28/10/2018
Chúa Nhật tuần 30 Thường Niên năm B
(phần I)
BÀI ĐỌC I: Gr 31, 7-9
“Ta sẽ lấy lòng từ bi dẫn dắt kẻ đui
mù và què quặt”.
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Đây Chúa phán: Hỡi Giacóp, hãy
hân hoan vui mừng! Hãy hò hét vào đầu các Dân ngoại, hãy cất tiếng vang lên, ca
hát rằng: “Lạy Chúa, xin hãy cứu dân Chúa là những kẻ sống sót trong Israel”.
Đây, Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất
bắc trở về, sẽ tụ họp chúng lại từ bờ cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ
đui mù, què quặt, mang thai và sinh con đi chung với nhau, hợp thành một cộng
đoàn thật đông quy tụ về đây.
Chúng vừa đi vừa khóc, Ta sẽ lấy
lòng từ bi và dẫn dắt chúng trở về. Ta sẽ đưa chúng đi trên con đường thẳng,
băng qua các suối nước; chúng không phải vấp ngã trên đường đi: vì Ta đã trở
nên thân phụ dân Israel, và Ephraim là trưởng tử của Ta. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6
Đáp: Chúa đã đối xử đại lượng với
chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan (c. 3).
Xướng: 1) Khi Chúa đem những người
từ Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng
tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. – Đáp.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với
nhau rằng: “Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng.” Chúa đã đối xử đại lượng với
chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. – Đáp.
3) Lạy Chúa, hãy đổi số phận của
con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân
hoan. – Đáp.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay
mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Dt 5, 1-6
“Con là tư tế đến muôn đời theo phẩm
hàm Menkixêđê”.
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Tất cả các vị thượng tế được chọn
giữa loài người, nên được đặt lên thay cho loài người mà lo việc Chúa, để hiến
dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm
lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế, cũng như người phải
dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình
như vậy. Không ai được chiếm vinh dự đó, nhưng phải là người được Thiên Chúa
kêu gọi như Aaron.
Cũng thế, Đức Kitô không tự
dành lấy quyền làm thượng tế, nhưng là Đấng đã nói với Người rằng: “Con là Con
Cha, hôm nay Cha sinh ra Con”. Cũng có nơi khác Ngài phán: “Con là tư tế đến
muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê”. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! – Chúc tụng
Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các tầng
trời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 10, 46-52
“Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành
Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một
người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu
Nadarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi”.
Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua
Đavít, xin thương xót tôi”.
Giêsu dừng lại và truyền gọi anh
đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”.
Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng:
“Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”.
Chúa Giêsu đáp: “Được, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được
và đi theo Người. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm:Đức Yêsu dựng nên một dân mới
Cũng như Chúa nhật tuần trước,
hôm nay chúng ta căn cứ vào bài Tin Mừng để tìm hiểu bài tiên tri Yêrêmia và
bài thư Hipri. Chúng ta sẽ thấy mạc khải của Ðức Yêsu thật là ánh sáng soi cho
chúng ta hiểu hơn mọi lời tiên tri của Cựu Ước. Ðồng thời ánh sáng của Người
cũng chiếu trên giáo huấn của các tông đồ khiến những bài Thánh Thư nhờ lời dạy
dỗ và gương sáng của Người mà trở nên trong sáng.
1. Ðức Yêsu Dựng Nên Một Dân Mới
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại
câu chuyện Chúa Yêsu chữa lành một người mù tên là Bartimê. Nhưng ở đây thánh
Marcô nói đến chính việc chữa mắt rất íc. Ðức Yêsu chỉ dùng một câu và phán một
lời thôi. Ðang khi có lần khá, để chữa lành một người câm điếc (7,31-37), Người
đã làm nhiều cử chỉ, không khác những lang y hoặc pháp sư thời bấy giờ. Người
đem người có tật ra chỗ vắng, thọc ngón tay vào tai y, nhổ nước miếng và sờ vào
lưỡi y, rồi ngước mắt, rên lên, thốt ra một lời lạ tai: Ephphata! Ngay đến lần
chữa một người mù ở Betsaida (8,22-26), Người cũng đã dắt y ra ngoài làng, đoạn
nhổ nước miếng vào mắt nó, rồi đặt tay khoa trước mặt nó và hỏi: có thấy gì
không?... Hôm nay, Người không làm một cử chỉ nào như vậy. Người chỉ nói một
câu: hãy đi, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi. Và người mù đã được khỏi tức
khắc.
Như vậy có nghĩa là hôm nay tác
giả Marcô không muốn chú trọng nhiều đến chính phép lạ chữa lành người mù. Người
đặt câu chuyện này trong một bối cảnh rất ý nghĩa, khiến chúng ta phải tỉnh táo
nhìn ra.
Người kể rằng hôm ấy Ðức Yêsu ra
khỏi Yêricô cùng với môn đồ và rất đông dân chúng. Người tiếp tục cuộc hành
trình đi lên Yêrusalem, khởi sự từ Chúa nhật trước. Người đã phải dừng chân nghỉ
tại Yêricô và hôm nay lại lên đường tiếp tục đi. Chưa có dấu hiệu gì cho thấy
có sự thay đổi nào trong đoàn người đang tiến bước này. Và chúng ta có thể
nghĩ, như hôm trước Ðức Yêsu vẫn dẫn đầu; còn môn đồ và quần chúng theo sau vẫn
có tâm trạng khiếp sợ. Người muốn lên Yêrusalem để thi hành sứ mạng cứu thế, nhưng
những kẻ đi theo Người lại sợ biệt phái và luật sĩ đang âm mưu gì đây. Nhất là
các môn đồ, sau khi tiếp thu bài học phải trở nên tôi tớ hầu hạ, lại càng bước
đi nặng nề. Ðức Yêsu phải kéo theo một nhân loại chậm chạp và khó khăn. Ðang
khi ấy Người ý thức đã đến giờ phải kéo họ lên và đưa họ ra khỏi tình trạng hiện
thời.
Có lẽ vì đang bị thu hút vào tư
tưởng cứu thế, Ðức Yêsu đã không để ý đến một người ăn xin ở vệ đường. Người
cũng chẳng nghe thấy tiếng người đó kêu ca. Vì quả thực, khi nghe biết Người đi
qua, kẻ khốn khó ấy đã thốt ra lời của nhân loại lầm than: "Lạy Con Vua
Ðavít, xin thương xót tôi". Không phải vì hắn biết Ðức Yêsu là con Ðavít,
chúng ta có thể chắc chắn như vậy. Hắn cũng chẳng xin Ðức Yêsu Nadarét chữa hắn.
Hắn giống như mọi người dân Cựu Ước và nhân loại lầm than chỉ trông chờ có một
vị Cứu tinh mà Sách Thánh bảo sẽ là con Ðavít. Thế nên, hắn đã kêu: "Lạy
Con Ðavít, xin thương xót tôi". Và hắn không chỉ kêu một lần, nhưng nhiều
lần, và càng kêu to khi bị người ta ngăn chặn quát bảo phải im đi. Hắn thật là
hình ảnh của người dân Cựu Ước và của nhân loại không ngớt kêu xin ơn cứu độ.
Tiếng cầu cứu cứ trùng trùng điệp điệp vang lên tới trời... cho đến khi Ðức
Yêsu nghe thấy. Người đứng lại và bảo gọi kẻ mù.
May mắn cho anh ta! Hạnh phúc
cho dân Cựu Ước. Thiên Chúa đã dừng lại và cho gọi con người. Tiếng của Người,
Lời của Thiên Chúa đã thay đổi hẳn cuộc sống của kẻ lầm than. Cho đến nay, y mù
lòa không thấy gì hết và chẳng biết đường đi. Y ngồi bên vệ đường, không theo được
con đường cứu độ mà Thiên Chúa đang đi. Y chỉ biết giơ tay xin ăn, tức là nhân
loại chỉ biết cầu cứu được thương xót. Bartimê, người mù ở Yêricô, chính là kẻ
đang ngồi trong bóng tối cho dù chung quanh đều đang hưởng ánh sáng ban ngày.
Ðó cũng là kẻ đang lầm than khổ sở, bất động và bất di bất dịch. Bóng tối đang
bao phủ kẻ ấy đúng là bóng tối của tử thần.
Nhưng Thiên Chúa đã cho gọi kẻ ấy
lại. Tiếng của Người có sức mạnh làm sao! Marcô kể: hắn vất áo choàng một bên,
nhảy chồm dậy và đến cùng Ðức Yêsu . Chúng ta có cảm tưởng hắn đã khỏi mù rồi.
Hắn làm như một người có sức sống mới. Vứt áo choàng ra một bên, không phải là
thái độ đập tan định mệnh bao phủ lấy mình từ xưa đến nay sao? Ðó là thái độ đổi
đời, nhờ lời Chúa mời gọi. Hắn còn nhảy chồm dậy khác nào như Thánh vịnh nói,
khi dân Chúa ra khỏi Aicập núi non gò nổng đã nhảy mừng. Ơn cứu độ đến, tất
nhiên phải như vậy, vì không thể có niềm vui nào to lớn hơn! Phép lạ đã xảy ra
rồi, nên Marcô không cần mô tả như mọi khi nữa. Chúng ta có thể bỏ qua mấy câu
trao đổi giữa Ðức Yêsu và chàng Bartimê. Ðó chỉ là những lời tiếp theo và giải
thích tiếng gọi ban đầu, để chứng tỏ ảnh hưởng của việc Ðức Yêsu đã đứng lại và
truyền gọi kẻ khốn khổ lại gần. Tuy nhiên chúng ta phải để ý đến lời Marcô kết
thúc câu chuyện: "Lập tức hắn đã thấy được và theo Ngài lên đường".
Hắn nhập đoàn những người long
trọng vào thành Yêrusalem với Ðức Yêsu. Nói đúng hơn đoàn người này là hắn, là
những kẻ như hắn đã nghe tiếng gọi tin vào Người và được cứu độ. Và trong cuộc
khải hoàn này, theo Marcô, hắn không còn kêu xin "Lạy Con Ðavít, xin thương
xót tôi" nữa; nhưng cùng với mọi người đang phấn khởi; hắn chỉ còn tung
hô: Hosanna! Chúc muôn lành cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Với những lời này,
chúng ta thấy quả thật đã có một nhân loại mới mẻ. Không còn là đám đông khiếp
sợ hoặc ngồi trong bóng tối tử thần nữa, nhưng nhờ việc Ðức Yêsu đã dừng chân ở
trần gian và lên tiếng kêu gọi, loài người đã được ánh sáng và sự sống mới để
nhận ra Chúa và vui mừng trong đức tin.
Ðức Yêsu đã dựng nên một dân mới,
dân có Tin Mừng cứu độ: đó là điều mà thánh Marcô muốn thông đạt cho chúng ta
qua câu chuyện chàng Bartimê được chữa lành. Và giờ đây được ánh sáng mới của
bài Tin Mừng, chúng ta hãy nhìn lại bài Cựu Ước và nhìn sang bài Thánh Thư. Ý tưởng
đúng chắc chắn sẽ dễ hiện ra một cách rõ ràng.
2. Người Hoàn Tất Lời Tiên Tri
Quảvậy, lời sách Yêrêmia chỉ trở
nên trong sáng sau ngày Ðức Yêsu đã cải tạo dân mới. Trước đó người ta có thể
hiểu những lời tiên tri ấy về cuộc hồi hương của người Dothái ra khỏi cảnh lưu đày.
Ðúng ra, trước mắt, Yêrêmia cũng đã nhìn thấy như thế. Ông được Thiên Chúa cho
biết phải tuyên sấm về dân đang lầm than. Họ sẽ được Thiên Chúa tập họp lại đưa
ra khỏi Assyria để trở về quê cũ. Yêrêmia bảo các nước hãy vỗ tay
hoan hô đoàn người đang trở về. Họ được Thiên Chúa đoái thương. Cả những thành
phần đui mù què quặt cũng được ơn cứu độ. Hơn nữa Thiên Chúa từ nay còn gọi là
"trưởng nam" trong cả gia đình nhân loại và Người sẽ là Cha nhân từ của
họ.
Những lời này sẽ không phải là
những lời tiên tri, mà chỉ là những câu văn thi vị, nếu chỉ có biến cố hồi hương
của người Dothái. Ðoàn người trở về bấy giờ đã chẳng được đón tiếp hân hoan bao
nhiêu. Và sau một thời gian ngắn họ lại rơi vào tay quân xâm lược khác. Họ chẳng
bao giờ cảm thấy thực sự là trưởng nam giữa các dân tộc. Và việc Thiên Chúa là
Cha nhân từ của họ cũng chỉ là một niềm tin rất yếu ớt. Chứng cớ là ở thời Ðức
Yêsu, Israel vẫn sống trong sự "kinh hãi" Thiên Chúa, chứ
không cảm thấy tình Chúa như hiền phụ.
Do đó những lời của Yêrêmia còn
phải đi xa hơn và nhắm chỉ những thực tại khác sâu xa hơn biến cố hồi hương của
dân Dothái. Ðó là những lời tiên tri, chỉ được thực hiện nhờ Ðức Yêsu và trên một
bình diện khác. Hôm nay trên đường đi Người đã chữa lành một người mù; và người
này đã đi theo Người, nhập đoàn với cả một đám đông đang khởi hoàn vào
Yêrusalem giữa tiếng tung hô.
Lời sách Yêrêmia đã được thực hiện
rõ hơn, nhưng vẫn còn là một hình ảnh về một thực tại sâu hơn. Ðoàn người vào
thành hôm nay báo trước quang cảnh của Hội Thánh trên đường lữ thứ trần gian, để
chỉ trở thành thực tại trong vinh quang Nước Trời. Ở đó mới sẽ rõ rệt quang cảnh
một cuộc hồi hương thật sự. Muôn nước sẽ vỗ tay. Israel sẽ bao gồm tất
cả những kẻ đui mù, què quặt được chữa lành. Dân Chúa sẽ là "trưởng
nam" và chính Người sẽ là Cha hiền của muôn nước.
Nhưng ngay từ bây giờ thực tại ấy
đã khởi sự. Hội Thánh hiện nay đang là đoàn người hồi hương ra khỏi cảnh lầm lạc
tội lỗi. Nơi Hội Thánh có rất nhiều tội nhân được chữa lành như những kẻ đui mù
què quặt được khỏi bệnh. Và nhất là trong Hội Thánh không bao giờ ngớt lời kinh
"Lạy Cha chúng con ở trên trời". Và tất cả được như vậy đều nhờ ở Ðức
Yêsu Kitô cứu thế. Công ơn của Người được lời thư Hipri hôm nay mô tả như sau:
3. Người Là Thượng Tế Ðến Muôn Ðời
Nhân loại sa ngã cần phải tạ tội.
Và như vậy cần phải có Thượng tế dâng lễ vật và hy sinh. Người vừa phải được lấy
giữa loài người để biết thông cảm mọi yếu đuối và yêu cầu của nhân loại; đàng
khác Người phải được chính Thiên Chúa lựa chọn, chứ toàn thể loài người tội lỗi
biết chọn ai cho vừa ý Thiên Chúa để làm nhịp cầu tái lập sự giao hòa.
Ðức Yêsu có một điều kiện đó. Vì
chỉ một mình Người hội đủ các nhân tố kia. Khỏi nói đến việc Người mang nặng
xác thể loài người. Người đã đi sâu vào bản tính nhân loại đến nỗi còn hạ mình,
mặc hình thức tôi đòi của kẻ tội lỗi. Chính khi bị treo trên thập giá, Người đã
tỏ ra thông cảm với mọi yếu đuối và yêu cầu của loài người hơn cả. Thì cũng
chính trong hoàn cảnh ấy, bằng việc cho Ðức Yêsu sống lại làm "trưởng tử"
giữa loài người hay chết, Thiên Chúa đã như tuyên bố: "Ngươi là Con Ta, chính
Ta hôm nay đã sinh ra con... Ngươi là tư tế đời đời theo kiểu Melkiseđek".
Phải, Ðức Yêsu đã trở thành Con
đời đời của Thiên Chúa Cha trong mầu nhiệm phục sinh. Người đã được đặt làm Thượng
tế trên bàn thờ Thánh Giá, để lôi kéo mọi người lên, tức cũng là trở về nhà
Thiên Chúa, hầu được ơn tha thứ mọi tội và đầy Thánh Thần để từ nay không ngớt
kêu: Abba, lạy Cha.
(Trích dẫn từ tập sách Giải
Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô
Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 30 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Jer 31:7-9; Heb 5:1-6;
Mk 10:46-52.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa yêu thương và chữa
lành những yếu đuối của con người.
Thiên Chúa yêu thương con người
và mong muốn con người được sống hạnh phúc bên Ngài mãi mãi; nhưng nhiều người
lại mù quáng chạy theo những tình yêu ảo ảnh của thế gian. Để đưa con người về,
Thiên Chúa phải dùng đau khổ. Khi con người phải đương đầu với đau khổ, họ nhận
ra họ không thể sống mà không có Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay biểu lộ tình
yêu Thiên Chúa dành cho con người qua những trường hợp khác nhau. Trong Bài Đọc
I, khi con cái Israel không chịu nghe lời các ngôn sứ để quay trở về với Thiên
Chúa, Ngài để mặc họ cho ngoại bang giày xéo. Kết quả là con cái Israel bị mất
nước và bị mang đi lưu đày. Nhưng tình yêu Thiên Chúa không bao giờ cạn cho con
cái Israel, Ngài sai các ngôn sứ tới để khuyên bảo dân hãy giữ vững niềm trông
cậy, vì Ngài sẽ giải thoát và đưa họ về quê hương làm lại cuộc đời. Trong Bài Đọc
II, tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ qua việc Ngài chọn và gởi các thượng tế đến
để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người; vị Thượng Tế cao cả nhất là
chính Người Con Một của Ngài. Các thượng tế thay Thiên Chúa lo lắng và chăm sóc
phần hồn cho dân qua mọi thời đại. Trong Phúc Âm, Đức Kitô đã chữa lành cho một
người mù thành Jericho, khi anh mạnh dạn vượt qua mọi trở ngại để xin Ngài cho
anh được thấy.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng
cõi đất.
1.1/ Thiên Chúa thương xót sau khi
sửa phạt Israel: Như một người cha yêu thương con
cái, nhưng phải sửa phạt khi chúng lầm lỗi, Thiên Chúa cũng phải sửa phạt vì sự
cứng lòng của con cái Israel. Thiên Chúa để họ bị rơi vào tay vua Assyria và bị
lưu đày vào khoảng năm 721 BC. Tuy nhiên, Ngài luôn hứa với dân qua các
tiên-tri là Ngài sẽ cứu số còn sót lại của Israel sau thời kỳ lưu đày. Lời hứa
của Thiên Chúa được hiện thực khi vua Ba-tư là Cyrus phóng thích cho dân chúng
trở về Jerusalem vào năm 538 BC, để xây dựng lại quê hương và tái thiết Đền Thờ.
Trình thuật của ngôn sứ Jeremiah
hôm nay là một ví dụ điển hình cho lời hứa của Thiên Chúa với dân: “Vì Đức Chúa
phán thế này: Reo vui lên mừng Jacob, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân! Nào
loan tin, ca ngợi và công bố: “Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn sót lại của
Israel!” Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng
cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả
cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo.”
1.2/ Thiên Chúa luôn yêu thương
Israel với tình yêu của người cha: Con cái Israel có thể dùng tự
do để xa lìa Thiên Chúa; nhưng Ngài luôn trung thành yêu thương và bảo vệ họ. Để
giúp con cái Israel nhận ra tình thương Thiên Chúa và quay trở về, đau khổ là
phương thuốc cần thiết cho họ. Chính tư tế Ezra sau khi đã nhận ra kế hoạch cứu
độ của Thiên Chúa được thực hiện qua vua dân ngoại Cyrus đã phải đau đớn và xấu
hổ thốt lên: tất cả chúng con đều đã xúc phạn đến Ngài, tổ tiên của chúng con
cũng như tất cả những người đương thời; và đau khổ chúng con phải chịu là xứng
đáng với tội lỗi của chúng con.
Một khi con người nhận ra và
quay trở về với tình yêu đích thực, Thiên Chúa lại tiếp tục săn sóc và bảo vệ họ,
như lời sấm của tiên-tri Jeremiah: “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi
và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó
chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Israel, Ta là một người Cha, còn đối với
Ta, Ephraim chính là con trưởng.”
2/ Bài đọc II: Thượng tế được đặt lên để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người.
2.1/ Vị thượng tế loài người: Tác giả Thư Do-thái nhấn mạnh đến ba đặc tính của thượng tế
trong Cựu Ước, để dẫn đến Vị Thượng Tế cao cả nhất của Tân Ước.
(1) Thượng tế được chọn trong số
người phàm: ”Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người
phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với
Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội.” Vai trò của vị thượng tế
là để đại diện cho loài người trong các mối tương quan với Thiên Chúa; chẳng hạn,
vị thượng tế vào trong cung Cực Thánh mỗi năm một lần vào ngày “Xá Tội” để dâng
hy lễ toàn thiêu đền tội cho mình và cho mọi người.
(2) Thượng tế cũng là con người
yếu đuối: Thượng tế không phải là thiên thần hay là thánh, họ cũng mang trong
mình những khuyết điểm như dân chúng. Khi dâng của lễ đền tội, họ cũng phải
dâng của lễ đền tội cho mình trước khi dâng của lễ đền tội cho dân. Vị thượng tế
phải biết cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người
của họ cũng đầy yếu đuối. Họ không được kiêu hãnh vì chức vụ của mình để khinh
thị hay nóng nảy với dân chúng.
(3) Thượng tế được chọn bởi
chính Thiên Chúa: Tác giả Thư Do-thái rất rõ ràng về điều này: “Không ai tự gán
cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông Aaron đã được gọi.”
2.2/ Chức vụ Thượng tế của Đức
Kitô: Tác giả Thư Do-thái cũng dùng 3 đặc tính này để áp dụng vào chức
vụ tư tế của Đức Kitô.
(1) Ngài được chọn và thánh hiến
bởi Thiên Chúa: “Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng
là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con,
như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật
Melchizedek.” Để hiểu “Thượng Tế theo phẩm trật Melchizedek,” chúng ta phải trở
về với trình thuật trong Sách Sáng Thế Ký, khi tư tế Melchizedek ra đón và chúc
lành cho Abram khi ông thắng trận trở về (Gen 14:18-20), và Abram đã trao lại
cho tư tế này một phần mười các chiến lợi phẩm.
(2) Đức Kitô đồng cảm với con người
vì Ngài cũng đã trải qua những đau khổ như con người; nên Ngài có thể giúp họ vượt
qua các đau khổ trong cuộc sống. Tác giả Thư Do-thái nói rõ về Đức Kitô: “Bởi
thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị
Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội
cho dân.
Vì bản thân Người đã trải qua thử
thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Heb
2:17-18).
(3) Đức Kitô là trung gian giữa
Thiên Chúa và loài người: Ngài hòa giải con người với Thiên Chúa bằng cách
thanh tẩy con người khỏi mọi tội lỗi.
Sau khi hoàn tất nhiệm vụ trên
trần gian, Đức Kitô đã thiết lập thiên chức linh mục để họ tiếp tục sứ vụ của
Ngài trên trần gian. Một người đã quảng diễn vai trò trung gian của linh mục như
sau: Linh mục là người cầu nguyện và kết hợp với Thiên Chúa trong tuần, để rồi
chuyển thông cho dân những gì Thiên Chúa muốn họ làm trong những thánh lễ cuối
tuần; vì dân chúng quá bận rộn để mưu kế sinh nhai. Sự hiện diện của linh mục
giúp con người nhận ra tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho con người.
3/ Phúc Âm: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”
3.1/ Niềm tin vững mạnh của anh mù:
Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Jericho. Khi Đức Giêsu cùng với
các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Jericho, thì có một người mù
đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Bartimê, con ông Timê.
(1) Anh mù chứ không điếc: Anh
đã được nghe người ta nói về Đức Giêsu Nazareth. Anh tin vào Ngài. Anh không
chút e ngại và biết nắm lấy cơ hội để cầu xin với Ngài: “Lạy ông Giêsu, Con vua
Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”
(2) Anh vượt qua sự ngăn cấm của
con người: Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng:
“Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” Họ quát nạt anh có thể vì anh làm
chia trí họ không nghe được những lời dạy dỗ của Đức Kitô, hay khinh thường anh
vì anh chỉ là người ăn xin bên đường.
Khát vọng mãnh liệt của anh mù được
đối diện với Thiên Chúa đã giúp anh vượt qua mọi trở ngại để được gặp Ngài.
Chúng ta có một khát vọng mãnh liệt được gặp Chúa Giêsu như anh không? Chúng ta
có sẵn sàng vượt mọi trở ngại trong cuộc đời để được đối diện với Ngài?
3.2/ Cuộc đối thoại giữa Chúa và
anh mù: Thấy niềm tin vững mạnh của anh, Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi
anh ta lại đây!” Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi
anh đấy!”
(1) Phản ứng của anh mù rất rõ
ràng và quyết liệt qua sự diễn tả của Marcô: Khi được biết Chúa Giêsu cho gọi
anh, “anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu.” Anh
không muốn bất cứ sự gì ngăn cản anh trong việc đến với Chúa. Khi nghe Chúa
Giêsu hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp không chút do dự: “Thưa Thầy,
xin cho tôi nhìn thấy được.”
(2) Lòng thương xót của Chúa
Giêsu: Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta
nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Đau khổ xảy ra khi con người
lìa xa Thiên Chúa để chạy theo những ảo ảnh của thế gian; để sống hạnh phúc,
chúng ta cần phải quay trở về với Thiên Chúa, Người Cha yêu thương chúng ta thực
sự.
– Tình yêu Thiên Chúa được biểu
lộ qua việc Thiên Chúa chọn các thượng tế giữa con người để họ làm trung gian
hòa giải, cầu nguyện, và ban ơn lành của Thiên Chúa cho con người.
– Vị Thượng Tế khôn ngoan, trung
thành, và yêu thương chúng ta nhất là Đức Kitô. Chúng ta hãy mạnh dạn chạy đến
với Ngài để được tha tội, chữa lành, và lãnh nhận mọi ơn cần thiết cho cuộc sống.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên,
OP
28/10/2018 – CHÚA NHẬT TUẦN 30 TN – B
CẦU XIN LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
“Lạy ông Giê-su, Con Vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi.” (Mc
10,47b)
Suy niệm: Tiếng kêu cầu của anh mù
Ba-ti-mê vang lên thật khẩn cấp và quyết liệt. Anh kêu vang át cả tiếng ồn ào của
đám đông. Anh kêu mãi cho tới khi tiếng của anh được lắng nghe. Anh kêu cầu vì
anh nhìn nhận sự bất lực trước sự mù loà của mình. Hơn nữa anh còn kêu cầu vì
tin vào lòng thương xót của “Giê-su, Con Vua Đa-vít.” Anh đặt cược đời mình nơi
Chúa Giê-su và vì thế anh đã không phải thất vọng. Ngài đã đáp lời: “Lòng tin của
anh đã cứu anh.”
Mời Bạn: Tiếng kêu cứu của những anh mù
Ba-ti-mê trong thế giới hôm nay cũng thật khẩn cấp: tiếng kêu của thai nhi cầu
xin được thấy ánh sáng mặt trời: “Mẹ ơi, xin đừng nỡ giết con”; tiếng kêu của
người thấp cổ bé miệng bị áp bức van xin công bằng, sự thật… Và còn biết bao tiếng
kêu nại đến lòng thương xót ở quanh chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Bạn và
tôi cũng thế, cũng cần đến lòng thương xót của nhau: vợ chồng, cha mẹ, anh em,
bạn bè đều cần trao cho nhau sự khoan dung thông cảm. Lòng thương xót sẽ được
thực hiện dưới nhiều hình thức trong cuộc sống, khi chúng ta ý thức rằng mỗi một
khoảnh khắc trong đời chúng ta luôn cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa.
Chia sẻ: cảm nghiệm lòng thương xót của
Thiên Chúa đã đụng chạm đến trái tim của bạn qua các biến cố trong cuộc sống của
bạn.
Sống Lời Chúa: Lần chuỗi Lòng Chúa Thương Xót
trong gia đình, trong nhóm.
Cầu nguyện: Xin Nước và Máu tuôn ra từ trái
tim Chúa Giê-su là nguồn mạch của lòng Chúa thương xót, con tín thác vào Chúa.
Xin thương xót chúng con và toàn thế giới.
(5 Phút Lời Chúa)
Xin thương xót tôi (28.10.2018
– Chúa nhật 30 Thường niên, Năm B)
Con mắt
là một bộ phận hết sức mong manh,
dễ bị tổn thương, dễ bị nhiễm trùng,
nhất là trong điều kiện vệ sinh ngày xưa.
Chúng ta không rõ nguyên nhân khiến anh Báctimê bị mù,
chỉ biết anh không mù từ lúc lọt lòng mẹ.
Anh đã từng được thưởng thức ánh nắng ban mai
hay nhìn ngắm những người thân yêu, bè bạn.
Bây giờ chỉ có bóng tối triền miên.
Anh Báctimê sống bằng nghề hành khất,
ngồi ăn xin bên vệ đường, sống bên lề xã hội.
Danh tiếng của Ðức Giêsu Nadarét, anh đã được nghe nhiều.
Ngài có thể làm người mù bẩm sinh sáng mắt.
Anh tin vào Ngài, thầm mong có ngày được gặp.
dễ bị tổn thương, dễ bị nhiễm trùng,
nhất là trong điều kiện vệ sinh ngày xưa.
Chúng ta không rõ nguyên nhân khiến anh Báctimê bị mù,
chỉ biết anh không mù từ lúc lọt lòng mẹ.
Anh đã từng được thưởng thức ánh nắng ban mai
hay nhìn ngắm những người thân yêu, bè bạn.
Bây giờ chỉ có bóng tối triền miên.
Anh Báctimê sống bằng nghề hành khất,
ngồi ăn xin bên vệ đường, sống bên lề xã hội.
Danh tiếng của Ðức Giêsu Nadarét, anh đã được nghe nhiều.
Ngài có thể làm người mù bẩm sinh sáng mắt.
Anh tin vào Ngài, thầm mong có ngày được gặp.
Bài
Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc hạnh ngộ ấy.
Rất tình cờ, Ðức Giêsu đi ngang qua đời anh.
Anh mù lòa, ngồi đó như chỉ chờ giây phút này.
Khi nghe biết là Ðức Giêsu cùng với đám đông đi qua,
anh thấy cơ may đã đến.
Tất cả sức mạnh của anh nằm ở tiếng kêu,
tiếng kêu thống thiết bi ai của một người đau khổ,
nhưng cũng là tiếng kêu đầy tin tưởng, hy vọng.
“Lạy ông Giêsu, Con vua Ðavít, xin thương xót tôi!”
Tiếng kêu báo hiệu một sự hiện diện, một cầu cứu.
Nhiều người muốn bịt miệng anh,
nhưng anh chẳng sợ gì đe dọa.
Càng bị đe dọa, anh càng gào to hơn nhiều.
Cuối cùng tiếng của anh đã đến tai Ðức Giêsu.
Ngài dừng lại và sai người đi gọi anh,
vì Ngài cũng chưa rõ anh đang ở đâu.
Khi biết mình được gọi, anh vội vã và vui sướng
vất bỏ cái áo choàng vướng víu,
nhẩy cẩng lên mà đến với Ðức Giêsu.
Anh đi như một người đã sáng mắt,
bởi thực ra mắt của lòng anh đã sáng rồi.
Khi được khỏi, lòng tin của anh thêm mạnh mẽ hơn.
Anh thấy lại mặt trời, anh gặp Ðấng cho anh ánh sáng.
Không ngồi ở vệ đường nữa, anh đứng lên đi theo Ðức Giêsu.
Rất tình cờ, Ðức Giêsu đi ngang qua đời anh.
Anh mù lòa, ngồi đó như chỉ chờ giây phút này.
Khi nghe biết là Ðức Giêsu cùng với đám đông đi qua,
anh thấy cơ may đã đến.
Tất cả sức mạnh của anh nằm ở tiếng kêu,
tiếng kêu thống thiết bi ai của một người đau khổ,
nhưng cũng là tiếng kêu đầy tin tưởng, hy vọng.
“Lạy ông Giêsu, Con vua Ðavít, xin thương xót tôi!”
Tiếng kêu báo hiệu một sự hiện diện, một cầu cứu.
Nhiều người muốn bịt miệng anh,
nhưng anh chẳng sợ gì đe dọa.
Càng bị đe dọa, anh càng gào to hơn nhiều.
Cuối cùng tiếng của anh đã đến tai Ðức Giêsu.
Ngài dừng lại và sai người đi gọi anh,
vì Ngài cũng chưa rõ anh đang ở đâu.
Khi biết mình được gọi, anh vội vã và vui sướng
vất bỏ cái áo choàng vướng víu,
nhẩy cẩng lên mà đến với Ðức Giêsu.
Anh đi như một người đã sáng mắt,
bởi thực ra mắt của lòng anh đã sáng rồi.
Khi được khỏi, lòng tin của anh thêm mạnh mẽ hơn.
Anh thấy lại mặt trời, anh gặp Ðấng cho anh ánh sáng.
Không ngồi ở vệ đường nữa, anh đứng lên đi theo Ðức Giêsu.
“Xin
thương xót tôi. Xin cho tôi nhìn thấy lại.”
Ðây có phải là tiếng kêu của tôi không?
Khả năng thấy là một khả năng mỏng dòn.
Ta có thể thấy điều này mà không thấy điều kia.
Tôi có thể lúc thấy lúc không, hay cố ý không muốn thấy.
Lắm khi tôi không đủ sức để ra khỏi sự mù lòa của mình.
Tôi có kêu gào với Chúa để xin được ơn thấy lại không?
Một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có thể mù lại.
Chính vì thế tôi cứ phải xin cho mình được thấy luôn.
Thấy mình bé nhỏ, thấy Chúa bao la, thấy anh em dễ mến.
Thấy là đi vào một con đường dài hun hút.
Chúng ta phải được Chúa xóa mù suốt đời.
Chỉ trong ánh sáng của Chúa, tôi mới nhìn thấy ánh sáng.
Ðây có phải là tiếng kêu của tôi không?
Khả năng thấy là một khả năng mỏng dòn.
Ta có thể thấy điều này mà không thấy điều kia.
Tôi có thể lúc thấy lúc không, hay cố ý không muốn thấy.
Lắm khi tôi không đủ sức để ra khỏi sự mù lòa của mình.
Tôi có kêu gào với Chúa để xin được ơn thấy lại không?
Một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có thể mù lại.
Chính vì thế tôi cứ phải xin cho mình được thấy luôn.
Thấy mình bé nhỏ, thấy Chúa bao la, thấy anh em dễ mến.
Thấy là đi vào một con đường dài hun hút.
Chúng ta phải được Chúa xóa mù suốt đời.
Chỉ trong ánh sáng của Chúa, tôi mới nhìn thấy ánh sáng.
Cầu Nguyện
Như người
mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin
cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho
con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin
cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu dãi vào bóng tối của con.
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu dãi vào bóng tối của con.
Như người
mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
28 THÁNG MƯỜI
Gương Mù Của Chia Rẽ
Mặc dù hiệp nhất là điều mà con
nguời sẽ chẳng bao giờ có thể tự mình đạt được, song chúng ta cũng phải tìm kiếm
hiệp nhất và cố gắng tranh thủ hiệp nhất. Hiệp nhất là một trong những đặc tính
của Giáo Hội, như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: ” … Giáo Hội duy nhất,
thánh thiện, công giáo, tông truyền.” Nhưng thực tế, trong Giáo hội duy nhất ấy
lại có tình trạng … bất hoà giữa các Kitôhữu.
Nhiệm vụ tái lập mối hiệp nhất
giữa tất cả những người tin vào Chúa Kitô ngày càng trở nên cấp bách. Những
chia rẽ trong quá khứ và hiện tại là một gương mù cho những người ngoài Kitô
giáo, những chia rẽ ấy là một sự đối nghịch rõ ràng với ý muốn của Chúa Kitô.
Chúng là trở ngại nghiêm trọng cho nỗ lực rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội.
Công cuộc đại kết đòi hỏi những
cố gắng không ngừng và những lời cầu nguyện tha thiết của chúng ta. Trước hết
phải nhận thức rằng mối hiệp nhất của Phép Rửa có ý nghĩa rất sâu xa và rất hàm
súc. Mối hiệp nhất này thực sự liên kết tất cả những người đã chịu Phép Rửa lại
với nhau, và cho họ được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Mối hiệp
nhất này tồn tại mãi mãi, bất chấp những khác biệt hay những chia rẽ. Lời của
Thánh Phaolô vẫn mãi còn xác thực: “Vì tất cả anh em đã được thanh tẩy trong Đức
Kitô và mặc lấy Đức Kitô, nên không còn Do thái hay Hy lạp, cũng không còn nô lệ
hay tự do, đàn ông hay đàn bà; vì tất cả anh em là một trong Đức Kitô Giêsu”
(Gl 3,27 – 28).
Chúng ta phải sẵn sàng cộng tác
với Đức Kitô và với các tín hữu khác để đạt được sự hiệp nhất trọn vẹn giữa các
môn đệ của Đức Kitô trên toàn thế giới. Chúng ta vui mừng nhìn thấy những bước
tiến đã đạt được trong lãnh vực đại kết. Chúng ta đã có những nỗ lực vượt qua
các thành kiến in hằn xưa nay, vượt qua những xét đoán sai lầm và những luận điệu
khích bác. Chúng ta đã hiểu biết nhau hơn và tôn trọng nhau hơn trong tình
huynh đệ. Đã có những bước tiến đáng kể trong cuộc đối thoại giữa các giáo hội
và trong sự cộng tác giữa các Kitôhữu trong việc phục vụ cho nhân loại. Chúng
ta ngày càng có được nhiều cơ hội hơn để cầu nguyện chung giữa các Kitô hữu – trong
sự tôn trọng các truyền thống khác biệt. Tất cả chúng ta hãy tiếp bước trên con
đường tiến đến sự hiệp nhất trọn vẹn trong Đức Kitô. Chúng ta tràn trề hy vọng
mong chờ một ngày chúng ta sẽ thực sự nên một như Chúa Cha và Chúa Con là một.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 28/10
Chúa Nhật XXX thường niên
LỜI SUY NIỆM: “Lạy ông Giêsu, Con vua
Đavít, xin rủ lòng thương tôi!” Nhiều người quát nạt anh ta im đi, nhưng anh ta
càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi!”
Lời kêu xin của anh mù tại Giêrikhô, cho chúng ta thấy anh đang ngồi bên vệ đường,
nơi mà có rất nhiều người qua lại, gặp gỡ chuyện trò, hỏi thăm nhau và trao đổi
mua bán, thế mà người mù này vẫn cô đơn mà còn bị hất hủi; khi anh ta kêu xin
Chúa Giêsu: “Lạy ông Giêsu, xin rủ lòng thương tôi.”, nhưng đám đông không muốn
tiếng kêu xin của anh đến tai Chúa Giêsu, nên: “Nhiều người quát nạt bảo anh ta
im đi.”
Lạy Chúa Giêsu, anh mù ở Giêrikhô đã không xin Chúa cơm áo, khi anh cô đơn đói
khổ, nhưng xin cho được nhìn thấy. Xin cho chúng con đừng mù trước ánh sáng của
Chúa, để mắt được sáng, mà bước theo con đường Chúa đi.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 28-10
Tân ước ngoài việc đặt thánh
Simon vào danh sách nhóm 12, đã không cung ứng một chỉ dẫn trực tiếp nào liên
quan đến vị tông đồ này. Ngài được phân biệt với Simon Phêrô bằng danh hiệu
“nhiệt thành” (Lc 6,15; Cv 1,13), một danh hiệu không có ý nói rằng: Ngài là phần
tử thuộc nhóm quá khích Do thái mang tên này, nhưng chỉ cho biết nhiệt tâm của
Ngài đối với lề luật. Theo tiếng Aram, nhiệt thành là “Cana”.
Điều này giải thích tại sao các
thánh sử nhất lãm gọi Ngài là người xứ Cana (Mt 10,4; Mc 3,18). Có người cho rằng
sinh quán của người là Galilêa. Một truyền thống còn nói thánh Simon là chàng rể
phụ trong tiệc cưới tại Cana (Ga 2,1-12). Sách các thánh tử đạo kể rằng Simon
sau khi chứng kiến phép lạ của Chúa Kitô, đã “bỏ rượu”, bỏ lễ cưới để theo Chúa
Kitô và được liệt vào số các tông đồ. Thực sự, chẳng có chứng cớ lịch sử nào
nói tới việc này.
Cũng như thánh Giacôbê Hậu, có lẽ
thánh Simon là một trong các “anh em của Chúa” (Mc 6,3). Nhưng người ta không
thể đồng hóa thánh tông đồ với thánh Simon mà theo truyền thống là Đấng kế vị
anh mình làm giám mục Giêrusalem.
Chúng ta không thu lượm được chi
nhiều về hoạt động và cái chết của vị tông đồ. Có những tường thuật cho rằng:
Ngài đi truyền giáo ở Phi Châu và các đảo Britania. Những tường thuật này không
có nền tảng. Một truyền thống khác cho rằng Ngài đi truyền giáo ở Ai cập và cuối
cùng ở Batư. Truyền thống này đáng tin hơn.
Nhiều nguồn tài liệu đồng ý cho
rằng Ngài chịu tử đạo ở Batư. Một số ít hơn nói rằng Ngài cùng chịu tử đạo với
thánh Giuda. Dầu vậy, vì không có tài liệu nào đủ tính cách cổ kính nên khó nói
rõ về nơi chốn và hoàn cảnh thánh nhân qua đời.
**************
Vị tông đồ này mang nhiều tên
khác nhau như Tadêo (Mt 10,3; Mc 3,18) hay Giuda (Lc 6,16; Cv 1,13).
Chính Ngài là vị tông đồ trong
cuộc đàm luận sau bữa tiệc ly đã hỏi Chúa Giêsu: – Thưa Thày, tại sao Thày tỏ
mình ra cho chúng con mà không cho thế gian ?
Chúng ta có thể đồng hóa Ngài với
tác giả bức thư, trong đó có trình bày Ngài là: “Giuda, nô lệ của đức Giêsu
Kitô, anh em với Giacobê” (Gl 1) không ? Thực sự tiếng Hy lạp phải đọc câu văn
này như ở Lc 6,16 là: “Giuda, con của Giacôbê”. Hơn nữa câu 17 của bức thư, tác
giả như tách mình ra khỏi số 12. Dĩ nhiên, điều này không làm giảm giá sự chính
lục của bức thư. Có thể nói, tác giả “anh em với Chúa” (Mc 6,3) không phải là
tông đồ nhưng có thể giá trong Giáo hội sơ khai như Giacôbê (Cv 15,13).
Thánh Giuda tông đồ, theo truyền
thống, đã đi rao giảng Tin Mừng ở Mesopotamina và chịu tử đạo ở đó.
Một thời Ngài được tôn kính như đấng
bảo trợ cho các trường hợp “vô vọng”. Lòng sùng kính này bị quên lãng, có lẽ vì
Ngài trùng tên với Giuda phản bội.
(daminhvn.net)
28 Tháng Mười
Chuyến Xe Cuộc Ðời
Cách đây hơn một trăm năm, khi đường
sắt vừa mới được phát minh, nhu cầu đi lại mỗi lúc một bành trướng, một văn sĩ
nọ, trong quyển lịch sử của xe lửa và đường sắt, đã ghi ra một số chỉ dẫn cho
hành khách. Trong một chương có tựa đề “Những lời khuyên trước khi lên đường”,
ông đã đưa ra vài căn dặn như sau: “Trước khi bắt đầu cuộc hành trình, hành
khách nên quyết định: mình sẽ đi đâu, sẽ lên chuyến xe lửa nào và ở đâu, tại nơi
nào sẽ đổi tàu…”.
Trong một đoạn khác, ông nhắc nhủ
hành khách như sau: “Khuyên quý khách mang theo hành lý càng ít bao nhiêu càng
tốt… Riêng với các bà, các cô, không được phép mang quá ba hành lý và năm gói
nhỏ”.
Những lời khuyên trên đây xem chừng
như không có chút giá trị nào đối với hệ thống đường sắt hiện tại ở Việt Nam.
Chen chúc nhau để có được một chỗ ngồi thích hợp, đã là quá lắm rồi, còn chỗ
đâu để xác định số hành lý phải mang theo.
Nhưng dù thanh thản trong một
con tàu đầy tiện nghi, hay chen chúc nhau trong một wagon chật hẹp bẩn thỉu, mỗi
khi bước vào xe lửa, ai trong chúng ta cũng được mời gọi để tưởng nghĩ đến chuyến
đi của cuộc đời… Ðời cũng là một chuyến đi.
Bước lên chiếc xe lửa của cuộc đời,
ai trong chúng ta cũng được mời gọi để chuẩn bị cuộc hành trình bằng một số câu
hỏi cơ bản: tôi sẽ đi về đâu? Tôi phải mang những gì cần thiết cho cuộc hành
trình?
Trên một số tuyến đường liên tỉnh
tại Phi Luật Tân, thỉnh thoảng hành khách có thể đọc được một bảng hiệu có thể
làm cho họ phải giật mình suy nghĩ: có thể đây là chuyến đi cuối cùng của bạn.
Thật ra, ít có ai khi lên đường, lại có ý nghĩ ấy. Có lẽ người ta nghĩ đến công
việc, nghĩ đến gia đình, nghĩ đến những thú vui đang chờ đợi hơn là phải dừng lại
với ý nghĩ của một cái chết bất ngờ.
Thái độ khôn ngoan nhất mà Chúa
Giêsu thường lặp lại trong Tin Mừng của Ngài: đó là “Các con hãy tỉnh thức, vì
các con không biết ngày nào, giờ nào”. Con người sinh ra để chết. Nói như thế
không hẳn là một phát biểu bi quan về cuộc đời, mà đúng hơn là một cái nhìn
trong suốt về hướng đi của cuộc đời.
Giá như ai trong chúng ta cũng
biết rằng: công việc ta đang làm trong giây phút này đây là công việc cuối cùng
trong cuộc đời, thì có lẽ mọi việc đều có một ý nghĩa và một mục đích khác hẳn.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét