Phân định trong đời
thường
Tác giả: Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Làm sao biết được ý Chúa? Đó là
câu hỏi mà nhiều bạn trẻ thường hỏi tôi. Thật ra câu hỏi này chẳng của riêng
ai. Câu hỏi này đi theo suốt đời con người, đặc biệt với những ai có tâm hồn
khao khát kết thân với Chúa. Chính điều này giúp người tín hữu tìm được ý nghĩa
đích thực của đời mình. Nếu không khao khát thì cần gì phải tìm kiếm ý Chúa. Ta
cứ làm theo điều ta nghĩ, điều ta thích, điều làm ta thấy thoải mái, dễ chịu là
được. Nhưng người đặt mình trong tương quan với Chúa không sống như vậy, không
coi mình là trung tâm, không muốn tự định đoạt đời mình. Họ biết mình là một thụ
tạo, và trên đầu mình còn có Đấng tạo ra mình. Họ muốn sống theo ý muốn của Đấng
ấy, không bị áp đặt như một nô lệ, nhưng hạnh phúc như một con người con. Chính
việc biết mình đã sống đúng theo ý của Đấng đã cho mình sống trên đời, đem lại
cho họ hạnh phúc và bình an.
Làm sao biết được ý của Thiên
Chúa? Thiên Chúa có thường giấu kỹ ý muốn của Ngài không? Hẳn là không rồi.
Thiên Chúa rất muốn bày tỏ ý của Ngài cho con người, cho từng người. Ngài muốn
mặc khải về kế hoạch riêng Ngài có với từng người chúng ta. John Powel viết một
câu rất ý nghĩa:
Thiên Chúa sai mỗi người đến
thế gian
với một sứ điệp để loan báo,
với một bài ca đặc biệt để hát lên,
với một nghĩa cử yêu thương để ban tặng.
với một sứ điệp để loan báo,
với một bài ca đặc biệt để hát lên,
với một nghĩa cử yêu thương để ban tặng.
Ai cũng có thể hát vang một bài
hát đặc biệt, không giống với những bài hát của người khác. Ai cũng có một sứ
điệp đặc biệt để loan báo, và một cách đặc biệt để thể hiện tình yêu. Chỉ mình
Thiên Chúa mới có thể làm cho những đặc biệt và dị biệt đó thành một bản giao
hưởng tuyệt vời của hơn 7 tỷ con người. Mỗi bạn trẻ cũng được mời gọi tìm ra
bài ca mà Thiên Chúa muốn mình hát bằng cuộc đời mình.
THIÊN CHÚA BÀY TỎ Ý MUỐN CỦA
NGÀI CHO CON NGƯỜI
Trong Cựu Ước có nhiều cách tìm
ý Chúa. Có thời người ta đi tìm ý Chúa bằng cách bốc thăm (x. Xh 28, 30). Saul
đã bốc thăm để xem ai là người có tội, một bên là ông và Gionathan con trai
ông, bên kia là dân Chúa (x. 1 Sm 14, 41). Saul còn bốc thăm lần nữa để biết giữa
ông và Gionathan, ai là người có tội (x. 1 Sm 14, 42). Việc bốc thăm để tìm ý
Chúa sau này bị mai một dần, tuy Tân Ước cũng có lần nói đến việc bốc thăm. Khi
các tông đồ tìm một người thay thế Giuđa, họ đã có hai ứng viên hội đủ mọi điều
kiện, đó là Giô-xếp và Mát-thia (Cv 1, 21-23). Biết chọn ai bây giờ? Các tông đồ
bèn cầu nguyện để xin Chúa cho biết thánh ý. Và họ đã muốn tìm ý Chúa qua việc
bốc thăm (x. Cv 1, 24-26). Ông Mát-thia là người trúng thăm để vào số Mười Hai
tông đồ.
Có khi con người không phải đi
tìm ý Thiên Chúa, mà chính Thiên Chúa đích thân đến với con người để bày tỏ ý định
của Ngài. Câu chuyện cậu Samuel được Chúa gọi ở đền thờ Si-lô là một thí dụ (1
Sm 3). Đức Chúa cao cả muốn gặp cậu vào ban đêm khi cậu đã yên giấc. Ngài gọi
tên cậu, và cậu đã nghe được tiếng ấy. Nhưng tiếng gọi của Chúa không khác với
tiếng của thầy cả Êli nên Samuel tưởng là thầy mình gọi. Mau mắn, kính trọng và
sẵn sàng, cậu đã chạy đến gặp thầy: Dạ con đây, thầy gọi con. Chúa đã gọi cậu lần
thứ hai, rồi lần thứ ba. Nhưng cậu vẫn chưa nhận ra tiếng Chúa, cậu vẫn tưởng
đó là tiếng thầy Êli. Nhưng khi Samuel đến gặp Êli lần thứ ba, thì thầy hiểu ra
là Samuel không nằm mơ, chính ĐỨC CHÚA gọi Samuel chứ không phải ai khác. Thầy
đã cho Samuel một lời khuyên tuyệt vời: Nếu có ai gọi con thì con thưa: Lạy ĐỨC
CHÚA, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe. ĐỨC CHÚA lại gọi tên Samuel
lần thứ tư, và gọi tên cậu hai lần (1 Sm 3, 10). Samuel đã nghe và đáp lại tiếng
gọi của ĐỨC CHÚA- Đấng cao cả trò chuyện với một cậu bé trong đêm tối. Samuel lớn
lên, được nuôi bằng những cuộc gặp gỡ như thế, và trở thành ngôn sứ của Chúa để
chuyển đạt ý Chúa cho dân.
Một câu chuyện khác cũng cho thấy
Thiên Chúa tỏ lộ ý định của Ngài cho một người, cả khi người ấy tin chắc là
mình đã tìm thấy rồi. Đó là trường hợp của ông Sao-lô (còn gọi là Sa-un hay
Phaolô) trên đường đi Đamát. Sao-lô coi những người Do-thái tin theo ông Giêsu
là những người chạy theo tà đạo. Ông đi Đamát để bắt những người ấy, trói lại
và giải về Giêrusalem (x. Cv 9, 1-2). Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra với ông.
Lập tức ông biết mình đã sai lầm và trở lại. Cuộc đời của ông lật sang một
trang mới. Từ một người bách hại Đạo, Sao-lô trở thành vị tông đồ nhiệt thành
rao truyền Đạo khắp mọi nơi.
Vào ngày 10-9-1946 trên chuyến
xe lửa đi từ Calcutta đến Darjeeling để làm tĩnh tâm năm, Mẹ Têrêsa đã nhận được
một tiếng gọi mới. Khi ấy Mẹ đã ở trong Dòng Loreto được gần 20 năm, đã khấn lần
cuối, đã làm hiệu trưởng một trường nữ sinh và được mọi người yêu mến vì thánh
thiện và tài năng. Theo lẽ tự nhiên thì cuộc đời Mẹ đã có bến đỗ. Nhưng ngày
hôm đó, một điều xảy ra mà Mẹ không sao giải thích nổi. Đó là cơn khát của Chúa
Giêsu xâm chiếm trái tim Mẹ: khát tình yêu và các linh hồn. Từ đó Mẹ thấy một ước
muốn mãnh liệt làm thỏa cơn khát của Chúa. Những ngày tháng sau đó, Chúa Giêsu
vẫn tiếp tục thổ lộ với Mẹ về khát khao của lòng mình, và nài xin: “Hãy đến làm
ánh sáng của Ta. Ta không thể đi một mình.” Ngài xin Mẹ lập một cộng đoàn
dòng tu để phục vụ những người nghèo nhất. Hai năm sau, Mẹ đã ra khỏi Dòng
Loreto để bước vào thế giới của người nghèo, trong chiếc áo sari trắng viền
xanh.
Thiên Chúa đã bày tỏ ý muốn của
Ngài cho Samuel, Sao-lê, Têrêsa và muôn vàn người khác trong dòng lịch sử. Ngài
trao cho họ một sứ mạng. Ngày nay nhiều bạn trẻ cũng có những kinh nghiệm tương
tự. Những kinh nghiệm đánh động trái tim họ và kéo họ đi, nâng họ lên một tầm
cao mới, mở ra một chân trời mới. Cuối cùng họ đã buông mình để theo một tiếng
gọi, hay đúng hơn theo một Đấng làm thay đổi hoàn toàn đời họ.
TẠI SAO PHẢI PHÂN ĐỊNH ĐỂ TÌM Ý
CHÚA?
Làm sao để tìm được chọn lựa tốt
nhất là ước mong của mọi người. Để làm điều đó cần biết phân định (discern,
discernment). Đức Thánh Cha Phanxicô đã muốn đưa thái độ phân định vào lối hành
xử của mọi kitô hữu. Người trẻ cũng cần tập phân định. Không phải chỉ phân định
trước những chọn lựa lớn như chọn bậc sống (đi tu hay lập gia đình) hay chọn
người bạn trăm năm, mà còn phải phân định trước những chọn lựa nho nhỏ hàng
ngày. Phân định trở thành một thói quen tự nhiên làm cho cả cuộc sống được thống
nhất theo một hướng.
Thiên Chúa không giấu ý muốn của
Ngài đối với ta, nhưng Ngài vẫn muốn chúng ta phân định để tìm ý Ngài như một cử
chỉ khiêm tốn của lòng kính trọng và yêu mến. Hơn nữa, tìm ý Chúa cũng là hành
vi mà chỉ con người có lý trí, ý chí và tự do mới làm được. Đó là một hành vi
nhân linh. Mỗi người phải tìm ý Chúa cho cuộc đời mình. Chẳng ai làm thay cho
mình được, vì trong từng hoàn cảnh, mỗi người có những câu hỏi rất riêng tư.
Hùng tự hỏi có nên vào chủng viện khi ở nhà chỉ có người mẹ già sống một mình
không? Hương sẽ chọn ai làm chồng, anh Thắng giàu có, đạo đức, nhưng không cùng
tôn giáo, còn anh Phúc thì nghèo hơn, ít đạo đức hơn, nhưng cùng tôn giáo và được
lòng mẹ của Hương? Phát được làm trong Ban giám hiệu của một trường quốc tế.
Anh suy nghĩ có nên tiếp tục làm việc ở trường này nữa không vì thấy nó quá chú
tâm vào lợi nhuận? Phát có nên ở lại trường với hy vọng từ từ mình có thể đổi
được hướng đi của trường? Duyên phải giúp cha mẹ nuôi các em. Cô tìm được một
chỗ làm lương cao để nuôi các em, nhưng cô lại không được nghỉ ngày Chúa nhật,
ít có giờ đi lễ hay tham gia một nhóm sống đạo. Duyên có nên tìm một việc khác
ít lương hơn nhưng có sự thảnh thơi hơn không?
Tìm ý Chúa không phải là chọn giữa
một điều tốt và một điều là tội. Thánh Inhaxiô Loyola nhắc chúng ta không được
phép chọn một điều xấu hay ngược với giáo lý của Hội Thánh (Linh Thao số 170).
Thí dụ không được lấy một người đã lập gia đình và vẫn đang sống với người phối
ngẫu; không được ly dị người bạn đời của mình để lấy người khác; không được phá
thai…Tìm ý Chúa là tìm xem Chúa muốn tôi làm điều nào giữa hai (hay nhiều điều)
được phép làm. Giữa hai điều tốt, tôi chọn điều tốt hơn mà tôi biết mình có thể
làm được nhờ ơn Chúa.
Ngay cả khi đã biết ý Chúa,
chúng ta cũng sẽ phải trả lời nhiều câu hỏi cụ thể hơn. Thí dụ, bác sĩ Phong mới
ra trường, phải suy nghĩ xem Chúa muốn mình phục vụ ở vùng quê hay ở thành phố.
Nếu về vùng quê thì có nhiều cơ hội giúp người nghèo, nhưng đời sống vật chất của
mình và sự thăng tiến trong nghề sẽ ra sao?
Một bạn trẻ quyết định đi Mùa Hè
Xanh cũng phải phân định để tìm ý Chúa. Nên đi khi nào? địa điểm nào cần sự hiện
diện của tôi hơn? tôi sẽ làm gì khi đến đó? tôi sẽ ở đó bao lâu? Có câu trả lời
chỉ tìm ra được khi đến nơi mình phục vụ. Ánh sáng của Chúa đến với tôi qua thực
tế tôi đang trải nghiệm. Nếu tôi còn nhiều môn phải thi lại hay tôi còn phải
hoàn tất bài luận văn ra trường, thì năm nay tôi có nên đi Mùa Hè Xanh, hay chỉ
đi một tuần thôi?
Nói chung, hàng ngày ai cũng phải
đối diện với những chọn lựa. Trước đây, trên đường lên Đà Lạt, có ngôi nhà thờ
căng một tấm bảng lớn có ghi câu: Sống là Chọn. Mà chọn thì phải bỏ. Bỏ nhiều
khi làm tôi thấy mình bị giằng co, xâu xé, tiếc nuối, đau đớn. Tôi không thể
nào chọn mọi sự, vì tôi không thể nào làm hết mọi sự, dù lòng tôi có tốt đến
đâu. Tôi không thể vừa muốn đi tu, vừa muốn tiếp tục nuôi dưỡng mối tình với
người ấy. Tôi không thể lập gia đình với hai người, dù tôi đã có nhiều kỷ niệm
với cả hai, dù mỗi người đều có những nét riêng làm tôi ngưỡng mộ. Chấp nhận chọn
là chấp nhận có thể bị tổn thương, ít là lúc đầu. Không muốn chịu tổn thương
thì cũng không chạm đến chọn lựa một cách triệt để.
Thường thường người ta chọn lựa
dựa theo cái tôi của mình. Cái tôi của tôi là trung tâm. Tôi chọn điều tôi
thích. Tôi chọn điều đem lại cái lợi cho tôi: tiếng tăm, tiền bạc, khoái lạc,
quyền lực…Tôi chọn điều đem lại cái lợi cho đất nước tôi, cho gia đình tôi, cho
những người thân của tôi, cho tổ chức hay nhóm của tôi, dù cái lợi ấy gây hại
cho nước khác hay người khác. Khi đọc báo hàng ngày, chúng ta thấy nhiều người
đã chọn theo kiểu ấy, vì thế biết bao thảm kịch đã xảy ra khắp nơi trên toàn cầu:
chiến tranh, xung đột, giết chóc, bất công, tham nhũng, dối trá, bóc lột, áp bức,
kỳ thị, hố sâu giữa người giàu người nghèo… Mọi nỗi khổ đau của nhân loại đến từ
những chọn lựa quy về cái tôi và những gì là của tôi. Khi cái tôi trở thành
tiêu chuẩn để chọn lựa, thì tôi không thể nghĩ đến người khác, không thể tôn trọng
quyền lợi của họ.
Như thế để làm một lựa chọn đúng
đắn, tôi phải được giải phóng khỏi cái tôi ích kỷ. Tôi không bị nô lệ cho cái
tôi đầy thèm muốn chiếm đoạt của mình. Dĩ nhiên là tôi phải yêu tôi, nhưng tôi
lại không phải là trung tâm để mọi sự, mọi người phải quy hướng vào đó. Trung
tâm của tôi phải ở ngoài tôi, phải ở trên tôi. Đối với một kitô hữu, trung tâm
của tôi là Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, nhờ Đấng ấy mà tôi hiện hữu trên đời này.
Mọi chọn lựa của tôi phải quy về Đấng ấy.
Các nhà luân lý nói đến việc mỗi
người cần xác định đâu là lựa chọn căn bản của đời mình (fundamental option).
Tôi chọn tôi hay chọn Thiên Chúa? Tôi chọn tôi hay chọn tha nhân? Lựa chọn căn
bản này sẽ chi phối mọi lựa chọn nhỏ khác của đời tôi.
BÌNH TÂM TRƯỚC MỌI THỤ TẠO LÀ ĐIỀU
KIỆN ĐỂ PHÂN ĐỊNH
Trong sách Linh Thao, thánh
Inhaxiô nói đến mục đích của đời người: “Con người được dựng nên để ngợi khen,
tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, và nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình” (LT 23).
Thánh nhân coi đây là Nền Tảng chi phối mọi chọn lựa. Mọi chọn lựa của tôi đều
phải hướng đến mục đích này, nghĩa là hướng đến việc tôn vinh Thiên Chúa là Đấng
đã dựng nên tôi và tiếp tục cho tôi sống trên đời. Tôi không được quên thân phận
thụ tạo của mình trước Đấng Tạo Hóa.
Hơn nữa, Thiên Chúa còn muốn tôi
được cứu rỗi, nghĩa là được sống mãi mãi bên Ngài ở đời sau. Cuộc đời tôi đâu
chỉ kéo dài một số năm tháng ở đời này, nhưng sau cái chết, nó kéo dài đến vĩnh
cửu. Trần gian này dù có giá trị cao quý, nhưng nó vẫn chỉ là nơi tôi dựng lều
tạm trú. Hạnh phúc và nước mắt ở đời này chưa phải là tuyệt đối, chưa phải là
chung cục. Tôi cần tìm một thứ hạnh phúc vững bền, trọn vẹn. Chính vì thế mỗi
chọn lựa của tôi ở đời này phải được cân nhắc đắn đo, bởi lẽ tôi dễ bị cám dỗ bởi
những vẻ đẹp gần bên của cái vô thường mà hững hờ với hạnh phúc tuyệt vời nơi
thế giới của Thiên Chúa.
Trước khi phân định và chọn lựa,
tôi phải biết tôi từ đâu đến và tôi sẽ đi đâu. Tôi là thụ tạo đến từ Thiên Chúa
và tôi đang trên đường về với thế giới vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Để giúp tôi đạt được mục đích
trên của đời người, Thiên Chúa còn ban cho tôi những thụ tạo tốt đẹp khác.
Chúng cũng là thụ tạo như tôi, và Chúa cho tôi có quyền sử dụng chúng để tôn
vinh Chúa. Sử dụng là thế này: nếu chúng giúp tôi nhiều, tôi sẽ dùng nhiều; nếu
chúng cản trở tôi, tôi phải loại bỏ. Tôi không được đặt thụ tạo lên trên Thiên
Chúa, là Đấng tác sinh mọi loài thụ tạo. Vì mọi thụ tạo chỉ là phương thế để
giúp tôi phụng sự Thiên Chúa, nên tôi cần có thái độ siêu thoát và tự do đối với
chúng. Thái độ siêu thoát được thánh Inhaxiô gọi là bình tâm (indifference).
Bình tâm ở đây không có nghĩa là bình tĩnh, hay giữ cái đầu lạnh như từ điển
quen hiểu. Bình tâm là tạm thời không nghiêng về một thụ tạo nào, để rồi sau
khi đã tìm kiếm và tìm thấy ý Chúa, thì nghiêng về điều Chúa muốn.
Ở thành phố Pisa nước Ý, có một
tháp chuông khá đẹp, nhưng lại nghiêng ngay từ lúc mới xây. Tháp này đã nghiêng
4 độ, và càng lúc càng nghiêng hơn nên có nguy cơ sụp đổ. Các kỹ sư đã phải suy
nghĩ nhiều để tìm ra cách giữ cho nó đừng nghiêng thêm. Giải pháp đưa ra là di
dời các chuông của tháp cho nhẹ bớt, và rút bớt đất dưới một phần nền của tháp
để tạo lại sự cân bằng. Tháp nghiêng Pisa có thể là một hình ảnh tượng trưng
cho mỗi người chúng ta. Chúng ta thường ở tư thế nghiêng, và càng lúc càng
nghiêng hơn. Trước khi quyết định một điều gì, ta thường thấy mình đã nghiêng về
một giải pháp rồi. Trước khi suy nghĩ chọn lựa, ta đã thấy mình đã chọn xong rồi.
Có khi phân định hay tìm ý Chúa chỉ là hợp lý hóa điều mình đã chọn. Làm cho
tháp Pisa đừng nghiêng là chuyện khiến các kỹ sư đau đầu, nhưng làm cho chúng
ta đừng nghiêng để hoàn toàn tự do chọn điều Chúa muốn, điều đó khó hơn nhiều.
Phải công nhận là có nhiều thụ tạo
làm chúng ta nghiêng. Người ta nói sức khỏe là tài sản vô giá. Ai cũng sợ bị
đau bịnh, ai cũng muốn mình khỏe mạnh từ đầu đến chân. Ngoài sống khỏe, người
ta còn muốn sống lâu. Tuổi thọ được coi là một hồng phúc trời ban, nhất là vào
thời mà người ta chưa tin có sự sống lại của thân xác. Sống lâu, vui hưởng tuổi
già bên đàn con cháu: đó là ước mơ của nhiều bậc lão thành. Ngoài sống khỏe và
sống lâu thì giàu sang, tiền bạc, của cải là những thứ khiến nhiều người mê đắm,
đến nỗi đánh mất cả nhân phẩm của mình và xúc phạm đến nhân phẩm người khác. Đức
Giêsu có lý khi nói: Không ai có thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của
được (Mt 6, 24). Tiền Của là điều con người thường muốn làm tôi cho nó, vì có
nó thì mới làm chủ những thứ khác được. Khi có tiền, con người lại muốn có danh
dự, danh tiếng, danh giá, danh vọng… Sống như người vô danh là điều hầu như chẳng
ai muốn. Hơn nữa, đối với một số dân tộc phương Đông, chịu ô nhục là điều không
thể chấp nhận được và phải tránh bằng mọi giá, kể cả giá máu.
Bạn trẻ hôm nay nghiêng về thụ tạo
nào? Họ có mê tiền, mê tiếng không? Họ có quan tâm đến số likes, số followers của
mình trên mạng xã hội không? Họ có mong làm giàu bằng cách khởi nghiệp không? Họ
có bị thu hút bởi những thần tượng thể thao hay showbiz không? Bạn trẻ hôm nay
có thể bị nghiêng ngả bởi ma túy và ăn chơi trụy lạc, bởi những thứ khoái lạc mới
mẻ và hấp dẫn mà chỉ thời nay mới có. Khi bị nghiêng như vậy, tôi khó lòng phân
định xem đâu là con đường Chúa muốn mình đi. “Tôi chọn Giêsu là nắng, tôi chọn
Giêsu là mưa…” là một câu dễ hát nhưng không dễ sống. Câu hỏi bây giờ là: làm
sao để tôi không nghiêng nữa, nhưng đứng thẳng lên được. Nhờ thế tôi mới
có thể chọn Giêsu.
Câu chuyện của người phụ nữ còng
lưng trong Phúc âm Luca nói với chúng ta về cách bà đứng thẳng lên được dù lưng
đã còng 18 năm. Trước hết là sự bất lực hoàn toàn của bà: “lưng bà còng hẳn xuống
và bà không thể nào đứng thẳng lên được” (Lc 13, 11), dù rất muốn. Đức Giêsu chỉ
nói một câu: “Bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền”, và làm một cử chỉ: “Ngài
đặt tay trên bà, lập tức bà đứng thẳng lên được” (Lc 13, 12-13). Chúng ta ít
nhiều đều ở tư thế còng lưng, mặt cúi xuống đất, chỉ nhìn thấy một miếng đất
nho nhỏ trước mặt, khó ngửa mặt nhìn trời. Chúng ta ít nhiều bị trói buộc, buộc
bằng dây hay bằng xiềng xích (x. Lc 13, 15-16). Chúng ta không tự cởi trói được,
không tự giải thoát cho mình được, không tự đứng thẳng được. Đức Giêsu chữa cho
người phụ nữ còng lưng dù bà không yêu cầu. Ngài chính là Đấng làm chúng ta được
đứng thẳng như một người thật sự tự do. Tư thế đứng thẳng tượng trưng cho thái
độ bình tâm, siêu thoát, không nghiêng về thụ tạo nào.
MAGIS: HƠN NỮA !
Trước khi chọn lựa, ta phải đặt
Thiên Chúa lên trên hết và trước hết. Mọi thụ tạo phải được đặt dưới Ngài và đặt
sau Ngài. Đức Giêsu, Thiên Chúa Con làm người, cũng đã đòi các môn đệ phải đặt
Ngài lên trên mọi thứ của cải trần gian và mọi liên hệ máu mủ ruột thịt: “Nếu
ai đến với tôi mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống
mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26). Ngài còn nói: “Ai trong
anh em không từ bỏ tất cả những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”
(Lc 14, 33). Như thế chọn làm môn đệ Giêsu đòi ta phải đặt Ngài lên trên những
giá trị được người đời coi trọng. Khi dặn các môn đệ đừng lo về đời sống vật chất
như chuyện ăn mặc, Đức Giêsu khuyên họ: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa
và đức công chính của Người, còn mọi sự khác, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 33). Vậy
tìm kiếm Nước Thiên Chúa hay tìm chính Thiên Chúa là ưu tiên một, vượt trên mọi
ưu tiên khác.
Một chọn lựa được coi là nghiêm
túc khi nó hoàn toàn quy hướng về vinh quang Thiên Chúa. Đừng sợ con người sẽ bị
chèn ép hay bị tha hóa nếu nó chỉ nhắm đến vinh quang Thiên Chúa. Vinh quang
Thiên Chúa chẳng bao giờ đè bẹp con người. Trái lại, như Đức Giêsu nói: “điều
làm Chúa Cha được vinh quang là anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ
của Thầy” (Ga 15, 8). Thánh Irênê viết một câu bất hủ: “Vinh quang của Thiên
Chúa là con người được sống và sự sống của con người là được nhìn thấy Thiên
Chúa” (Gloria enim Dei homo vivens, vita autem hominis visio Dei). Chẳng có gì
mâu thuẫn giữa vinh quang Thiên Chúa và sự triển nở của con người. Hoa hướng
dương tỏa sáng khi quay về mặt trời.
Khi phải phân định để chọn lựa,
chúng ta có thể có trước mặt nhiều giải pháp tốt. Giải pháp tốt hơn là giải
pháp dẫn đưa chúng ta đến với mục đích của đời mình HƠN (Linh Thao 23) và vinh
danh Thiên Chúa HƠN. Chính tình yêu mãnh liệt đối với Thiên Chúa khiến chúng ta
không bằng lòng với việc chọn những điều “thường thường bậc trung.” “Ngươi phải
yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi với tất cả trái tim ngươi” (x. Đnl 6,
4). Khi yêu với tất cả trái tim, người ta không bao giờ coi là đủ. Chữ HƠN đưa
ta đi vào một chuyển động tìm kiếm và nhận định để khám phá ra điều Chúa muốn
tôi làm Ở ĐÂY VÀ BÂY GIỜ. Điều hôm qua là HƠN, thì hôm nay có thể phải điều chỉnh
lại. Phải tìm ra cái HƠN cho hôm nay, cho giây phút này. Phải làm sao để việc
phục vụ của tôi đến với nhiều người hơn, hay đến với những người đang có nhu cầu
cấp bách hơn. Một linh mục được ơn giảng thuyết, có thể đưa bài giảng của mình
lên trang web thay vì chỉ dành cho một nhóm người nghe trong Thánh Lễ. Cha
Mateo Ricci, SJ, khi đến Trung-hoa (1583) đã cạo đầu và ăn mặc như một vị sư Phật
giáo để được phép ở lại đó. Nhưng sau khi thông thạo tiếng Quan thoại và văn
hóa Trung-hoa, ngài phân định và thấy để truyền giáo tốt hơn thì nên ăn mặc như
một văn nhân (literati) của Khổng giáo. Từ đó (1595) ngài để râu tóc trở lại, mặc
áo lụa, và đầu đội một cái mũ sang trọng như mũ giám mục!
Thánh Phanxicô Xavier là người
đã sống tinh thần của chữ HƠN. Ngài đã bỏ quê hương Tây-ban-nha để đi truyền
giáo ở Ấn-độ (năm 1541). Nhưng không chỉ ngừng lại thành phố Goa, ngài còn đi
qua các đảo thuộc Mã-lai bây giờ. Ở Mã-lai, ngài gặp một người Nhật, rửa tội
cho anh, và bị lôi cuốn bởi lời giới thiệu của anh về một nước Nhật đẹp đẽ văn
minh. Thế là ngài lên đường đi truyền giáo ở Nhật và khá thành công. Nhưng lòng
của ngài không dừng lại đó. Khi biết người Nhật rất nể phục sự khôn ngoan của
người Trung-hoa, ngài thấy muốn truyền giáo cho người Nhật có kết quả hơn thì
phải truyền giáo cho người Trung-hoa trước. Thế là ngài nuôi mộng vào đất
Trung-hoa, dù hoàng đế Trung-hoa thời ấy ra lệnh bắt giết những ai vào nước
truyền đạo. Phanxicô Xavier đã chết vì kiệt sức trên đảo Thượng Xuyên cách
Trung-hoa 14 km (năm 1552). Mắt ngài vẫn hướng về đất Trung-hoa, lòng ngài vẫn
muốn làm điều HƠN.
PHẢI LÀM GÌ ĐỂ PHÂN ĐỊNH VÀ CHỌN
ĐÚNG Ý CHÚA
- Một người sạch tội trọng, có tương quan thân thiết với Thiên
Chúa, người ấy sẽ sáng suốt hơn và dễ tìm thấy ý Chúa hơn. “Phúc cho ai có
trái tim trong sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8), ta có thể
thêm, thấy ý của Thiên Chúa.
- Một người có tinh thần bình tâm, siêu thoát trước những thụ tạo,
không bị những thèm muốn lệch lạc lôi kéo, người ấy dễ gặp thấy ý Chúa
hơn.
- Một người có lòng yêu mến Chúa và tha nhân, không coi mình là
trung tâm, nhưng luôn tìm kiếm vinh quang lớn hơn cho Thiên Chúa, người ấy
sẽ dễ tìm ra ý Chúa hơn. Thánh vịnh nói rõ:
Phàm ai kính sợ Chúa
Người chỉ cho thấy đường phải chọn
(Tv 24, 12).
Sau đây là 5 bước cho một cuộc
phân định bình thường.
1.
Trước khi lựa chọn,
cần nắm vững mục đích của đời mình, đó là ngợi khen Thiên Chúa và cứu rỗi linh
hồn mình. Cần có thái độ bình tâm, nghĩa là không để mình bị chi phối bởi tình
cảm thích hay không thích điều này điều nọ, “giữ mình ở giữa như cái kim của
bàn cân, để nghiêng theo điều tôi cảm thấy làm vinh danh, ngợi khen Chúa và cứu
rỗi linh hồn tôi hơn” (Linh Thao 179).
2.
Kế đến phải cầu nguyện,
nghĩa là tha thiết xin Chúa tỏ cho biết Ngài muốn mình làm gì trong hoàn cảnh
hiện tại. Xin Ngài đánh động tâm hồn và soi sáng trí khôn để mình nhận ra.
3.
Suy xét những cái lợi
và hại của từng giải pháp chọn lựa. Đây không phải là lợi hay hại về mặt vật chất,
nhưng là xem nó lợi hay hại cho mục đích tối quan trọng của đời mình, đó là tôn
vinh Thiên Chúa và cứu rỗi linh hồn mình.
4.
Sau khi suy xét, hãy
xem lý trí nghiêng về phía nào hơn, từ đó mới đưa ra quyết định chọn lựa.
5.
Chọn lựa xong thì đi
cầu nguyện, dâng lên Chúa chọn lựa của mình, để xin Ngài vui nhận và xác chuẩn
chọn lựa đó nếu nó thực sự tôn vinh Ngài hơn.
Cũng có 3 cách để phân định và chọn lựa dựa trên trí tưởng tượng, khi tôi đặt
mình trong những tình huống đặc biệt. Chính những tình huống này khiến tôi chọn
lựa nghiêm túc hơn.
(a) Tôi tưởng tượng tôi gặp một
người ở trong hoàn cảnh y hệt như tôi, và đang tìm ý Chúa, tôi sẽ khuyên người ấy
chọn giải pháp nào?
(b) Tôi tưởng tượng mình
đang trong giờ nguy tử, tôi sẽ chọn giải pháp nào?
(c) Tôi tưởng tượng mình
đang ở trong ngày phán xét, tôi sẽ chọn giải pháp nào?
Một bạn trẻ chưa có nhiều kinh
nghiệm thì nên tham vấn một vị linh hướng khôn ngoan khi phải làm một chọn lựa
quan trọng. Kết hôn với một người được coi là lựa chọn quan trọng, vì không thể
đổi được nữa. Cần khôn ngoan để nhận ra cái bẫy khéo léo của ma quỷ đội lốt
thiên thần (2 Cr 11, 14; Cn 14, 12). Thánh Inhaxiô khi còn là sinh viên ở
Barcelona đã có kinh nghiệm này. Đó là cứ khi bắt đầu học thuộc lòng các bài
văn phạm thì ngài lại thấy trong đầu xuất hiện những tư tưởng mới mẻ về những
chuyện thiêng liêng khiến ngài mê mẩn không sao học thuộc được. Ngài đã cố tống
chúng đi, nhưng vô ích. Lấy làm lạ trước hiện tượng này, – vì ngay cả khi cầu
nguyện hay dự thánh lễ, ngài cũng chẳng bao giờ sốt sắng đến thế, – Inhaxiô dần
dần nhận ra đây là một cơn cám dỗ tinh vi. Ngài đã đi gặp giáo sư để xưng thú mọi
chuyện và hứa từ nay sẽ học tử tế (Tự thuật 55).
Khi ta chọn lựa đúng ý Chúa thì
thường cảm thấy hạnh phúc và bình an, dù vẫn phải chịu nhiều hy sinh, đau khổ.
Làm ngược ý Chúa sẽ đem lại nỗi buồn phiền mà anh thanh niên giàu có cảm nghiệm
khi anh từ chối lời mời của Chúa (Mt 19, 20-22). Một mặt, anh thanh niên muốn
có sự sống đời đời, mặt khác anh lại không đủ can đảm để rũ bỏ tài sản đời này.
Lòng gắn bó với của cải khiến anh không đáp lại được lời mời của Thầy Giêsu:
“Hãy đi bán tài sản của anh cho người nghèo…rồi hãy đến theo tôi.” Anh đã bỏ
đi, buồn rầu, nhưng có khi nào anh muốn trở lại với Thầy Giêsu không?
Phân định để tìm ý Chúa là việc
làm hàng ngày và kéo dài suốt đời. Từ từ, ta sẽ nhạy bén để nhận ra ý Chúa
xuyên qua những biến cố nhỏ mọn. Nhưng chúng ta vẫn phải chấp nhận có những khoảng
thời gian dài chúng ta lần mò trong bóng tối. Lời nguyện sau của Chân phước
John Henry Newman là một nâng đỡ cho ta trong lúc khó khăn đó.
Lạy Chúa là Ánh sáng thân
thương,
giữa những bủa vây của u sầu
ảm đạm, xin Chúa dẫn con đi.
Đêm thì tối, đường còn xa, xin
giữ bước chân con.
Con đâu dám xin thấy tương lai
xa xôi,
Chỉ thấy một bước trước mặt cũng
đủ rồi.
Chưa bao giờ con như bây giờ,
Cũng chưa bao giờ con xin Chúa dẫn
dắt.
Con đã quen tự chọn và thấy con
đường của mình.
Nhưng giờ đây, xin Chúa dẫn con
đi.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét