04/10/2018
Thứ năm đầu tháng, tuần 26 thường niên
Thánh Phanxicô Assisi.
Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh năm 1182 tại Assisi. Từ ngày trở lại, gặp Chúa
Kitô ở nhà thờ thánh Đa-mi-a-nô cho tới ngày từ trần ở Poóc-ti-un-cu-la (1226),
thánh nhân -con người được mệnh danh là Người Nghèo thành Assisi- cùng với các
anh em tu sĩ của mình sống nghèo khó, rảo khắp nơi loan báo tình yêu của Thiên
Chúa. Người cũng đặt nền tảng cho ngành nữ đan sĩ của Dòng và huynh đoàn giáo dân
hãm mình. Người còn tha thiết với việc giảng thuyết cho những người chưa tin.
Suốt đời, thánh nhân không có bận tâm nào khác ngoài mối bận tâm theo Đức Giêsu
trong tinh thần vui tươi, đơn sơ, tha thiết phục vụ Hội Thánh và dịu dàng yêu
thương mọi người.
BÀI ĐỌC I: G 19, 21-27
“Tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc
tôi hằng sống”.
Trích sách ông
Gióp.
Ông Gióp nói: “Hỡi các
bạn hữu của tôi, ít ra các anh cũng thương xót tôi, thương xót tôi, vì tay Chúa
chạm đến tôi. Tại sao các anh như Thiên Chúa bắt bớ hành hạ tôi vậy, và tại sao
các anh no chán thịt tôi? Có ai ghi chép giùm lời tôi, có ai viết nó vào sách,
dùng bút sắt ghi trên lá chì, hay dùng đục chạm vào đá?
“Vì tôi biết rằng Đấng
Cứu Chuộc tôi hằng sống và ngày sau hết tôi sẽ từ bụi đất sống lại, da sẽ bọc lại
thân tôi, và trong xác thịt, tôi sẽ nhìn thấy Thiên Chúa tôi. Chính tôi sẽ nhìn
thấy Người và mắt tôi sẽ trông thấy, chớ không phải ai khác: niềm hy vọng ấy đã
chất chứa trong lòng tôi”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 26, 7-8a.
8b-9abc. 13-14
Đáp: Tôi tin rằng
tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh (c. 13).
Xướng: 1) Lạy Chúa,
xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Về Chúa, lòng con tự
nhắc lời: “Hãy tìm ra mắt Chúa”. – Đáp.
2) Và lạy Chúa, con
tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài
trong thịnh nộ, Chúa là Đấng phù trợ con, xin đừng hất hủi con. – Đáp.
3) Tôi tin rằng tôi sẽ
được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy
sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa. – Đáp.
ALLELUIA: 1 Pr 1, 25
Alleluia, alleluia!
– Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. –
Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 10, 1-12
“Sự bằng an của các con sẽ đến
trên người ấy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa chọn thêm
bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các
thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: “Lúa chín đầy đồng
mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người.
Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng
mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà
nào, trước tiên các con hãy nói: ‘Bình an cho nhà này’. Nếu ở đấy có con cái sự
bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình
an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có,
vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
“Khi vào thành nào mà
người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các
bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: ‘Nước Thiên Chúa đã đến gần các
ngươi’. Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa
các phố chợ và nói: ‘Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi,
chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều
này: Nước Thiên Chúa đã đến gần’. Thầy bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được
xử khoan dung hơn thành này”. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Tinh Thần
Nghèo Khó Ðích Thực
Có một nhà hiền triết
đến nghỉ hè tại một thành phố nọ; ông vua của đô thị này thường tự hào mình là
người giàu có nhất trần gian. Vốn là người siêu thoát mọi của cải trần thế, nhà
hiền triết quyết định đến gặp cho được con người khoe khoang này. Khi nhà hiền
triết vừa đến cung điện, nhà vua liền đưa ông đi một vòng và cho ông thấy tất cả
sự giàu sang của mình. Nhà vua hỏi một cách huênh hoang:
Nhà ngươi nghĩ gì về
tất cả sự giàu có của ta?
Nhà hiền triết cúi
đầu giữ im lặng. Nhà vua lại hỏi tiếp:
Theo nhà ngươi, thì
ai là người hạnh phúc nhất trần gian này?
Nhà hiền triết suy
nghĩ một lúc rồi kể tên của những người Hy lạp mà có lẽ không ai biết đến, kể cả
nhà vua. Nhận ra thái độ khiêu khích của nhà hiền triết, nhà vua liền nổi giận;
ông yêu cầu nhà hiền triết phải giải thích ngay về thái độ ấy. Lúc bấy giờ, nhà
hiền triết mới thong thả nói:
Thưa ngài, không ai
có thể được xem là hạnh phúc, khi trái tim người đó còn gắn bó với của cải vật
chất. Ðiều này cũng giống như một cuộc hôn phối, của cải vật chất qua đi, người
có của sẽ thành một người góa, mà người góa thì đương nhiên sẽ khóc lóc; hoặc
giả như người có của cải qua đi, người đó cũng chẳng mang theo được một đồng xu
nào, lúc đó cũng chỉ có khóc lóc mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc
nhớ chúng ta về tinh thần nghèo khó đích thực. Cuộc sống nghèo khó của Chúa
Giêsu là một chọn lựa: Ngài đã chọn sinh ra trong nghèo khó; Ngài đã lớn lên
trong khó nghèo; và trong ba năm sống công khai, Ngài đã chọn lựa nếp sống
nghèo khó. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Nước Trời, Ngài cũng đã khuyến dụ
các ông hãy sống khó nghèo. Ra đi hai tay không, người ta tiếp đón thì ở lại,
người ta không niềm nở thì ra đi, giũ bỏ lại mọi thứ bụi trần, đó là hình ảnh của
sự siêu thoát mà Chúa Giêsu luôn đòi hỏi ở những môn đệ của Ngài. Ðây không chỉ
là điều kiện của những người môn đệ, những nhà truyền giáo hay các tu sĩ: nghèo
khó là đồng phục của mọi người mang danh hiệu Kitô. Nghèo khó là bộ mặt đích thực
của các nghĩa tử của Thiên Chúa, họ phải giũ bỏ tất cả để mặc lấy phẩm giá của
những con người được tái sinh.
Trong thực tế, người
Kitô hữu phải sống thế nào mới gọi là nghèo khó? Ðó là thắc mắc mà trong xã hội
nào, ở thời đại nào, các Kitô hữu cũng có thể nêu lên. Phải chăng sống nghèo
khó, họ phải từ bỏ mọi thứ của cải trần thế? Phải chăng về lý tưởng nghèo khó,
Kitô giáo chủ trương bần cùng hóa xã hội? Thực tế, nghèo không hề mâu thuẫn với
sự phát triển hay làm giầu tài nguyên vốn có trong thiên nhiên mà Kitô giáo
luôn cổ võ và nâng đỡ. Kitô giáo vốn là sức mạnh tiên phong trong việc khai hóa
và mở mang vào thời Trung Cổ tại Âu Châu; những khám phá khoa học và tiến bộ kỹ
thuật ở khởi đầu đều phát xuất từ Kitô giáo, như vậy, phát triển hay làm giầu
không hề mâu thuẫn với Tin Mừng.
Thế nhưng, làm thế nào
để sống tinh thần nghèo khó theo Tin Mừng? Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta
thấy rằng tự nó, của cải vật chất không đương nhiên đem lại hạnh phúc cho con
người, trái lại nó luôn có nguy cơ tha hóa và nô lệ hóa con người. Của cải vật
chất vốn dễ làm cho con người trở nên mù quáng đối với bản thân cũng như trong
quan hệ với tha nhân; và khi đã trở thành mù quáng, con người tôn của cải vật
chất lên làm cứu cánh và tự giam mình trong vỏ ích kỷ. Như vậy, có tinh thần
nghèo khó đích thực có nghĩa là luôn biết giữ khoảng cách đối với của cải vật
chất, biết sử dụng nó như phương thế để tìm kiếm và xây dựng những giá trị Nước
Trời, như công bằng, bác ái, liên đới. Một cách cụ thể, có tinh thần nghèo khó
đích thực là biết mưu cầu cho công ích, biết san sẻ với người túng thiếu, biết
làm ra của cải, nhưng không thuộc về của cải.
Hơn bao giờ hết, người
Kitô hữu chúng ta phải không ngừng suy nghĩ về ý nghĩa của tinh thần nghèo khó.
Túng thiếu, nghèo đói, mà vẫn tin tưởng cậy trông và giữ bàn tay thanh sạch, chứ
không bán đứng lương tâm để làm điều gian ác; may mắn hơn người khác vì được thịnh
vượng, giầu có, mà vẫn biết mở rộng trái tim và bàn tay để chia sẻ cho người
nghèo khó, đó là thể hiện của tinh thần nghèo khó đích thực. Trong một xã hội của
chụp giựt và xâu xé lẫn nhau, một cuộc sống như thế chắc chắn là một chứng tá
cao độ cho Nước Trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Kính Thánh Phanxicô Khó Khăn
Bài đọc: Gal
6:14-18, Psa 16; Mt 11:25-30
1. CHỦ ĐỀ: Không có gì quí hơn là Thập
Giá của Đức Kitô.
Thánh Phanxicô là con của một thương gia rất giàu có tại Assisi. Cha của ngài
là người buôn tơ lụa và muốn ngài nối tiếp sự nghiệp của ông; nhưng Phanxicô được
Chúa soi sáng đã sớm nhận ra sự phù hoa của giàu có bằng cách giúp ngài hiểu thấu
đáo về mầu nhiệm Thập Giá. Đức Kitô là Thiên Chúa, Ngài có tất cả mọi sự trên
trời dưới đất; nhưng đã tự huỷ mình ra không để gánh lấy hình phạt của tội lỗi
cho nhân loại. Trên Thập Giá, Ngài nghèo đến nỗi chỉ còn một miếng vải che thân
trong khi gánh mọi đau thương của cực hình chỉ vì yêu thương nhân loại.
Khi đã nhận ra tình yêu này, Phanxicô đã bắt chước gương Đức Kitô để đáp trả lại
tình yêu vô bờ Đức Kitô đã dành cho ngài bằng cách từ chối không theo nghề nghiệp
của thân phụ. Khi biết rõ ý định của con muốn tận hiến cuộc đời cho Chúa, cha của
ngài đã đuổi ngài ra khỏi nhà; và mỗi khi ngài đi khất thực ngang qua nhà, ông
xua đầy tớ ra đánh đập, chửi rủa với hy vọng làm cho con đổi ý định. Một lần
sau khi đã bị hành hạ, ngài đã cởi bỏ bộ quần áo đang mặc trên người trả lại
cho cha và nói, “Đây là của cha, con xin trả lại cho cha; còn thân xác này của
Chúa dựng nên từ nay thuộc trọn về Thiên Chúa.” Giáo Hội khi tôn phong ngài, đã
gọi ngài là “Nữ Hoàng Khó Nghèo.”
Các bài đọc hôm nay soi sáng cho chúng ta hiểu mầu nhiệm giầu có và sâu thẳm của
Thập Giá cùng với sự phù hoa của giầu có thế gian. Trong bài đọc I, chắc chắn
thánh Phaolô cũng đã cảm nhận được tình yêu của Đức Kitô dành cho ngài khi suy
ngắm về mầu nhiệm Thập Giá. Một khi đã hiểu được mầu nhiệm này, ngài cảm thấy
tâm hồn bình an; vì nếu Thiên Chúa đã yêu thương con người bằng cách hy sinh
Người Con Một chết cho con người như thế, còn gì có thể làm mà Ngài lại từ chối
không ban cho con người? Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tạ ơn Thiên Chúa đã mặc khải
mầu nhiệm Nước Trời cho những kẻ bé mọn; mà không cho những người khôn ngoan,
thông thái. Chỉ có những ai hiền lành và khiêm nhường mới có thể mở lòng trí để
đón nhận những mầu nhiệm cao siêu của Thiên Chúa, hành động theo những chỉ dạy
của Ngài và tìm được sự bình an đích thực cho tâm hồn.
2. PHÂN TÍCH:
1/ Bài đọc I: Niềm xác tín của người môn đệ: “Tôi chẳng hãnh diện về điều
gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô.”
1.1/ Làm sao để có bình
an?
(1) Thập giá Đức Giêsu Kitô là niềm hãnh diện của người tín hữu: Đây là bốn câu
cuối cùng của Thư Galat, và thánh Phaolô muốn tổng kết những gì Ngài đã nói với
các tín hữu trong toàn Thư. Người tín hữu không được tìm sự hãnh diện nơi bất cứ
điều gì thế gian dâng tặng như: uy quyền, danh vọng, tiền của, hưởng thụ… Niềm
hãnh diện của người tín hữu là ở nơi Thập Giá của Đức Kitô, vì nhờ cây Thập Giá
này mà họ được rửa sạch tội lỗi và được giao hòa với Thiên Chúa. Thánh Phaolô
tuyên xưng: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá
đối với tôi, và tôi đối với thế gian.”
(2) Qui tắc để có bình an: Đối với các Kitô hữu, không phải hệ tại ở việc cắt
bì, cũng chẳng phải ở việc giữ Luật, nhưng là ở chỗ trở nên một tạo vật mới:
theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để hoàn toàn sống cho Đức Kitô. Thánh Phaolô dạy:
“Quả thật, cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một
thụ tạo mới. Chúc tất cả những ai sống theo quy tắc ấy, và chúc Israel của
Thiên Chúa được hưởng bình an và lòng thương xót của Người.”
Bình an này có liên kết mật thiết với niềm tin của người tín hữu vào Đức Kitô:
một khi đã biết Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, người tín hữu không còn lo lắng
về tội lỗi và về sự chết nữa. Họ biết nếu họ tin và tuân giữ những gì Đức Kitô
dạy bảo, họ sẽ được sống đời đời với Thiên Chúa. Chính sự xác tín này làm cho họ
được bình an trong tâm hồn.
1.2/ Tôi mang trên mình
tôi những dấu tích của Đức Giêsu: Trong cuộc
đời, người tín hữu phải đương đầu với biết bao nhiêu những lạc thuyết của thế
gian và các tôn giáo khác nhau. Một khi đã biết rõ ràng Kế Hoạch Cứu Độ của
Thiên Chúa, người tín hữu đừng để cho bất cứ người nào làm lung lay niềm tin của
mình, đừng để cho bất cứ sự gì lôi cuốn mình khỏi Thập Giá của Đức Kitô, và đừng
để cho những dấu tích của Đức Kitô in trên thân thể bị xóa nhòa. Những “dấu
tích” thánh Phaolô nói ở đây có thể là “5 dấu thánh” mà thánh Phanxicô Khó
Khăn, thánh Catarina Sienna, hay Cha Piô được chịu; cũng có thể là những đau khổ
để lại trên thân xác sau khi đã trải qua những gian khổ để làm chứng cho Đức
Kitô; hay có thể hiểu một cách thiêng liêng: những chứng tích mà bí-tích Rửa Tội
để lại trong linh hồn các tín hữu.
2/ Phúc Âm: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.”
Chúa Giêsu so sánh giữa những người khôn ngoan và thông thái (sophos,
sunetos) với kẻ bé mọn (nêpios), để nói với khán giả: họ cần có thái
độ của trẻ thơ là tin tưởng, khiêm nhường, ham học hỏi, để Ngài chuyển thông
cho họ những kiến thức về Thiên Chúa. Một thái độ kiêu hãnh và nghi ngờ sẽ ngăn
cản họ nhận ra những gì Ngài muốn mặc khải cho họ.
2.1/ Kiến thức về Thiên
Chúa: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi.
Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa
Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.”
(1) Chúa Giêsu là người biết về Chúa Cha rõ ràng hơn ai hết: Động từ Hy-lạp
dùng ở đây là “epiginôskô,” biết như một con người hay sự vật là. Con
người hiểu biết về Thiên Chúa với nhiều cấp độ khác nhau; nhưng chỉ có Chúa
Giêsu hiểu biết Thiên Chúa trong cấp độ hoàn hảo nhất. Điều này không ngạc
nhiên, vì Chúa Giêsu là chính Lời hay tư tưởng của Thiên Chúa. Ngài và Cha Ngài
là một.
(2) Con người biết Thiên Chúa qua mặc khải của Chúa Giêsu: Nếu Thiên Chúa không
chọn để mặc khải cho con người, con người không bao giờ có thể biết Thiên Chúa.
Đức Kitô chính là mặc khải của Thiên Chúa; Ngài đến để mặc khải cho con người
biết về Chúa Cha, như Ngài đã tuyên bố với các môn đệ: “Ai thấy Thầy là thấy
Cha.” Hơn nữa, để con người có thể hiểu những mặc khải này, họ cần được Thánh
Thần do Chúa Cha sai tới để hướng dẫn và thúc đẩy từ bên trong.
2.2/ Hai điều quan trọng
chúng ta cần học hỏi cùng Chúa Giêsu: Người
môn đệ tuy vẫn phải mang ách và mang gánh nặng; nhưng họ không mang chúng theo
cách của thế gian, mà mang chúng theo cách của Đức Kitô. Để biết mang ách và
gánh đúng cách, họ cần phải học với Đức Kitô. Hai nhân đức quan trọng họ cần học
nơi Ngài:
(1) Hiền lành: Đây là mối thứ hai trong Bài Giảng Trên Núi. Chúa Giêsu là Thiên
Chúa, Ngài có quyền tiêu diệt những ai nói những lời xúc phạm, đánh đòn, và giết
chết Ngài; nhưng Ngài đã không làm những chuyện đó. Ngài chọn con đường tha thứ:
“Lạy Cha! Xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” Ngài hòa giải
con người với nhau và với Thiên Chúa. Ngài dạy phải thương yêu, cầu nguyện và
làm ơn cho kẻ thù. Con người cũng thường có khuynh hướng yêu thích những ai hiền
lành, nhã nhặn, và tha thứ.
(2) Khiêm nhường: là nhân đức diệt trừ tính kiêu ngạo, tội đầu tiên trong bảy mối
tội đầu. Không ai thích người kiêu ngạo và tâm lý chung chẳng ai thích người
hay “nổ.” Khiêm nhường là biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với
tha nhân. Người khiêm nhường biết mọi sự mình có được là do Thiên Chúa ban, nên
họ không huyênh hoang lên mặt với người khác; nhưng biết dùng tài năng để mở
mang Nước Chúa và phục vụ anh em. Người kiêu ngạo đánh cắp công ơn Thiên Chúa
và luôn bất an vì sợ người khác hơn họ. Họ bất an khi không nhận được những gì
họ muốn và khó chịu với mọi người.
3. ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta hãy đến và học với Đức Kitô trên Thập
Giá, vì Ngài sẽ dạy cho chúng ta những bài học khôn ngoan mà chúng ta không thể
tìm thấy bất cứ nơi đâu trên thế gian này.
– Không một ai trên đời này yêu thương chúng ta bằng Đức Kitô. Ngài đã chứng tỏ
cho chúng ta tình yêu thâm sâu của ngài qua cái chết đau thương trên Thập Giá để
gánh chịu mọi hình phạt thay cho chúng ta.
– Nếu chúng ta đánh đổi tình yêu của Đức Kitô cho sự giàu có thế gian, chúng ta
đã rơi vào bẫy của ma quỉ và trở thành những kẻ rồ dại và đang thương nhất trên
đời.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
04/10/18 – THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 26 TN
Th. Phan-xi-cô Át-si-di
Lc 10,1-12
ĐI TRƯỚC
Chúa Giê-su chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác, và sai các
ông cứ hai người một đi trước vào tất cả các thành mà chính Người sẽ đến. (Lc
10,1)
Suy niệm: Ngoài “nhóm Mười Hai”,
Chúa Giê-su còn tuyển chọn và huấn luyện các môn đệ. Các ông không phải là những
người có học thức hay có địa vị xã hội cao hơn nhưng chỉ là người theo Chúa
Giê-su, tin vào quyền năng của Chúa và làm theo những định hướng Ngài vạch ra.
Chúa Giê-su đã không luôn giữ các môn đệ ‘non yếu’ này bên mình, nhưng sau một
thời gian ở với Chúa, các ông được sai đi trước, đến những nơi Chúa sẽ đến để
chuẩn bị cho Ngài. Sau ngày Chúa về trời, và được đón nhận Chúa Thánh Thần, các
ông tiếp nối sứ vụ của Chúa, nhờ đó ánh sáng Tin Mừng được lan tỏa khắp nơi.
Mời Bạn: Nhiệm vụ “đi trước” này vẫn
luôn được tiếp diễn trong Giáo Hội. Lịch sử truyền giáo vẫn luôn có những
đoàn người sẵn sàng đi đến những vùng đất xa lạ, trong những chuyến phiên
lưu mạo hiểm đầy thử thách. Phần chúng ta hôm nay, tuy được nhắc nhủ nhiều về bổn
phận truyền giáo, nhưng trong thực tế, chúng ta thường không tha thiết đến việc
đó bao nhiêu. Nếu có ‘ra đi’ chúng ta đến với những vùng miền đã ổn định, cho một
ít ‘phần quà’ và lấy thế làm đủ!
Sống Lời Chúa: Thử xúc tiến vài hoạt động
mới mẻ giúp tiếp cận với một vài cá nhân, vài gia đình hay xóm thôn đang cần
ánh sáng Tin Mừng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
được làm môn đệ Chúa là vinh dự và hạnh phúc cho chúng con. Xin cho chúng con sức
mạnh của Chúa Thánh Thần, giúp chúng con vượt thắng nghi ngại sợ sệt, đổi mới
cách thức loan báo Tin Mừng, sao cho ngày càng có nhiều người nhận biết Chúa và
tôn thờ Chúa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Như chiên con (4.10.2018 – Thứ
năm Tuần 26 Thường niên)
Suy niệm:
Đức Giêsu sai các môn đệ của mình đi trước,
từng hai người một, vào mọi thành phố và mọi nơi Ngài sẽ đến.
Sứ mạng dọn đường này không dễ chút nào.
Đức Giêsu biết rõ những hiểm nguy và chống đối đang chờ đợi họ.
“Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói.” (c. 3).
Chiên con trở nên hình ảnh của người môn đệ,
yếu đuối, không có khả năng chống cự khi gặp sự tấn công hung hãn.
Chính Đức Giêsu cũng là Chiên Con được Thiên Chúa sai đi.
Chính Ngài cũng “như chiên bị đem đi làm thịt,
như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng hề mở miệng” (Is 53, 7).
Người môn đệ được sai vào thế giới mãi mãi thấy mình mong manh,
trước thế lực tưởng như không thể thắng nổi của sự dữ.
từng hai người một, vào mọi thành phố và mọi nơi Ngài sẽ đến.
Sứ mạng dọn đường này không dễ chút nào.
Đức Giêsu biết rõ những hiểm nguy và chống đối đang chờ đợi họ.
“Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói.” (c. 3).
Chiên con trở nên hình ảnh của người môn đệ,
yếu đuối, không có khả năng chống cự khi gặp sự tấn công hung hãn.
Chính Đức Giêsu cũng là Chiên Con được Thiên Chúa sai đi.
Chính Ngài cũng “như chiên bị đem đi làm thịt,
như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng hề mở miệng” (Is 53, 7).
Người môn đệ được sai vào thế giới mãi mãi thấy mình mong manh,
trước thế lực tưởng như không thể thắng nổi của sự dữ.
Nhưng người môn đệ lại không được trang bị nhiều:
không túi tiền, không bao bị, không giầy dép,
dù đó là những điều bình thường thiết yếu cho một cuộc hành trình.
Chính vì thế họ buộc lòng phải cậy dựa vào người khác.
Mà không phải ai cũng có lòng, ai cũng vui vẻ đón nhận.
Như thế là chấp nhận liên tục bấp bênh,
liên tục cậy dựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
không túi tiền, không bao bị, không giầy dép,
dù đó là những điều bình thường thiết yếu cho một cuộc hành trình.
Chính vì thế họ buộc lòng phải cậy dựa vào người khác.
Mà không phải ai cũng có lòng, ai cũng vui vẻ đón nhận.
Như thế là chấp nhận liên tục bấp bênh,
liên tục cậy dựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Nhà của các tín hữu là nơi hoạt động của người môn đệ.
Căn nhà là nơi các môn đệ được trú ngụ, được chia sẻ bữa ăn.
Họ sống gần gũi như người trong nhà, như người thợ làm việc.
Nếp sống giản dị và siêu thoát của họ phải được bày tỏ
qua việc chấp nhận mọi đồ ăn thức uống người ta dọn cho (cc. 7-8),
cũng như việc không đi tìm một căn nhà khác tiện nghi hơn (c. 7).
Ngoài ra các thành phố cũng là điểm đến của họ (cc. 8-12).
Nhưng dù là vào một căn nhà hay vào một thành phố (cc. 5. 8),
thái độ của người môn đệ đều rất tích cực và thân thiện.
Họ chúc bình an, chữa bệnh, loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần.
Họ cũng khiêm tốn chấp nhận bị từ chối,
khi ơn bình an không được đón nhận, lời loan báo không được lắng nghe.
Căn nhà là nơi các môn đệ được trú ngụ, được chia sẻ bữa ăn.
Họ sống gần gũi như người trong nhà, như người thợ làm việc.
Nếp sống giản dị và siêu thoát của họ phải được bày tỏ
qua việc chấp nhận mọi đồ ăn thức uống người ta dọn cho (cc. 7-8),
cũng như việc không đi tìm một căn nhà khác tiện nghi hơn (c. 7).
Ngoài ra các thành phố cũng là điểm đến của họ (cc. 8-12).
Nhưng dù là vào một căn nhà hay vào một thành phố (cc. 5. 8),
thái độ của người môn đệ đều rất tích cực và thân thiện.
Họ chúc bình an, chữa bệnh, loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần.
Họ cũng khiêm tốn chấp nhận bị từ chối,
khi ơn bình an không được đón nhận, lời loan báo không được lắng nghe.
Những lời dặn dò của Đức Giêsu ngày xưa, bây giờ vẫn còn giá trị.
Chúng ta vẫn tiếp tục được sai vào các thành phố hôm nay.
Có biết bao người cần được chữa lành về thân xác, tinh thần,
với những thứ bệnh mới của thời đại được coi là văn minh.
Có bao người cần được nghe một lời đem lại cho đời họ chút hy vọng.
Được sai vào thành phố thế kỷ 21 để rao giảng, thật là một thách đố.
Làm sao ta có can đảm nói về Nước Trời cho những người vô tín,
và những người bị cuốn vào cơn lốc của vật chất và khoái lạc ?
Làm sao nói về Đấng Vô Hình khi nhiều người chỉ tin vào cái hữu hình ?
Người môn đệ hôm nay vẫn phải lại gần con người để chia sẻ cuộc sống,
như xưa các môn đệ xưa đã sống chung, ăn chung,
và làm việc như một người thợ để phục vụ.
Giáo Hội vẫn cần xin nhiều thợ hiền lành và can đảm để đến với thế giới.
Chúng ta vẫn tiếp tục được sai vào các thành phố hôm nay.
Có biết bao người cần được chữa lành về thân xác, tinh thần,
với những thứ bệnh mới của thời đại được coi là văn minh.
Có bao người cần được nghe một lời đem lại cho đời họ chút hy vọng.
Được sai vào thành phố thế kỷ 21 để rao giảng, thật là một thách đố.
Làm sao ta có can đảm nói về Nước Trời cho những người vô tín,
và những người bị cuốn vào cơn lốc của vật chất và khoái lạc ?
Làm sao nói về Đấng Vô Hình khi nhiều người chỉ tin vào cái hữu hình ?
Người môn đệ hôm nay vẫn phải lại gần con người để chia sẻ cuộc sống,
như xưa các môn đệ xưa đã sống chung, ăn chung,
và làm việc như một người thợ để phục vụ.
Giáo Hội vẫn cần xin nhiều thợ hiền lành và can đảm để đến với thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ Têrêxa
Calcutta)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG MƯỜI
Thánh Phanxicô
Assisi, Một Kiến Trúc Sư Của Hoà Giải
Khuôn mặt Thánh
Phanxicô Assisi đem lại cho cuộc hành trình nhân loại của chúng ta một sắc thái
Kitô giáo. Ngài tranh thủ ơn phúc hòa bình của Phúc Aâm, và qua đó ngài giúp những
tâm hồn ly cách được hòa giải với Giáo Hội và xã hội.
Lối sống nghèo của
Asissi thật vô cùng phong phú giữa những nẻo đường nên thánh của Kitô giáo.
Không thể chối cãi rằng một trong những sứ điệp cảm kích – mà Thánh Phan-xi-cô
vừa sống cách triệt để vừa tiếp tục làm vang dội trong lương tâm của con người
thời đại – đó là nỗi khát khao bỏng cháy đối với hòa bình.
Sau khi toàn tâm dấn
mình theo tiếng gọi của Thiên Chúa, ngài và các môn đệ đầu tiên của ngài rảo
qua các thành thị, làng mạc. Thầy trò dừng lại ở các quảng trường và các khu
dân cư, lặp đi lặp lại mấy tiếng hết sức đơn sơ nhưng vô cùng hàm súc: an bình
và hạnh phúc. Mấy tiếng ấy được nói lên không chỉ đơn thuần như một điều khát
khao, nhưng còn như một lời cam kết dấn thân thúc bách các thính giả của ngài,
những người thường bị rơi vào tình trạng phân hóa và xung đột: tôn giáo này chống
tôn giáo kia, thành phố này đối đầu với thành phố nọ, xung đột giữa các xóm
thôn, các gia đình.
Ở nước Ý thời Trung Cổ
có một từ ngữ được khơi lên và gây âm vang rất lớn, một từ rất đơn sơ tầm thường
song cũng cưu mang rất nhiều sức mạnh, sức mạnh của Tin mừng. Đó là một từ của
Thánh Phan-xi-cô Assisi. Ngài là một con người được Bà Chúa Nghèo yêu mến, một
con người thực sự là anh em chân tình của bất cứ ai mà ngài gặp gỡ.
Người tu sĩ khiêm tốn
này được những người đương thời đánh giá là “con người mới, được gởi xuống từ
trời cao” (FF 1212). Trong tinh thần của Đức Kitô, ngài thậm chí tự nguyện trở
thành nhịp cầu nối giữa Kitô giáo và Hồi giáo, đến độ ngài đã đi viếng thăm vua
Ai cập, Melek-el-Kamel. Ngài mong muốn đảm nhận vai trò của một ngôn sứ đích thực
để loan báo cho nhà vua sứ điệp của Con Thiên Chúa nhập thể.
Chúng ta có thể nói rằng
thánh Phanxicô không chỉ là một sứ giả. Bởi hơn thế nữa, ngài là nhà xây dựng
và là kiến trúc sư của hoà giải và hoà bình. Ngài nói: “Chúa đã mặc khải cho
tôi lời chào mà chúng tôi vẫn sử dụng, đó là ‘Xin Chúa ban bình an cho bạn’”
(FF 121). Tôma Celano, người viết tiểu sử của ngài, đã khắc họa dung mạo nghèo
khó nơi ngài như sau: “Trong các bài giảng, trước khi chia sẻ lời Chúa cho mọi
người, ngài luôn diễn tả khát vọng hòa bình, ngài nói: ‘Xin Chúa ban bình an
cho anh chị em! Ngài loan báo sự bình an này cách chân thành cho mọi người nam
cũng như nữ, cho tất cả những ai ngài gặp gỡ. Bằng cách đó, nhờ ân sủng Chúa,
ngài thường thành công trong việc giúp cho những người chống lại hòa bình và chống
lại ơn cứu độ của chính họ trở thành con cái của hoà bình và biết khát khao ơn
cứu rỗi đời đời” (FF 359).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 04/10
Thánh Phanxicô
Assisi
G 19,21-27; Lc 10,
1-12.
LỜI SUY NIỆM: “Chúa chỉ định bảy
mươi hai người khác, đi vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.”
Phương thức Chúa Giêsu sai nhóm Bảy Mươi Hai đi từng hai người một, vào tất cả
các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Đây là một một phương thức cần thiết
mà Giáo Hội ngày hôm nay cần phải dùng đến. Sau khi đã huấn luyện những Tông Đồ
Giáo Dân. Trong mọi công tác nếu có hai người cùng đi một công tác, vẫn hơn là
một người đơn độc, cũng không nên quá đông người cùng đi với nhau, dễ xãy ra
mâu thuẫn trong một vấn đề, còn nếu hai người thì dễ có sự đồng nhất và cũng có
thể bổ túc điều thiếu xót cho nhau, để đem lại kết quả tốt đẹp hơn.
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho chúng con biết khiêm tốn, nương tựa vào nhau trên mọi
công tác Tông Đồ Giáo Dân, để công việc truyền giáo đem lại kết quả tốt đẹp cho
Giáo Hội.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 04-10
Thánh PHANXICÔ
ASSISIS
(1181 – 1226)
(1181 – 1226)
Thánh Phanxicô sinh tại
Assisi, miền Umbria, năm 1181. Ong Phêrô Bernadone là một thương gia giầu có,
lúc sinh ra thánh nhân, ông đang ở Pháp, nên đã đặt tên cho Ngài theo tên quốc
gia này. Thời thơ ấu, thánh nhân chịu ảnh hưởng nhiều bởi người mẹ nhiệt thành
và khả ái. Ngài tỏ ra vui vẻ, mạo hiểm, quảng đại và bình dân. Dầu được chuẩn bị
để theo nghề buôn bán như cha, Ngài vẫn thường mơ ước trở thành hiệp sĩ.
Năm 1201, Phanxicô
tham gia cuộc chiến ở Perugia và bị bắt tù một năm. Kinh nghiệm đau xót này
cùng với cơn bệnh ngặt nghèo là khởi đầu cuộc trở lại của Ngài. Dầu vậy, năm
1205, Ngài vẫn còn tham dự vào cuộc viễn chinh tại Apulia. Trong một giấc mơ,
Phanxicô được Chúa Kitô mở lời kêu gọi phục vụ Người. Ngài trở về và hiến mình
chăm sóc các bệnh nhân.
Ngày 16 tháng 4 năm
1206, Phanxicô lại nghe tiếng Chúa Kitô kêu gọi Ngài tái thiết đền thờ thánh
Damianô. Luôn mau mắn và tận tâm, Phanxicô đã từ bỏ đời sống cũ và chấp nhận sống
như một ẩn sĩ. Khi bị cha bỏ tù, rồi dẫn đến đức giám mục như một đứa con bất phục,
thánh nhân đã từ khước mọi quyền lợi lẫn của cải, cả đến áo quần đang mặc nữa.
Hai năm sau, có lẽ vào
ngày 24 tháng 2 năm 1209, Ngài nghe đọc đoạn Tin Mừng Mt 10,9 và thấy mình được
ơn gọi đi rao giảng sự thống hối. Đây là giây phút quyết liệt. Thánh nhân cởi bỏ
tu phục ẩn sĩ, mặc áo vải thô, thắt giây lưng và bắt đầu rao giảng Chúa Kitô.
Có hai người bạn đi theo, Ngài cho họ một bản luật gồm ba câu thánh kinh Mt
20,21; 10,9 và Lc 9,23. Khi con số môn sinh lên tới 11, Ngài viết cho họ một bản
luật vắn (bản Primitiva, nay đã thất lạc), và dân họ tới Roma để được Đức Giáo
hoàng phê chuẩn.
Đức giáo hoàng
Innocentê III, sau phút ngập ngừng, đã nhận ra nơi người giáo dân ngay thật và
nhiệt tình này một tông đồ chân chính, và ban lời chuẩn nhận (tháng 6 năm 1210).
Nhóm huynh đệ trở về Assisi. Họ sống trong những chiếc chòi ở Rivetortô. Gần
Porziuncola và rao giảng sư thống hối trên khắp nước Ý. Đầy đơn sơ, họ làm đủ mọi
việc và sống bằng nghề ăn xin. Chính sự đơn sơ như thiên thần của Phanxicô mà họ
coi là hiền huynh và hiền mẫu, là gương sống hứơng dẫn họ trên đường thiêng
liêng. Chưa có một tổ chức nào cả, với phép của Phanxicô, họ đi khắp nơi, như
các anh em thống hối nghèo miền Assisi.
Năm 1212, Phanxicô
khích lệ Clara, một thiếu nữ danh giá trong thành phố, thiết lập nhóm chị em sống
đời nghèo khó và cầu nguyện ở nhà thờ thánh Damianô. Họ đã trở thành các bà
nghèo khó và ngày nay gọi là các nữ tu Clara.
Không bao giờ Phanxicô
muốn lập một “Hội dòng”. Ngài chỉ muốn theo Chúa Kitô trong các sách Tin Mừng một
cách hoàn toàn đến từng chữ viết. Dầu vậy, nhóm huynh đệ đã theo một hình thức
tu dòng nào đó. Họ đọc kinh nhật tụng, ngủ và ăn chung như các tu sĩ. Khi nhóm
huynh đệ đã tăng số cách lạ lùng, mau chóng, Phanxicô phải ủy quyền cho các người
lãnh đạo mà Ngài gọi là “Hiền mẫu” hay là “tôi tớ” của các nhóm. Hàng năm các
anh em họp nhau một lần tại Porziuncola.
Năm 1216, Phanxicô
tham dự đám táng Đ. G.H Innocentê III và được Đức Honoriô IV ban ân xá cho
thánh đường Perziuncola. Năm sau, Ngài được cảm tình của đức Hồng y Ugôlinô, là
đấng sẽ trung tín bảo trợ Ngài mãivề sau.
Năm 1219. Nhóm huynh đệ
tăng số đông đảo và phải chia thành nhiều tỉnh dòng. Cánh đồng truyền giáo đầu
tiên của nhóm vượt qua rặng núi Alpes.
Chính Phanxicô, bất chấp
những cân nhắc khôn ngoan, đã bỏ nước Ý để tham gia thập tự quân và đã đến gặp
Sultan. Trong khi Ngài vắng mặt, nhóm huynh đệ gồm nhiều học viên mới, có học
thức và thuộc hàng giáo sĩ, họ như con thuyền không lái và rơi vào cuộc khủng
hoảng. Vấn đề chỉ giải quyết xong khi kêu mời Phanxicô trở về, nhờ tài khéo léo
của Đức hồng y Ugôlinô, và nhóm phải chọn một khuôn mẫu thông thường của đời sống
tu trì.
Trước sức ép liên tục,
bây giờ Phanxicô phải viết một bản luật chi tiết hơn (bản Regula Prima) dầu vậy,
bản luật này vẫn còn quá đơn sơ và đòi hỏi các người lãnh đạo mới của cộng đoàn
về đàng thiêng lêng. Sau khi sửa lại, bản luật mới này được đức giáo hoàng
Honoriô III chấp nhận năm 1223 (bản Rehula Secunda hay Bullata nay vẫn còn được
xử dụng) Trong khi đó, Phanxicô trở nên yếu đau và lo âu. Ngài trao quyền quản
trị nhóm huynh đệ cho người đại diện. Từ năm 1221, anh Elia đầy bí nhiệm đảm nhận
chức vụ.
Chính Phanxicô lại lui
vào trong núi. Ngày 14 tháng 9 năm 1224, sau một thời sống ẩn dật, Ngài đã được
Chúa Kitô in dấu. Từ đây, bệnh tình Ngài tăng thêm và trở nên mù lòa hầu như
hoàn toàn. Ngài được bốn anh em trung tín mang đi đây đó. Có lẽ vào năm 1224,
Ngài đã viết “bài ca mặt trời”. Năm 1226, Ngài viết chúc thư (testament) long
trọng nhấn mạnh đòi buộc sống nghèo khó tuyệt đối, vâng lời luật dòng đến từng
chữ viết và từ khước mọi đặc ân.
Ngày 02 tháng 10 năm
1226, sau khi viếng thăm Clara cùng các nữ tu và chúc lành cho thành Assisi,
Ngài từ trần tại Porziuncola. Hai năm sau Ngài được bạn cũ là Ugôlinô bấy giờ
là ĐGH grêgoriô IX tôn phong lên hàng hiển thánh. Năm 1228, xác Ngài được dời về
mai táng tại đại giáo đường do anh Elia xây cất.
(daminhvn.net)
04 Tháng Mười
Bí Quyết Trẻ Trung
Hôm nay Giáo Hội
kính nhớ thánh Phanxicô Assisi.
Sống cách chúng ta
trên 7 thế kỷ, thánh Phanxicô Assisi vẫn mãi mãi để lại một hình ảnh trẻ trung.
Chưa có vị thánh nào trong Giáo Hội được nhắc nhở, yêu mến như thánh nhân. Chưa
có vị thánh nào đã gợi lên nhiều cảm hứng cho văn chương, nghệ thuật cho bằng
thánh nhân. Chưa có vị thánh nào được các nhà chính trị, các nhà cách mạng ca tụng
cho bằng thánh nhân.
Sứ điệp của thánh
nhân siêu việt thời gian, bởi vì con người của thánh nhân là hiện thân của tuổi
trẻ. Thật thế, suốt cả cuộc đời của mình, thánh Phanxicô Assisi luôn biết giữ một
tâm hồn tươi trẻ. “Tuổi tác không phải là điều kiện thể lý cho bằng bầu khí của
tâm hồn”. Có lẽ thánh nhân không phải là người đã nói lên châm ngôn ấy, nhưng hẳn
ngài đã sống theo châm ngôn ấy.
Ngài biết giữ mãi
cho tâm hồn tươi trẻ bằng cách hạn chế tối đa các nhu cầu, bằng cách chống cự lại
các ước muốn. Ngài đón nhận mọi sự. Không thắc mắc, không lo lắng, không buồn
giận.
Những khám phá của
khoa học tâm lý ngày nay, thánh Phanxicô Assisi đã từng biết và sống một cách
trọn vẹn. Thật thế, để có một thể xác lành mạnh, một tâm hồn tươi trẻ, các nhà
tâm lý học khuyên chúng ta như sau:
– Hãy tập yêu thích
những gì không quá đắt giá.
– Hãy tập yêu thích
việc đọc sách, chuyện vãn, nghe nhạc.
– Hãy tập yêu thích
những thức ăn thanh đạm.
– Hãy tập yêu thích
tiếng chim hót, sự hiện diện của thú vật, tiếng cười đùa rộn rã của trẻ em.
– Hãy tập yêu thích
trồng trọt, làm việc tay chân.
– Hãy tập yêu thích
ánh bình minh cũng như hoàng hôn, tiếng mưa rơi trên mái nhà cũng như cảnh tuyết
rơi.
– Hãy tập yêu thích
những nhu cầu đơn giản nhất.
– Hãy tập yêu thích
công việc và cảm nhận được niềm vui khi làm tốt một công việc.
– Hãy tập yêu người,
dù người không giống ta.
Không khí, ánh
sáng, mặt trời, niềm vui, hạnh phúc, cuộc sống, con người: đó là những yếu tố cần
thiết để tạo cho bầu không khí tươi trẻ trong tâm hồn. Phải chăng đó không là
những yếu tố mà người ta cũng bắt gặp trong bài ca vạn vật của thánh Phanxicô
Assisi?
Một tâm hồn luôn luôn
tươi trẻ: đó không chỉ là một bí quyết để được hạnh phúc trên đời này, nhưng
còn là một đòi hỏi đối với người Kitô. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Hãy để
trẻ nhỏ đến với Ta, vì Nước Trời thuộc về những ai giống chúng. Ta nói thật với
các con: nếu các con không đón nhận nước Trời như trẻ nhỏ, các con sẽ không được
vào Nước Trời”.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét