lành, làm việc lành là dấu biểu tỏ người có đức
tin. Vì thế, thánh Giacôbê kết luận: “đức tin không có hành động thì quả là đức
tin chết.” Đức tin và làm việc lành như hai mặt của một đồng tiền; đã chọn đồng
tiền thì phải làm cả hai. Mỗi người chúng ta đều đã có kinh nghiệm này: chúng
ta không tin được những người chỉ yêu bằng môi miệng; nhưng nhìn vào những việc
làm của họ, chúng ta có thể nhận ra họ yêu thương chân thành hay không. Hoàn cảnh
đau khổ mà gia đình đang chịu sẽ giúp em cô P nhận ra tình thương của Thiên
Chúa, của cô P, và của các thành phần trong gia đình. Sự cảm nhận này sẽ giúp
em cô P tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và tình yêu của những người trong gia
đình; chứ không sống ích kỷ như không có Thiên Chúa và không có ai trong cuộc đời.
3/
Phúc Âm: Thầy là Đấng Thiên
Sai.
3.1/
Phêrô tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: Cuộc Thương Khó đã gần kề, Chúa Giêsu và các môn đệ của Người đi
tới các làng xã vùng Caesarea Philippi. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: “Người
ta nói Thầy là ai?” Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo
là ông Elijah, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” Mỗi ý kiến trên đây đều
dựa vào một trong những đặc điểm của Chúa Giêsu như nói năng thẳng thắn như
Gioan Tẩy Giả, có uy quyền làm phép lạ như tiên tri Elijah. Nhưng tất cả những
ý kiến này không diễn tả đúng nguồn gốc của Chúa Giêsu.
Người lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô trả lời:
“Thầy là Đấng Kitô.” Đấng Kitô có nghĩa là Đấng được xức dầu hay Đấng Thiên Sai
mà Cựu Ước thường xuyên đề cập tới. Ngài có nguồn gốc từ Thiên Chúa và được sai
tới để giải thoát con người. Trong Marcô, Đức Giêsu thường cấm ngặt các ông
không được nói với ai về Người. Lý do, Ngài muốn họ hiểu biết đúng về Đấng
Thiên Sai: Ngài không dùng uy quyền, nhưng chịu đau khổ để giải phóng con người.
3.2/ Đấng
Thiên Sai phải chịu đau khổ: Sau
lời tuyên xưng của Phêrô vào thiên tính của Chúa Giêsu, Người bắt đầu mặc khải
cho các ông biết về cách thức cứu độ mà Đấng Thiên Sai phải trải qua: “Con Người
phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết
chết và sau ba ngày, sống lại.”
(1) Thiên Chúa muốn dùng đau khổ để cứu độ con người: Dĩ nhiên, Thiên Chúa có
uy quyền để cứu độ con người theo cách thức con người mong muốn; nhưng đó không
phải là cách thức Ngài mong muốn, mà là qua con đường đau khổ. Nhiều người chất
vấn tại sao Thiên Chúa làm như thế? Câu trả lời trước tiên là con người không
khôn ngoan hơn Thiên Chúa: khi Thiên Chúa chọn cách nào, đó là cách thức tốt đẹp
nhất cho con người. Nếu đầy tớ không thể chất vấn người chủ tại sao phải làm
cách này mà không làm cách kia, con người cũng không có quyền chất vấn Thiên
Chúa. Thứ hai, theo kinh nghiệm, con người chỉ cậy dựa vào Thiên Chúa khi họ bị
đau khổ; khi con người sung sướng, hạnh phúc, rất ít người nhớ tới và yêu
thương Thiên Chúa. Sau cùng, con người yêu thương sâu xa những ai đã hiến mình
vì họ; mỗi lần nhìn lên Thập Giá, con người cảm nhận tình thương vô biên Thiên
Chúa dành cho họ.
(2) Con người trốn tránh đau khổ: Phản ứng của Phêrô cũng giống như phản ứng của
cô P ở trên, và cũng giống như truyền thống Do-thái tin một Đấng Thiên Sai uy
quyền. Họ không chấp nhận một Đấng Thiên Sai chịu đau khổ. Đó là lý do ông
Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người.
Nhưng khi Đức Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phêrô:
“Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của
Thiên Chúa, mà là của loài người.” Lời nói của Chúa Giêsu xác nhận tư tưởng của
Thiên Chúa khác xa với tư tưởng của con người: thay vì phải chấp nhận thánh ý của
Thiên Chúa; Phêrô muốn Chúa Giêsu làm theo ý của mình. Đó là lý do Chúa mắng
ông là Satan, vì Satan luôn cản trở ý định của Thiên Chúa. Đó là lý do Chúa đuổi
ông ra đàng sau, vì bổn phận của môn đệ là theo Thầy; chứ không bắt Thầy phải
theo mình.
Rồi Đức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: “Ai
muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn
cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin
Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta không khôn ngoan hơn Thiên
Chúa. Hãy chấp nhận những lời dạy dỗ khôn ngoan của Thiên Chúa, cho dù những dạy
dỗ này hoàn toàn ngược với ý muốn của chúng ta.
– Con đường đau khổ là con đường khôn ngoan Thiên Chúa dùng để cứu độ con người.
Ngài muốn Con Một Ngài chịu đau khổ để cứu chuộc con người và Ngài cũng muốn
dùng đau khổ để con người nhận ra: họ không thể sống thiếu Thiên Chúa và tin
vào Đức Kitô.
– Để trở thành môn đệ Đức Kitô, chúng ta phải từ bỏ ý riêng mình và vác thập
giá theo Chúa. Một cuộc sống dễ dãi sẽ làm chúng ta xa lánh Chúa và không đạt
được mục đích của cuộc đời.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
16/09/2018 – CHÚA NHẬT TUẦN 24 TN – B
Mc 8,27-35
BỎ MÌNH ĐỂ THEO CHÚA KI-TÔ
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình,
vác thập giá mình mà theo.” (Mc 8,34)
Suy niệm: Chúa Giêsu
đòi hỏi các môn đệ theo Ngài phải từ bỏ chính mình. “Bỏ chính mình” phải chăng
là vong thân, là tự tử? Hẳn là không! Các nhà hiền triết, các tôn giáo đều kêu
gọi từ bỏ cái tôi kiêu căng, ích kỷ, bỏ lòng tham sân si, và thậm chí cả tiền
tài lẫn danh vọng nữa. Thế nhưng sự từ bỏ mà Chúa Giê-su kêu gọi không chỉ để
hoàn thiện bản thân. Ngài kêu gọi chúng ta từ bỏ mọi sự là để: (1) đi theo
Ngài, đi theo con đường thập giá mà Ngài đã đi; (2) để trở nên giống Ngài: sống
hiền lành, khiêm nhường, khó nghèo, chịu sỉ nhục, ngược đãi; và (3) chết để cứu
chuộc nhân loại là những người Ngài yêu mến. Sự bỏ mình đó không huỷ hoại mà dẫn
ta đến một cuộc sống dồi dào hơn: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn
ai liều mất mạng sống mình vì tôi và Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.”
Mời Bạn: Không tích chứa
oán hờn, đố kỵ, tranh chấp, ghen ghét, thù hận… nhưng sống khiêm nhường hiền
lành và vị tha chỉ vì bạn yêu Chúa và muốn nên giống Chúa và do đó bạn cũng yêu
người khác bằng trái tim của Chúa.
Sống Lời Chúa: Quyết tâm cùng với
Chúa Giê-su vác đến cùng thập giá của mình là từ bỏ thói hư tật xấu của mình,
là đón nhận những sự khó chịu, trái ý do hoàn cảnh hoặc do người chung quanh
gây ra.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ơn can đảm
để thật từ bỏ những thói hư thật xấu làm chúng con không muốn thập giá theo
Chúa. Đồng thời xin cho chúng con biết sống khó nghèo, khiêm nhường và hiền lành
để phục vụ anh em làm sáng danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Amen.
(5
Phút Lời Chúa)
Anh
em bảo Thầy là ai? (16.9.2018 – Chúa nhật 24 Thường niên, Năm B)
Suy
Niệm
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Ðức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ
sau khi họ đã ở với Ngài và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14),
sau khi họ đã thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng.
Hôm nay Ðức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho tôi
sau khi tôi đã theo đạo một thời gian dài,
đã cầu nguyện và tham dự các bí tích…
“Còn anh, anh bảo Thầy là ai?”
Câu hỏi này nhắm thẳng vào tôi, đòi tôi phải trả lời.
Tôi không được trả lời qua loa hay máy móc.
Câu trả lời của tôi phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm,
kinh nghiệm gặp gỡ và quen biết Ðức Giêsu.
Chẳng nên theo một người mà mình không quen và tin tưởng.
Ðức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ
sau khi họ đã ở với Ngài và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14),
sau khi họ đã thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng.
Hôm nay Ðức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho tôi
sau khi tôi đã theo đạo một thời gian dài,
đã cầu nguyện và tham dự các bí tích…
“Còn anh, anh bảo Thầy là ai?”
Câu hỏi này nhắm thẳng vào tôi, đòi tôi phải trả lời.
Tôi không được trả lời qua loa hay máy móc.
Câu trả lời của tôi phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm,
kinh nghiệm gặp gỡ và quen biết Ðức Giêsu.
Chẳng nên theo một người mà mình không quen và tin tưởng.
Ðời tín hữu là một hành trình tìm kiếm không ngừng
để khám phá ra khuôn mặt luôn mới mẻ của Ðức Giêsu.
Ngài thật là một mầu nhiệm khôn dò và quá phong phú.
Chúng ta chỉ mon men đến gần,
nhưng không sao múc cạn được mầu nhiệm ấy.
Phải thanh lọc những hình ảnh ta vốn có về Ngài.
Người làng Na-da-rét cứ nghĩ Ðức Giêsu chỉ là bác thợ.
Gioan Tẩy Giả nghĩ Ngài là một Mê-si-a vinh quang toàn thắng.
Phải gột bỏ cái biết cũ về Ngài
để đón nhận một Ðức Kitô khác, vượt xa điều mình nghĩ.
“Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa”.
Cần trở nên trẻ thơ để nhận ra khuôn mặt thật của Giêsu.
để khám phá ra khuôn mặt luôn mới mẻ của Ðức Giêsu.
Ngài thật là một mầu nhiệm khôn dò và quá phong phú.
Chúng ta chỉ mon men đến gần,
nhưng không sao múc cạn được mầu nhiệm ấy.
Phải thanh lọc những hình ảnh ta vốn có về Ngài.
Người làng Na-da-rét cứ nghĩ Ðức Giêsu chỉ là bác thợ.
Gioan Tẩy Giả nghĩ Ngài là một Mê-si-a vinh quang toàn thắng.
Phải gột bỏ cái biết cũ về Ngài
để đón nhận một Ðức Kitô khác, vượt xa điều mình nghĩ.
“Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa”.
Cần trở nên trẻ thơ để nhận ra khuôn mặt thật của Giêsu.
Hôm nay, chúng ta dễ dàng trả lời như Phêrô:
“Thầy là Ðức Kitô”,
và hơn Phêrô: “Thầy là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa”
Nhưng vấn đề không phải chỉ là trả lời đúng câu hỏi
mà còn là sống tận căn thân phận của Thầy.
Ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi,
Ðức Giêsu loan báo con đường dành cho người môn đệ.
Môn đệ chỉ có một con đường, con đường của Thầy.
Thầy đã sống phận người với tất cả bấp bênh tăm tối,
tôi có dám sống phận người của tôi trong niềm vui không?
Thầy đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật,
tôi có dám hiến mạng tôi vì Thầy và vì Tin Mừng không?
Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt,
tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?
“Thầy là Ðức Kitô”,
và hơn Phêrô: “Thầy là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa”
Nhưng vấn đề không phải chỉ là trả lời đúng câu hỏi
mà còn là sống tận căn thân phận của Thầy.
Ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi,
Ðức Giêsu loan báo con đường dành cho người môn đệ.
Môn đệ chỉ có một con đường, con đường của Thầy.
Thầy đã sống phận người với tất cả bấp bênh tăm tối,
tôi có dám sống phận người của tôi trong niềm vui không?
Thầy đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật,
tôi có dám hiến mạng tôi vì Thầy và vì Tin Mừng không?
Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt,
tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?
“Người ta bảo Thầy là ai?”
Ta cần biết cái nhìn của con người hôm nay về Ðức Giêsu.
Nhiều cái nhìn đúng nhưng chưa đủ.
Truyền giáo là giúp người ta biết đúng và đủ về Ngài.
Không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở,
nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ.
Cuộc sống của ta vén mở căn tính của Ðức Giêsu.
Dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Ngài.
Ðức Giêsu đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9).
Chúng ta ao ước nói: “Ai thấy tôi là thấy Ðức Giêsu”.
Ta cần biết cái nhìn của con người hôm nay về Ðức Giêsu.
Nhiều cái nhìn đúng nhưng chưa đủ.
Truyền giáo là giúp người ta biết đúng và đủ về Ngài.
Không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở,
nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ.
Cuộc sống của ta vén mở căn tính của Ðức Giêsu.
Dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Ngài.
Ðức Giêsu đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9).
Chúng ta ao ước nói: “Ai thấy tôi là thấy Ðức Giêsu”.
Cầu
Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng chiến thắng
thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng chiến thắng
thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
16
THÁNG CHÍN
Hội
Thánh Khải Hoàn
Cùng
với sự nhận hiểu quan trọng nói trên về Giáo Hội xét như là cộng đoàn các Kitô
hữu, phụng vụ cho chúng ta thấy đặc tính thần diệu của Giáo Hội xét như là
Giêrusalem, Thành Thánh, “xuất phát từ trời cao, từ nơi Thiên Chúa” (Kh 21,10).
Thành Giêrusalem trên trời là Hội Thánh khải hoàn và được vinh hiển trong Đức
Kitô. Nó bao gồm những ai được vui hưởng phần thưởng sự sống vĩnh cửu nhờ ơn cứu
chuộc của Đức Kitô.
Như
Thánh Gioan Tác giả Sách Tin Mừng, chúng ta cũng phải luôn luôn dõi đôi mắt tâm
hồn về Thành Giêrusalem vinh quang trên trời. Đó là mục tiêu cuối cùng của hành
trình cuộc sống chúng ta. Chúng ta phải luôn luôn chiêm ngắm “viễn cảnh hoà
bình hồng phúc” này – một viễn cảnh trở thành niềm hy vọng đầy sức khích lệ cho
chúng ta. Những anh chị em đã đạt đến ơn cứu độ đang chờ đợi chúng ta trong
Thành Thánh của Thiên Chúa. Và tại chính ngai toà của Thiên Chúa, họ cầu thay
nguyện giúp cho chúng ta – để sẽ đến ngày chúng ta cũng được sum vầy với họ.
–
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
16/9
Chúa
Nhật XXIV Thường Niên
Is
50, 5-9a; Gc 2, 14-18; Mc 8, 27-35.
LỜI
SUY NIỆM: “Người trách ông Phêrô: Xatan! lui lại đằng
sau Thầy. Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của
loài người.”
Khi Phêrô đứng trước câu hỏi của Chúa Giêsu: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là
ai?” Phêrô đã nhanh nhẫu tuyên xưng niềm tin của mình: “Thầy là Đấng Kitô.”. Được
Chúa Giêsu dặn dò: “Chúa Giêsu liền cấm ngặt các ông không đươc nói với ai về
Người.”. Nhưng liền đó, sau khi nghe Chúa Giêsu tiên báo về sự thương khó và Phục
Sinh của Người, Phêrô cũng nhanh nhẫu can ngăn Người, và đã bị Chúa Giêsu quở
trách: “Xatan, lui lại đằng sau Thầy”
Lạy Chúa Giêsu. Chúa đang mời gọi mỗi người chúng con: “Ai muốn theo tôi, phải
từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” Xin cho mỗi người chúng con biết
dùng sự hy sinh, quên mình hằng ngày như là của lễ dâng lên Chúa để đền tội cho
chính chúng con.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
NGÀY
16-09 THÁNH CORNELIÔ – GIÁO HOÀNG TỬ ĐẠO (+253)
Thánh
Cornêliô sinh tại Roma là người có một lối sống trong sạch thuần khiết và khiêm
tốn sâu xa không thể trách cứ được. Sau khi giữ các phận vụ trong Giáo hội và
được mọi tín hữu thán phục, Ngài lên ngôi thánh Phêrô, kế vị Đức giáo hoàng
Fabianô. Đấng đã chết vì đạo 15 tháng trước trong cuộc bách hại của Đêciô.
Nhưng lên ngôi ít lâu, Ngài đã phải đương đầu với cuộc ly khai đầy gương mù của
một giáo hoàng giả.
Novatianô
là một linh mục đầy tham vọng được một linh mục Phi châu hậu thuẫn. Họ nổi tiếng
về triết học và tài lợi khẩu, đến nỗi có người than phiền vì đã chọn Đức
Cornêliô làm giáo hoàng mà không chọn Novatianô. Hai người nổi loạn đã nỗ lực
tuyên truyền và lôi kéo được một số tín hữu và cả một số giám mục. Ba giám mục
Italia đã đặt tay tấn phong cho Novatianô làm giám mục. Ông liền viết thư cho
nhiều giám mục chống lại Đức giáo hoàng Cornêliô, trách cứ Ngài qua dễ dàng tiếp
nhận lại những người đã dâng hương tế thần.
Sáng
chói trên ngai tòa Phêrô, vì các nhân đức của vị tông đồ chân chính, thánh
Cornêliô đã dùng cả con đường hiền dịu lẫn cứng rắn mà không lôi kéo được 2 con
người phản bội trở lại đường ngay. Thánh Cyprianô sau khi biết rõ việc tuyển chọn
hợp pháp của thánh Cornêliô đã trợ lực với Ngài hết mình để mang lại sự hợp nhất
cho Giáo hội. Dù có một vài hiểu lầm, thánh Cornêliô và Cyprianô liên kết mật
thiết với nhau như những người bạn thiết. Những sắc lệnh kết án Novat và
Novatianô được một công đồng ở Roma chuẩn nhận.
Khi
Gallo mở lại cuộc bắt đạo, Đức Corneliô bị tống giam. Ngài bị đầy tới
Contumcella, bây giờ là Civita Vecchia. Trong một lá thư chào mừng, thánh Cyprianô
viết:
–
“Chúng ta cầu nguyện cho nhau trong những ngày bách hại này, nâng đỡ nhau bằng
tình bác ái. Nếu ai trong chúng ta được Thiên Chúa ban đặc ân cho qua đời trước
chớ gì tình thân hữu vẫn tiếp tục thúc đẩy Chúa dủ tình thương xót anh chị em
chúng ta.
Quả
thật thánh Cornêliô đã chẳng sống lâu. Ngài đã chết trong khi đi đầy vào tháng
6 năm 253 và được an táng tại Kentumcelloe và sau này dời về nghĩa trang thánh
Callistô. Tình bằng hữu của hai thánh Cornêliô và Cyprianô vẫn còn sống mãi cho
đến ngày nay và Giáo hội kính nhớ các Ngài vào cùng một ngày.
**********************
NGÀY
16-09 THÁNH CYPRIANÔ – GIÁM MỤC TỬ ĐẠO (210 – 258)
Thánh
Cyprianô là một khuôn mặt sáng chói trong Giáo hội sơ khai, là một người Phi
Châu. Hồi còn là lương dân, với những tài năng đặc biệt của một giáo sư dạy
khoa hùng biện và của một luật sư, Ngài đã buông mình theo thú vui như một
thanh niên thời đó. Nhưng khi nhờ cha Côcilianô đưa trở lại với đức tin Kitô
giáo, Ngài đã hết lòng từ hiến đời mình để phụng sự Chúa Kitô. Quyết sống độc
thân, bán hết gia sản và nhà cửa để phân phát cho người nghèo. Ngài cũng từ bỏ
văn chương để học hiểu kinh thánh, một số tác phẩm và một số tuyển tập thư tín
của Ngài là phần đóng góp cho nền văn chương Kitô giáo.
Với
cuộc sống như vậy, chẳng lạ gì khi vừa trở lại đạo, Ngài đã được thụ phong linh
mục và năm 249 được chọn làm giám mục Carthage, dưới sức ép của hàng giáo sĩ và
giáo dân. Ngài đã có được mọi khả năng và đức tin mà một giám mục có thể có được.
Với hết tâm lực, Ngài tìm cách nâng cao nếp sống luân lý đạo đức của một đoàn
chiên sau nhiều năm phóng túng vì cuộc bách hại. Đặc biệt Ngài đã viết truyền
đơn chống lại sự thế tục của các trinh nữ tận hiến.
Một
năm sau khi được tấn phong, năm 250 hoàng đế Đêciô bắt đầu một cuộc bách hại đầy
nguy hiểm vì được tổ chức có hệ thống. Ong bắt mọi người phải dâng lễ kính thần
minh của ông. Nhiều Kitô hữu đã tuân phục. Một số khác tìm cách mua những giấy
chứng nhận để được yên thân vì nghĩ rằng: Giáo hội không thể thiếu một vị giám
mục khi phải đương đầu với cơn bão táp. Từ nơi trú ẩn Ngài viết thơ hướng dẫn
đoàn chiên.
Cuộc
bách hại chấm dứt sau cái chết của Đêciô. Nhiều người Kitô hữu chối đạo trở về
với Giáo hội. Thánh Cyprianô chủ tọa một công đồng trong đó quyết định rằng: những
người dâng lễ kính thần minh chỉ được tha tội trước khi chết, còn những người
chỉ mua giấy chứng nhận (1a belli), thì được tha sau một thời gian thống hối.
Novatô, một linh mục và Fêlicissimô, một phó tế đã ly khai vì muốn tha ngay,
thánh Cyprianô đã hỗ trợ cho đức giáo hoàng Cornêliô chống lại nhóm ly khai
theo Novatianô. Cùng với nhiều lá thư Ngài gửi cho các Kitô hữu Roma một khảo
luận về sự hiệp nhất Giáo hội “De Unitate Ecclesiae” trong đó Ngài nhấn mạnh tới
thượng quyền của đấng kế vị thánh Phêrô.
Năm
253, một cơn dịch lan tràn khắp đế quốc. Các Kitô hữu ở Carthage quảng đại phục
vụ các nạn nhân. Nhưng người ta mê tín lại cho rằng: các thần minh đã giận dữ với
người Kitô hữu. Hoàng đế Gallô mở một cuộc bách hại mới. Một sắc lệnh mới tha tội
cho mọi hối nhân để họ đứng vững trong đức tin. Dầu vậy cuộc bách hại đã không
dữ dội ở Carthage và Đức Cha Cyprianô không bị quấy rầy.
Chẳng
may có sự tranh chấp giữa thánh Cyprianô với đấng kế nhiệm thánh Cornêliô là Đức
giáo hoàng Stêphanô về việc rửa tội lại cho người đã được rửa tội trong lạc
giáo. Cuộc ly khai đã không xảy ra vì Đức Sixtô kế vị đức Stêphanô được giữ tập
tục của mình.
Năm
257, hoàng đế Valêrianô lại khơi dậy cuộc bách hại. Thánh Cyprianô là nạn nhân
của cuộc bách hại này. Các tường thuật về cuộc diện kiến của Ngài trước quan tổng
trấn và về cuộc tử đạo của Ngài dựa tên các tài liệu chính thức của một người
đã được mục kiến. Trước mặt tổng trấn Paternô, Ngài tuyên xưng đức tin và không
chịu nộp danh sách các linh mục. Ngài bị đày đi Curubis, một thành bên bờ biển
là nơi Ngài viết khảo luận cuối khuyên nhủ can đảm chịu chết vì đạo. Vào đêm
trước khi bị lưu đày, Ngài mơ thấy mình bị chặt đầu vào năm sau.
Quả
thật, năm sau, vào mùa thu năm 258 có sắc lệnh xử các giáo sĩ. Ngài bị điệu về
trước mặt quan tổng trấn mới là Galeriô Maximô. Sau một đêm sống với đoàn
chiên. Sáng 14 tháng chín Ngài đứng trước quan tòa và bị chất vấn:
– Ngươi là Thasciô, thượng tế của bọn người phạm thánh phải không ?
– Phải
– Đức hoàng thượng dạy ngươi phải dâng lễ tế các thần minh.
– Tôi sẽ không làm.
– Hãy nghĩ lại đi.
– Quan hãy làm như chỉ thị, khi đường đi ngay thẳng lại phải suy tính làm gì.
– Ngươi là Thasciô, thượng tế của bọn người phạm thánh phải không ?
– Phải
– Đức hoàng thượng dạy ngươi phải dâng lễ tế các thần minh.
– Tôi sẽ không làm.
– Hãy nghĩ lại đi.
– Quan hãy làm như chỉ thị, khi đường đi ngay thẳng lại phải suy tính làm gì.
Quan
tòa ra lệnh xử trảm thánh nhân. Ngài truyền đem 25 tiền vàng thưởng cho lý
hình. Các Kitô hữu thi nhau thấm máu người làm kỷ vật.
Đêm
hôm sau các Kitô hữu đã rước đuốc mang thân thể Ngài mai táng trong phần mộ của
Macrôbiô Condidianô, một quan chức Roma “trên đường Pmappala gần các hồ nước”.
Một ít ngày sau quan tổng trấn cũng theo Ngài tới phần mộ. Chúng ta có được bản
ký sự về thánh Cyprianô do Pontiô của Ngài viết.
(daminhvn.net)
16
Tháng Chín
Sống Là Một Cuộc Chạy Ðua
Vào
khoảng cuố tháng 4 năm 1989, một cuộc chạy việt dã gây quỹ cho thế giới đệ tam
đã được tổ chức tại 300 thành phố bên Pháp Quốc. Cuộc chạy bộ này đã cho tổ chức
có tên là chống đói và giúp phát triển thuộc Giáo Hội Pháp đề xướng, và với sự
hỗ trợ của Bộ Thanh Niên và Thể Thao.
Từ
năm 1968 đến nay, hằng năm, tổ chức chống đói và trợ giúp phát triển phát động
những chiến dịch tương tự để gây ý thức nơi giới trẻ về những vấn đề phát triển
trên thế giới, nhất là tại các nước nghèo.
Trong
cuộc chạy việt dã nói trên, các bạn trẻ mang theo trong người những tấm vé số
mà họ sẽ bán cho người lớn. Trung bình, cứ mỗi cây số chạy được, mỗi bạn trẻ
bán một vé số. Mỗi một vé số trị giá gần hai Mỹ kim. Theo dự tính, tổng số cây
số mà các bạn trẻ sẽ chạy được lên đến 120,000 cây số, nghĩa là tương đương với
một vòng thế giới đệ tam.
Số
tiền thu được sẽ trao cho tổ chức chống đói và trợ giúp phát triển để tài trợ
cho hai dự án phát triển tại Colombia: một dự án nhằm tái định cư những nạn
nhân của vụ núi lửa tại Armero cách đây hai năm, và một dự án khác nhằm thiết lập
những vườn trẻ tại thủ đô Bogota.
Nhiều
bạn trẻ thuộc các phong trào Công Giáo tiến hành, các nhóm học giáo lý, các học
sinh tại các trường Công Giáo đã hăng say tham gia vào chiến dịch nói trên.
Trong
cuộc sống tại các nước tân tiến ngày nay, ai cũng thấm thía với câu ngạn ngữ: sống
là một cuộc chạy đua! Buổi sáng, người ta chen lấn nhau để lên xe chạy đến sở
làm; buổi chiều, người ta giành giựt nhau một chỗ trên xe để về nhà sớm. Hàng
tháng, người ta phải chạy đua với sự leo thang của vật giá. Và dĩ nhiên, những
tiện nghi mỗi ngày một mới mẻ cũng khiến cho con người chạy bở hơi tai.
Cuộc
chạy đua nào cũng đưa lại mệt mỏi. Nhưng mệt mỏi hơn cả đó là cuộc chạy đua
trong đó con người không biết mình sẽ đi về đâu… Ðó là hình ảnh của một cuộc sống
không có mục đích.
Thánh
Phaolô đã so sánh cuộc sống của người Kitô với một cuộc chạy đua. Người Kitô
cũng cảm nghiệm được những nhọc mệt trong lộ trình, nhưng họ luôn kiên trì vì
biết chắc đích điểm và phần thưởng đang chờ đợi họ.
Người
Kitô cũng kiên trì chạy đua, bởi vì họ không chạy lẻ loi trong cuộc sống, nhưng
họ biết rằng bên cạnh họ, còn có những người anh em cùng chung sức với họ… Một
vòng tay, một nụ cười, một cử chỉ thân ái, một hành động tương trợ: bao nhiêu cử
chỉ ấy là bấy nhiêu nâng đỡ cho người Kitô trong cuộc hành trình của họ và cũng
là bấy nhiêu ánh sáng soi dẫn trong cuộc chạy đua của họ.
(Lẽ
Sống)








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét