19/09/2018
Thứ tư tuần 24 thường niên
BÀI ĐỌC I: 1 Cr 12, 31
– 13, 13
“Đức tin, đức cậy, đức mến vẫn
tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả”.
Trích thư thứ nhất
của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh
em hãy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo anh em một con đường
hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi
không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động.
Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khoa học; nếu tôi
có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn
là không. Nếu tôi phân phát hết gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình
để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi.
Bác ái thì kiên tâm,
nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ,
không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng
chia vui cùng chân lý. Bác ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả,
chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào
qua đi, ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ
biến mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới
hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé
nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi
tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ
mịt qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ, tôi biết có giới
hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy,
đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 32, 2-3.
4-5. 12 và 22
Đáp: Phúc thay dân
tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).
Xướng: 1) Hãy ngợi
khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng
Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran. – Đáp.
2) Vì lời Chúa là lời
chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh
chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. – Đáp.
3) Phúc thay quốc gia
mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Lạy Chúa,
xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.
– Đáp.
ALLELUIA: Tv 147, 12a
và 15a
Alleluia, alleluia!
– Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Đấng đã sai lời Người xuống cõi trần ai. –
Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 7, 31-35
“Chúng tôi đã thổi sáo mà các
anh không nhảy múa, chúng tôi đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán rằng: “Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống
ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng:
‘Chúng tôi đã thổi sáo
cho các anh, mà các anh không nhảy múa.
‘Chúng tôi đã hát những
điệu bi ai, mà các anh không khóc’.
Bởi vì khi Gioan Tẩy
Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: ‘Người bị quỷ ám’.
Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: ‘Kìa con người mê ăn
tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi’. Nhưng sự khôn ngoan đã
được minh chính bởi tất cả con cái mình”. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Thái Ðộ Thiếu
Nhất Quán
Ngày nay, nhân danh
dân chủ, tự do ngôn luận, nhiều người muốn có một Giáo Hội của mình, một Giáo Hội
được định đoạt theo những suy nghĩ của mình, chứ không là giáo lý do Chúa mạc
khải và ủy thác cho Giáo Hội nữa. Muốn là Kitô hữu, nhưng lại không muốn chấp
nhận giáo huấn của Chúa Kitô được ủy thác cho Giáo Hội, đó là một thái độ thiếu
nhất quán. Chúng ta có thể thấy được một thái độ như thế trong bài Tin Mừng hôm
nay.
Chúa Giêsu mượn hình ảnh
nhóm trẻ chơi ngoài phố chợ để nói lên thái độ ấy. Chấp nhận cuộc chơi, nhưng
khi tiếng sáo thổi lên thì lại không nhảy múa; chấp nhận diễn kịch, nhưng khi
bài hát đưa đám được cất lên thì lại không khóc theo. Những người Do thái thời
Chúa Giêsu cũng có phản ứng đối với Ngài không khác nào đám trẻ chơi ngoài phố
chợ này. Họ mong chờ Ðấng Cứu Thế, Gioan Tẩy Giả loan báo về Ngài, nhưng họ
không chấp nhận nếp sống khổ hạnh của ông, họ bảo ông bị quỉ ám; Chúa Giêsu
khai mạc thời cứu thế bằng yêu thương, phục vụ, tha thứ, thì họ lại bảo rằng
Ngài là tên ăn nhậu, hòa nhập với phường thu thuế và tội lỗi.
Mong chờ Ðấng Cứu Thế,
nhưng không chấp nhận những thể hiện của thời cứu thế; trông đợi Ðấng Cứu Tinh,
nhưng phải là Vị Cứu Tinh do mình tạo ra, đó là thái độ của những người Do thái
thời Chúa Giêsu. Thái độ ấy cũng là cơn cám dỗ triền miên của các Kitô hữu thời
đại chúng ta. Chúa Giêsu đã nói: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập
giá mà theo Ta". Chúng ta mang danh hiệu Kitô, chúng ta muốn làm môn đệ
Ngài, nhưng có lẽ chúng ta chưa từ bỏ chính mình để chấp nhận và sống theo giáo
huấn của Ngài.
Chúa Giêsu mời gọi
chúng ta mặc lấy sự khôn ngoan của con cái Chúa, đó là sự khôn ngoan của trẻ
thơ luôn biết sống khiêm tốn và tin tưởng. Xin Ngài củng cố chúng ta trong tâm
tình ấy, để chúng ta luôn được trung thành với giáo huấn mà Ngài đã ủy thác cho
Giáo Hội.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 24 TN2
Bài đọc: I
Cor 12:31-13:13; Lk 7:31-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự quan trọng
của đức mến.
Tình yêu là một đề tài
vô tận của các văn sĩ, thi sĩ. Các tuyệt tác có được là nhờ những cảm hứng đến
từ nguồn tình yêu của Thiên Chúa, tổ quốc, cha mẹ, anh chị em, và tha nhân.
Chương 13 trong Thư thánh Phaolô gởi cho các tín hữu Corintô là một chương phân
tích tuyệt vời về tình yêu. Ngược lại, khi con người không có tình yêu, tất cả
sẽ trở nên vô nghĩa và ngay cả trở thành hỏa ngục như triết gia hiện sinh J.P.
Sartre nhân định: “Con người là hỏa ngục cho nhau.” Một tìm hiểu chi tiết về
các Bài đọc hôm nay sẽ giúp chúng ta nhận ra giá trị quan trọng của tình yêu và
mong muốn tập luyện để có được tình yêu. Khi có được tình yêu, chúng ta sẽ dễ
dàng tránh khỏi những tật xấu như các Biệt-phái và Kinh-sư mà Chúa Giêsu trách
hôm nay.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức mến thì cao trọng hơn cả.
1.1/ Sự quan trọng của đức
mến: Biết con người có khuynh hướng tìm những
gì cao trọng nhất, thánh Phaolô khuyên: “Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh
em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em
con đường trổi vượt hơn cả.” Con đường này là con đường yêu mến mà thánh
Thêrêxa Hài Đồng cũng xác nhận: “Ơn gọi của con là Yêu.” Có nhiều nghĩa của chữ
“yêu,” nhưng thánh Phaolô dùng chữ “đức mến” để nói lên tình yêu trong khuôn khổ
của Kitô Giáo. Ngài so sánh sự quan trọng của “đức mến” với một số ơn cao trọng
khác:
– Với ơn nói tiếng lạ:
“Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi
nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì” Biết các thứ tiếng là một
chuyện nhưng biết dùng những thứ tiếng đó để mưu ích cho tha nhân là chuyện
khác. Nếu không biết dùng ơn nói tiếng lạ thì có khác gì chiếc “thùng rỗng kêu
to” hay nói như thánh Phaolô: “thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng.”
– Với ơn nói tiên tri,
ơn hiểu biết, và ơn đức tin: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết
mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời
non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.” Tiên tri là nói thay cho
Chúa để hướng dẫn và đem con người về với Chúa. Có những tiên tri ghét người đến
độ không muốn kẻ thù trở về để được cứu (trường hợp của tiên tri Jonah). Điều
nguy hiểm thường thấy nơi những người học cao hiểu rộng là tính tự kiêu, cho
mình là hơn người và khinh thường tất cả những người khác. Rất nhiều người hiểu
biết đã từ chối Thiên Chúa! Người có một đức tin mạnh cũng thế, họ nghĩ ai cũng
phải có một đức tin mạnh như họ và bắt mọi người cũng phải làm những việc như họ
làm; nhưng họ quên để có một đức tin như thế, họ đã phải dùng nhiều thời gian
và trải qua biết bao sa ngã!
– Với những việc bác
ái và anh hùng: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả
thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho
tôi.” Việc tốt lành thôi cũng chưa đủ, cần có những ý hướng tốt lành nữa. Có những
người đem cho hết gia tài chỉ để mua danh tiếng, chứ không cho vì thương người.
Có những người tìm tử đạo để giải thóat cuộc đời đau khổ của mình chứ không để
làm chứng nhân cho Chúa.
1.2/ Định nghĩa về đức mến:
– Đức mến thì nhẫn nhục
và nhân hậu: Tiếng Hy-Lạp có hai phân từ dùng cho kiên nhẫn: kiên nhẫn đợi cơ
may tới và kiên nhẫn với con người. Phân từ kiên nhẫn (makrothumein) xử
dụng bởi các thánh ký trong Tân-Ước luôn hàm chứa sự kiên nhẫn với con người.
Thánh John Chrysostom cắt nghĩa: Phân từ này được dùng cho người bị đối xử cách
sai trái; tuy ông có quyền và có cơ hội để trả thù nhưng đã không làm. Trái lại,
ông muốn tự người đó nhận ra sự sai trái của họ bằng những việc tốt lành ông
làm cho họ.
Chúa Giêsu cũng đã từng
dạy các môn đệ hãy có sự kiên nhẫn này qua việc yêu thương và làm ơn cho kẻ
thù, cầu nguyện cho những người bắt bớ… để có thể trở nên hòan thiện như Cha
trên trời. Kiên nhẫn như thế không phải là yếu đuối nhưng là sức mạnh, không phải
là thua cuộc nhưng là cách tốt nhất để chinh phục kẻ thù. Lịch sử có nhiều người
đã dùng cách thức này và không ai dùng cách hiệu quả hơn Chúa Giêsu trên Thập
Giá. Nhiều người Công Giáo có đức tin vững mạnh và cuộc đời liêm chính nhưng
chưa đủ để chinh phục người khác về cho Chúa vì thiếu tính thương người. Họ dễ
dàng đứng về phía kẻ mạnh để áp bức người cô thân cô thế.
– Đức mến không ghen
tương, không vênh vang, không tự đắc: Người đời thường nói: “Chỉ có hai hạng
người trên thế gian: triệu phú và muốn thành triệu phú.” Có hai lọai ghen
tương: vì ham muốn tài sản của người khác và vì muốn họ phải mất những gì họ
đang có. Lọai ghen tương thứ nhất có thể hiểu vì là tính con người. Lọai ghen
tương thứ hai là do bởi sự xui dục của ma quỉ: muốn tha nhân phải chịu đau khổ
để mình được thỏa mãn. Ví dụ: một học sinh muốn được điểm A như những học sinh
giỏi là điều thông thường; nhưng lại muốn khi mình được điểm A thì các học sinh
khác phải không được A như mình! Có những người khi có những gì người khác
không có hay được quyền cao chức trọng thì kiêu hãnh tự đắc, coi mình như cái rốn
của vũ trụ. Họ khoe khoang để mọi người được biết, bắt người khác phải quỵ lụy
mình, và khinh thường tha nhân. Các Kinh-sư và Biệt-phái trong Phúc Âm là những
tiêu biểu cho mẫu người này.
– Đức mến không cư xử
bất xứng (làm điều bất chính), không tìm tư lợi: Trong tiếng Hy-Lạp, từ cư xử bất
xứng (avschmone,w) có hai nghĩa: (1) một hành động ngược lại với những tiêu chuẩn
luân lý như lối sống vô luân (1 Cor 7:36); (2) một hành động ngược lại với những
tiêu chuẩn xã hội như cách cư xử vô lễ, bất lịch sự, hay không đúng phép xã
giao (1 Cor 13:5). Ở đây, thánh Phaolô có lẽ nhấn mạnh vào nghĩa thứ hai hơn.
Nhiều người cũng nhận xét có hai lọai người trên thế gian: một lọai chỉ tìm lợi
lộc cá nhân, luôn đòi được hưởng đặc quyền và một lọai chỉ để ý đến bổn phận phải
đóng góp để tiếp tục phát triển. Để xây dựng xã quốc gia, có người đã đề nghị:
Đừng đòi hỏi quốc gia phải làm gì cho bạn, nhưng hãy tự hỏi bạn có thể làm gì để
xây dựng quốc gia. Cũng thế, để xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô, chúng ta đừng đòi
hỏi Giáo Hội phải làm gì cho mình, nhưng hãy tự hỏi mình có thể làm gì để xây dựng
Giáo Hội.
– Đức mến không nóng
giận, không nuôi hận thù: Nóng giận là không làm chủ được con người mình, là
thiếu kiên nhẫn. Nóng giận có thể vi phạm trầm trọng đức mến trong lời nói cũng
như trong hành động. Bác ái thì xây dựng trong khi nóng giận có thể phá hủy tất
cả những gì mà mình và người khác đã xây dựng lâu năm. Động từ “nuôi” trong tiếng
Hy-Lạp là động từ dùng trong lãnh vực kế tóan (logizeshthai): phải vào sổ
sách tất cả để đừng quên sót. Một trong những nghệ thuật sống là học để quên,
nhưng nhiều người luôn nhớ rành mạch tất cả những gì xấu người khác đã đối xử với
mình. Có những cha mẹ khi đánh con là đánh và kể luôn tất cả mọi tội con đã phạm
từ khi bắt đầu bị đánh tới giờ! Nhớ tất cả các tội của người khác là cách hiệu
quả nhất để giết chính mình và giết tha nhân.
– Đức mến không mừng
khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật: Nhiều người lại có
khuynh hướng ngược lại: mừng khi thấy điều dữ xảy ra cho người mình không thích
và không vui khi thấy họ được mọi sự lành bằng an. Khi đọc, nghe, hay xem tin tức
trên các phương tiện truyền thông, nếu không thấy những điều dữ xảy ra là kết
luận tin tức hôm nay chẳng có gì đặc biệt cả. Các con buôn muốn bão cấp 2 sẽ trở
thành bão cấp 5 để có thể kiếm lời bằng cách tăng giá những gì dân chúng cần,
vì họ biết bão sẽ chẳng làm thiệt hại gì đến họ.
– Đức mến che chở tất
cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, và chịu đựng tất cả: Động từ “che chở” được
dịch từ tiếng Hy-Lạp “ste,gw” đến từ danh từ “ste,gh” có nghĩa là mái nhà. Động
từ được dùng cho việc lợp mái nhà để giữ những người trong nhà khỏi mưa nắng.
Có lẽ thánh Phaolô muốn dùng từ này ở đây để nói lên rằng một khi có đức mến,
con người có thể tìm mọi cách để che chở khuyết điểm của tha nhân, không để tội
lỗi họ bị phơi bày ra cho người khác thấy. Tin tưởng tất cả có hai chiều kích:
Trước tiên, tin tưởng nơi Thiên Chúa là Đấng có thể làm được mọi sự. Sau đó,
tin tưởng nơi tha nhân có khuynh hướng tôn trọng Sự Thật, yêu những gì tốt
lành, và quí mến mọi sự tốt đẹp. Với niềm tin như thế, con người có quyền hy vọng
những gì họ mong đợi sẽ đến và sẽ không ngần ngại kiên trì hy sinh chịu đựng
đau khổ để tha nhân được sống. Như những nhà nông, người có đức mến sẽ làm tất
cả những gì họ có thể làm được, chịu dầm mưa giãi nắng; sau đó, họ đặt trọn niềm
tin tưởng vào Trời sẽ ban cho một mùa gặt tốt đẹp.
1.3/ Tại sao đức mến quan
trọng? Thánh Phaolô trả lời bằng cách so
sánh đức mến với các ơn gọi khác về tính thời gian, sự hòan hảo, và sự cao trọng
tuyệt đối. Sau khi so sánh, Ngài kết luận: “Đức mến không bao giờ mất được.”
– Về tính thời gian:
Ơn nói tiên tri cũng chỉ nhất thời. Khi Chúa cần phải sửa dạy dân chúng, Ngài sẽ
dùng các tiên tri. Nhưng khi những gì Chúa muốn đã đạt được, Ngài không cần đến
vị tiên tri đó nữa. Ơn nói các tiếng lạ cũng có ngày sẽ hết như ơn tiên tri.
Khi về trời, hoặc tất cả chỉ xử dụng một ngôn ngữ hoặc tất cả sẽ được Chúa ban
ơn để hiểu mọi thứ tiếng.
– Về sự hiểu biết: Ơn
hiểu biết cũng chỉ nhất thời và giới hạn vì sự hiểu biết thì có ngần; khi cái
hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi. Thánh Phaolô dùng hai hình ảnh
để dẫn chứng sự bất tòan của ơn hiểu biết:
* So sánh sự hiểu biết
của trẻ con và của người trưởng thành: Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói
năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã
thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con. Sự hiểu biết ở thế gian
này cũng bất tòan như sự hiểu biết của con trẻ; một khi đã về hưởng hạnh phúc với
Chúa thì sự hiểu biết sẽ hòan hảo như sự hiểu biết của người đã trưởng thành.
* So sánh sự hiểu biết
qua gương và qua người thật: Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm
gương, mai sau sẽ được gặp Thiên Chúa mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần
có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi.
– Về sự tòan hảo: Hiện
nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức
mến. Đức tin cần thiết khi chưa gặp được Chúa; một khi đã gặp được Ngài, đức
tin sẽ không cần thiết nữa. Đức cậy là hy vọng những gì mình chưa có; một khi
đã có rồi, đức cậy cũng sẽ không cần thiết. Chỉ có đức mến là tồn tại, một khi
đã yêu rồi thì cứ tiếp tục yêu; nồng độ của tình yêu sẽ thắm thiết hơn và hòan
hảo hơn.
2/ Phúc Âm: Thói quen phê bình, chỉ trích
Một trong những đặc
tính của trẻ là chúng sống theo cảm xúc nhất thời: khi nào muốn ăn là ăn, muốn
chơi là chơi. Chúng không cần biết những ước muốn của chúng có hợp lý không cho
tới khi bị cha mẹ ngăn cấm và tập cho chúng biết sống kỷ luật. Nếu không được
cha mẹ tập để sống theo kỷ luật, đứa trẻ sẽ tiếp tục những thói quen đó dầu
chúng đã trở thành người lớn. Chúa Giêsu ví các Kinh-sư và Biệt-phái như những
đứa trẻ này vì họ không chịu sống theo đường lối của Thiên Chúa đã họach định
mà cứ ngoan cố sống theo sở thích mình: “Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi
nhau mà nói: “Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi
hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than.”
Vì các Kinh-sư và Biệt-phái
lấy mình làm tiêu chuẩn để phê bình người khác nên họ không thỏa mãn với bất cứ
ai có lối sống khác họ. Họ phê bình Gioan Tẩy Giả là bị quỷ ám vì ông không ăn
bánh, không uống rượu như họ. Khi Chúa Giêsu đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì
họ lại bảo: “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.”
Tuy vậy, kế họach của
Thiên Chúa không vì họ mà phải thay đổi vì vẫn có những người sống theo Đức
Khôn ngoan chỉ dẫn. Vẫn có những người nghe theo lời giảng của Gioan Tẩy Giả, bỏ
đường tội lỗi, và quay trở về với Chúa. Những người này sẽ là bằng chứng hùng hồn
cho sự khôn ngoan và kế họach của Thiên Chúa. Các Kinh-sư và Biệt-phái có thể
làm trở ngại, nhưng không thể thắng vuợt được Đức Khôn Ngoan của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Đức mến có thể ví
như máu lưu thông trong cơ thể. Máu cần cho sự sống không phải chỉ cho thân thể
mà còn tất cả các chi thể. Chi thể nào mà máu không vận chuyển tới sẽ bị đau và
nếu không được chữa trị kịp thời sẽ chết. Cũng vậy, tình yêu là động lực cho tất
cả mọi hành động của con người: vì yêu Chúa và yêu tha nhân, con người dám hy
sinh chịu đựng đau khổ để tòan Thân Thể của Chúa Kitô được lành mạnh. Không có
tình yêu mọi công việc sẽ bị đình trệ và dần dần tắt hẳn và cuộc sống sẽ trở
nên vô nghĩa. Như lời Thánh Thêrêxa Hài Đồng nói: “Không có tình yêu Giáo Hội sẽ
không còn và máu tử đạo cũng sẽ hết.”
– Khi thiếu vắng tình
yêu, con người sẽ trở nên cau có, gắt gỏng, khó chịu. Họ sẽ không hài lòng về bất
cứ những gì xảy ra, và sẽ luôn tìm những điều xấu của tha nhân để có lý do phê
bình. Ngược lại, một khi được ở trong tình yêu, con người sẽ dễ dàng thông cảm
và tha thứ mọi khuyết điểm của tha nhân, đúng như lời ca dao Việt-Nam:
Yêu nhau yêu cả đường
đi – Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng.
Yêu nhau biết mấy
cho vừa – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
19/09/18 – THỨ TƯ TUẦN 24 TN
Th. Gia-nu-a-ri-ô, giám mục, tử đạo
Lc 7,31-35
TRÂN TRỌNG SỰ KHÁC BIỆT
“Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo:
‘Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.’ ” (Lc 7,34)
Suy niệm: Lối sống của Gio-an Tẩy Giả
và của Đức Giê-su thật khác nhau. Gio-an nhiệm nhặt; còn Đức Giê-su thông
thoáng cởi mở. Buồn cười là cả hai đều bị người Do Thái chỉ trích, do chính lối
sống của mỗi vị. Vạch ra cái ‘buồn cười’ ấy ở đây, Đức Giê-su không chỉ nhằm
xác nhận một kinh nghiệm về nhân tình thế thái: Ở sao cho vừa lòng người, ở rộng
người cười, ở hẹp người chê. Phải chăng Ngài còn hàm ý rằng không có một lối sống
duy nhất tốt, mà có nhiều: mỗi người, theo ơn gọi của mình, sẽ đảm nhận lối sống
phù hợp với ơn gọi đó? Điều cốt yếu là cái động lực, cái ‘hồn’ của lối sống mà
mình đảm nhận.
Mời Bạn: Cảnh giác mối cám dỗ (nhiều
khi trong vô thức) đòi kẻ khác phải giống mình hay phải theo ý mình (như thể ý
mình luôn luôn đúng nhất và tốt nhất!). Đức Giê-su gọi những người như vậy là
“như lũ trẻ ngoài chợ;” khoa tâm lý ngày nay sẽ xác định cách “chuyên môn” hơn:
đó là thái độ “bạo chúa” của trẻ lên hai! Chúng ta không còn là trẻ lên hai nữa,
và ta cần học biết tích cực nhìn nhận và trân trọng sự khác biệt nơi người
khác, nhất là khi ta nắm giữ những quyền hành nào đó trong gia đình, xã hội hay
trong Giáo Hội.
Chia sẻ: Theo bạn, làm sao để dễ chấp nhận người khác?
Sống Lời Chúa: Một cách để chấp nhận người
khác là chân thành yêu thương họ, như Đức Giê-su đã yêu thương và trở nên “bạn
bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
xin dạy con biết ép mình nên giống Chúa thay vì ép kẻ khác nên giống mình.
Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Lũ trẻ ngồi ngoài chợ (19.9.2018 – Thứ tư Tuần 24 Thường
niên)
Suy niệm:
Đức Giêsu ví những người thuộc thế hệ của Ngài
với lũ trẻ ngồi chơi ngoài chợ (cc. 31-32).
Các nhóm chơi với nhau, í ới gọi nhau.
Một nhóm bày ra trò chơi đám cưới,
thổi sáo, thổi kèn để mong nhóm kia nhảy múa.
Nhưng nhóm kia đã không tham gia.
Sau đó nhóm này bèn chơi trò đám ma, hát những bài ca buồn não nuột.
Nhưng nhóm kia vẫn chẳng khóc than thương tiếc.
Hẳn là chẳng vui gì khi có sự thụ động, lạnh nhạt như vậy.
Dụ ngôn trên đây nói đến một số người khó chiều, bướng bỉnh.
Dù thế nào thì họ cũng đứng ngoài, không chịu nhập vào cuộc chơi.
Họ chẳng thích cả trò đám ma lẫn đám cưới.
với lũ trẻ ngồi chơi ngoài chợ (cc. 31-32).
Các nhóm chơi với nhau, í ới gọi nhau.
Một nhóm bày ra trò chơi đám cưới,
thổi sáo, thổi kèn để mong nhóm kia nhảy múa.
Nhưng nhóm kia đã không tham gia.
Sau đó nhóm này bèn chơi trò đám ma, hát những bài ca buồn não nuột.
Nhưng nhóm kia vẫn chẳng khóc than thương tiếc.
Hẳn là chẳng vui gì khi có sự thụ động, lạnh nhạt như vậy.
Dụ ngôn trên đây nói đến một số người khó chiều, bướng bỉnh.
Dù thế nào thì họ cũng đứng ngoài, không chịu nhập vào cuộc chơi.
Họ chẳng thích cả trò đám ma lẫn đám cưới.
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói đến những người ở thời của
Ngài.
Họ có nét tương tự như lũ trẻ ngồi ngoài chợ.
Khi Gioan Tẩy giả đến mời gọi họ sám hối ăn năn,
đời sống khổ hạnh của vị ngôn sứ này đã khiến họ từ khước (Lc 7, 30).
Đơn giản vì họ không thích khóc than hay hoán cải.
Gioan ăn chay nên không ăn bánh, không uống rượu (c. 33).
Lối sống của ông phù hợp với lời ông giảng về việc Nước Trời gần đến.
Nhưng lối sống khác thường ấy lại bị xem là một triệu chứng tâm thần.
Người ta đã coi ông là bị quỷ ám,
nên ít người tin vào lời giảng của một người như thế.
Họ có nét tương tự như lũ trẻ ngồi ngoài chợ.
Khi Gioan Tẩy giả đến mời gọi họ sám hối ăn năn,
đời sống khổ hạnh của vị ngôn sứ này đã khiến họ từ khước (Lc 7, 30).
Đơn giản vì họ không thích khóc than hay hoán cải.
Gioan ăn chay nên không ăn bánh, không uống rượu (c. 33).
Lối sống của ông phù hợp với lời ông giảng về việc Nước Trời gần đến.
Nhưng lối sống khác thường ấy lại bị xem là một triệu chứng tâm thần.
Người ta đã coi ông là bị quỷ ám,
nên ít người tin vào lời giảng của một người như thế.
Khi Đức Giêsu đến với thế hệ này,
Ngài đã không mang dáng dấp của một ẩn sĩ nơi hoang địa.
Ngài đã sống như một người bình thường, ăn uống bình thường.
Lối sống của Ngài phản ánh Tin Mừng Ngài rao giảng,
một Tin Mừng đem lại niềm vui và sự giải phóng.
Những bữa ăn trong đời Ngài đóng một vai trò quan trọng.
Ngài ngồi ăn với những người bị xã hội loại trừ như người thu thuế.
Ngài đón nhận vào bàn ăn cả những tội nhân cần tránh xa.
Chính trong bầu khí vui tươi, ấm áp của bữa ăn
mà họ cảm nhận được tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
Tiếc thay, Ngài cũng bị từ khước như Gioan,
bị coi là kẻ chỉ biết ăn với nhậu (c. 34).
Ngài đã không mang dáng dấp của một ẩn sĩ nơi hoang địa.
Ngài đã sống như một người bình thường, ăn uống bình thường.
Lối sống của Ngài phản ánh Tin Mừng Ngài rao giảng,
một Tin Mừng đem lại niềm vui và sự giải phóng.
Những bữa ăn trong đời Ngài đóng một vai trò quan trọng.
Ngài ngồi ăn với những người bị xã hội loại trừ như người thu thuế.
Ngài đón nhận vào bàn ăn cả những tội nhân cần tránh xa.
Chính trong bầu khí vui tươi, ấm áp của bữa ăn
mà họ cảm nhận được tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
Tiếc thay, Ngài cũng bị từ khước như Gioan,
bị coi là kẻ chỉ biết ăn với nhậu (c. 34).
Cả Gioan lẫn Đức Giêsu đều bó tay trước sự cố chấp của thế hệ này.
Cả hai người, với hai lối sống nghịch nhau, cũng không chiều được họ.
Khi sợ thay đổi chính mình, ai cũng có thể tìm ra được lý do để biện minh.
Khi cố chấp và ngụy biện để khỏi phải đối diện với chân lý,
con người chẳng được tự do.
Nguy cơ của con người mọi thời vẫn là ở lại trong tình trạng trẻ con ấu trĩ.
Làm sao để con người hôm nay có thể nghe được tiếng kêu của Gioan,
mời gọi người ta thay đổi cuộc sống bằng cách chia sẻ (Lc 3, 10-14)?
Làm sao thái độ bao dung của Đức Giêsu
ảnh hưởng trên một thế giới còn nhiều hận thù, chia rẽ, loại trừ nhau?
Cả hai người, với hai lối sống nghịch nhau, cũng không chiều được họ.
Khi sợ thay đổi chính mình, ai cũng có thể tìm ra được lý do để biện minh.
Khi cố chấp và ngụy biện để khỏi phải đối diện với chân lý,
con người chẳng được tự do.
Nguy cơ của con người mọi thời vẫn là ở lại trong tình trạng trẻ con ấu trĩ.
Làm sao để con người hôm nay có thể nghe được tiếng kêu của Gioan,
mời gọi người ta thay đổi cuộc sống bằng cách chia sẻ (Lc 3, 10-14)?
Làm sao thái độ bao dung của Đức Giêsu
ảnh hưởng trên một thế giới còn nhiều hận thù, chia rẽ, loại trừ nhau?
Lời nguyện:
Lạy Cha,
xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau
trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.
xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau
trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.
Xin cho chúng con đến với nhau
không chút thành kiến,
và tin tưởng vào thiện chí của nhau.
không chút thành kiến,
và tin tưởng vào thiện chí của nhau.
Khi cộng tác với nhau,
xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,
nhờ đó chúng con vượt qua
những tự ái nhỏ nhen,
những tham vọng ích kỷ
và những định kiến cằn cỗi.
xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,
nhờ đó chúng con vượt qua
những tự ái nhỏ nhen,
những tham vọng ích kỷ
và những định kiến cằn cỗi.
Ước gì chúng con dám từ bỏ mình,
để tìm kiếm chân lý
ở mọi nơi và mọi người,
nhất là nơi những ai khác quan điểm.
để tìm kiếm chân lý
ở mọi nơi và mọi người,
nhất là nơi những ai khác quan điểm.
Lạy Cha,
xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,
để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,
và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.
xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,
để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,
và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.
Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,
xin cho chúng con được triển nở không ngừng
và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.
xin cho chúng con được triển nở không ngừng
và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
19 THÁNG CHÍN
Thường Xuyên Lãnh
Nhận Các Bí Tích
Chương trình mục vụ mà
Hội Thánh đã triển khai kể từ sau Công Đồng cung ứng cho chúng ta những sự giúp
đỡ kịp thời để củng cố việc huấn luyện tu đức và canh tân tình yêu đối với con
người. Trước hết, tôi mời gọi anh chị em tham dự vào các nỗ lực phúc âm hoá mọi
người cho Đức Kitô và hướng dẫn các tín hữu sống đời sống bí tích. Sống đời sống
bí tích, đó là cách để anh chị em hiểu và đón nhận những ân sủng mà Đức Kitô muốn
thông ban cho anh chị em.
Bằng việc thường xuyên
lãnh nhận các bí tích với ý ngay lành, anh chị em sẽ trở thành những chứng nhân
dạt dào niềm vui trong đời sống Kitô hữu đích thực. Anh chị em sẽ tìm thấy sự đỡ
nâng mà mình cần để bước theo Chúa của sự sống. Ngài sẽ sử dụng anh chị em để mạc
khải cho con người của thời đại đầy xao xuyến này dung mạo đích thực của Thiên
Chúa, Đấng luôn “chan chứa lòng xót thương” (Ep 2,4).
Trong khi năng lãnh nhận
các bí tích, anh chị em cũng hãy cộng tác với các mục tử của mình, vì chính sự
hiệp nhất với các ngài là điều kiện để anh chị em nhận được tràn trào sức sống
của Chúa Thánh Thần. Nhờ vậy, các mục tử sẽ có thể hướng dẫn anh chị em trong
công cuộc xây dựng Hội Thánh trên trần gian này, một Hội Thánh đúng nghĩa là cộng
đoàn yêu thương, phản ảnh chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. (Thánh
Augustinô, De Trinitate, 4,9).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 19/9
Thánh Januariô,
giám mục tử đạo
1Cr 12,31-13,13; Lc
7, 31-35.
LỜI SUY NIỆM: “Ông Gioan Tẩy Giả
đến không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: “Ông ta bị quỷ ám” Con Người
đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo: “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè
với quân thu thuế và phường tội lỗi. Nhưng Đức Khôn Ngoan đã được tất cả biện
minh cho.”
Thiên Chúa ban cho con người có toàn quyền tự do từ trong tư tưởng cho đến hành
động, nên con người có thể đánh giá theo cách suy nghĩ của mình. Nhưng điều điều
quan trọng và cần thiết là phải dùng đến Đức Khôn Ngoan để biện minh cho tất cả
những gì nơi mình sẽ thể hiện.
Lạy Chúa Giêsu, Trong Sách Khôn Ngoan có dạy chúng con: “Hãy suy tưởng ngay
lành về Đức Chúa và thành tâm tìm kiếm Người. Ai không thách thức Người, thì được
Người cho gặp. Ai tin tưởng vào Người, sẽ được Người tỏ mình cho thấy.” (Kn
1,1b-2). Xin cho chúng con: đừng dùng những lý luận hẹp hòi, nông cạn của mình
mà phải lìa xa Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
NGÀY 19-09 THÁNH
GIANUARIÔ GIÁM MỤC, TỬ ĐẠO (THẾ KỶ IV)
Thánh Gianuariô danh
tiếng không vì cuộc sống hay cái chết của ngài mà chỉ vì việc máu Ngài được lưu
giữ tại Naples tan loãng định kỳ.
Câu chuyện Ngài chịu tử
đạo còn rất mù mờ vì không được kể từ sớm trong sách các vị tử đạo, mà có lẽ chỉ
được đưa vào đó do các tác phẩm của Bêđê viết năm 733. Người ta tin rằng: Ngài
là giám mục Bênêventô nước Ý, thời hoàng đế Diôclêtianô. Khi nghe 4 Kitô hữu bị
tống giam vì đức tin, Ngài đã tới thăm họ. Bọn người dò xét sau đó đã khám phá
ra và Ngài bị bắt giam. Những tường thuật về cái chết của Ngài không giống
nhau.
Xem như Ngài cùng các
bạn bị ném cho thú dữ xâu xé tại vận động trường Puzzuoli…. nhưng thú dữ đã
không xâm phạm tới các Ngài. Thánh nhân sau đó bị xử trảm vào năm 305. Thoạt đầu
thi thể Ngài được lưu giữ tại Bênêven tô, nhưng sau này vì sợ chiến tranh tàn
phá nên được dời về Monte Vergine và sau này về Naples. Dấu chứng đầu tiên về
Ngài dường như là của Uraniô (431) là người cho rằng: nhờ sự chuyển cầu của
Ngài mà núi lửa Vesuviô không phun nữa.
Tới thế kỷ XV những hiểu
biết trên là bối cảnh cho lòng sùng kính thánh nhân. Nhưng từ đó về sau, máu
Ngài được lưu giữ tại Naples đã làm tăng sự chú ý của rất nhiều người. Thánh
tích được chứa trong ống nghiệm có hình một chiếc bình và lại được đặt trong một
ống kính đặt trên giá trang hoàng lộng lẫy. Như vậy thánh tích được đặt trong
hai lớp kính và được gắn kín, không tiếp xúc với khí trời. Chính thánh tích là
một chất đen đục chiếm nửa bình đựng. Mỗi năm khoảng 18 lần được trưng bày cho
dân chúng, cùng với một thánh tích khác được coi là đầu của vị thánh tử đạo.
Sau một khoảng thời
gian thay đổi từ ít phút đến vài giờ, trong khi vị linh mục đảo ngược vài lần
bình đựng và cầu nguyện xin trời cao làm phép lạ, thì khối đặc tan loãng ra, đổi
thành mầu đỏ, thỉnh thoảng còn sôi lên và sủi bọt nữa. Rất nhiều người nghi ngờ
sự kiện này nhưng không có sự đồng nhất trong việc giải thích. Vấn đề chưa được
chứng minh.
(daminhvn.net)
19 Tháng Chín
Ôi Lạy Ðấng Tối Cao
Ðể nói lên tình yêu
vô biên và mầu nhiệm của Thiên Chúa, người Hồi Giáo thường kể câu chuyện sau
đây:
Một hôm, Ðấng Allah
cho gọi một thiên sứ đến và sai xuống trần gian. Ngài truyền lệnh cho vị thiến
sứ như sau: “Ngươi hãy xuống trần gian và đưa về đây người đàn bà góa có bốn đứa
con thơ”.
Vị thiên sứ ra đi.
Ngài gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài hết nhìn người
đàn bà với bốn đứa con dại, lại ngước mắt lên nhìn về Ðấng Allah như xin rút lại
lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm để tách biệt người mẹ với những đứa con
thơ còn lại… Nhưng ánh mắt van xin của vị sứ thần đã không mảy may đánh động được
Ðấng Allah. Cuối cùng, vị sứ thần đành phải vâng lệnh Ðấng Allah để cướp lấy
người đàn bà khỏi đám con thơ và đưa về trời.
Hoàn thành công
tác, nhưng xem chừng vị sứ thần không thể vui được. Vui thế nào được trước cảnh
chia cách giữa mẹ và con. Thấy vị sứ thần buồn bã, Ðấng Allah mới cho gọi ngài
lại và đưa ngài vào giữa sa mạc. Ðấng Allah chỉ cho vị sứ thần thấy một tảng đá
lớn và bảo ngài hãy đập vỡ nó ra…
Tảng đá vừa vỡ ra,
vị sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong đó, một con sâu nhỏ từ từ bò ra… Hiểu
được ý nghĩa của cử chỉ ấy, vị sứ thần thốt lên: “Ôi lạy Ðấng tối cao, màu nhiệm
thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự không ngoan thượng trí và tình yêu vô
biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật nhỏ bé như con sâu kia, thì hẳn Ngài
cũng sẽ không quên được bốn đứa bé mồ côi là con cái của Ngài”.
Ðâu là hình ảnh chúng
ta có về Chúa? Ngài là Thiên Chúa từ nhân, luôn tha thứ, Ngài là người Cha nhân
hậu luôn yêu thương săn sóc cho từng đứa con, hay trái lại, Ngài chỉ là một ông
thần độc ác mà vì sợ hãi chúng ta phải chạy đến để khỏi bị trừng phạt…?
Trở về với Thiên Chúa,
trước tiên là phải gạt bỏ ra khỏi tâm hồn chúng ta hình ảnh bất xứng mà chúng
ta gán cho Chúa. Hãy phục hồi lại trong tâm hồn chúng ta hình ảnh của một Thiên
Chúa mà Tin Mừng đã mạc khải cho chúng ta: đó là một người Cha luôn yêu thương
và không ngừng tha thứ cho chúng ta, một người Cha mà tình thương vượt hẳn những
tính toán cân lường của trí khôn loài người chúng ta…
Có những lúc chúng ta
cảm thấy tội lỗi đang đè nặng trong tâm tư ư? Hãy mau mắn chạy đến với Ngài.
Có những lúc đau khổ,
mất mát che phủ khiến chúng ta nghi ngờ tình yêu của Ngài ư? Hãy tin tưởng rằng,
Ngài đang nhìn thấy và cảm thông với từng nỗi khốn khổ của chúng ta và tình yêu
nhiệm màu của Ngài luôn nhào nặn để biến những đắng cay chua xót ấy thành ân
phúc cho chúng ta.
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét