24/11/2018
Thứ bảy tuần 33 thường niên.
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO TẠI VIỆT NAM.
Bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam.
Lễ Trọng.
* Hôm nay, phụng vụ kính nhớ
117 chứng nhân tử đạo Việt Nam. Các vị đã được tôn phong chân phước trong bốn đợt:
Năm 1900, đức giáo hoàng Lê-ô XIII tôn phong 64 vị; đức giáo hoàng Pi-ô X tôn
phong 8 vị năm 1906 và 20 vị năm 1909. Năm 1912, đức giáo hoàng Pi-ô XII tôn
phong 25 vị. Tất cả 117 vị đều được đức giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn
phong hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Trong nhiều giai đoạn lịch
sử khác nhau, kể từ lúc Tin Mừng bắt đầu được loan báo tại Việt Nam, thế kỷ
XVI, cho đến cuộc bách hại khốc liệt thế kỷ XIX, đã có nhiều chứng nhân anh
dũng cả người Âu lẫn người Việt hy sinh thân mình vì Chúa Kitô.
Hồ sơ phong thánh và Các Giờ
Kinh Phụng Vụ đặc biệt chú ý đến các tên tuổi sau: Người Việt Nam: thánh
Anrê Dũng Lạc, linh mục (+1839), thánh Tôma Trần văn Thiện, chủng sinh
(+1838), thánh Phaolô Lê bảo Tịnh, linh mục (+1857), thánh Em-ma-nu-en Lê văn
Phụng, giáo lý viên và người cha trong gia đình (+1859). Các tu sĩ Đaminh người
Tây Ban Nha, thuộc Tỉnh Dòng Mân Côi: thánh Giêrônimô Hécmôxila Liêm,
giám quản tông tòa địa phận Đông đàng ngoài (+1861), thánh Valentinô Beriô
Ô-choa, giám mục (+1861) và một vị người Pháp thuộc Hội Thừa Sai Pari, thánh
Tê-ô-phan Vêna (+1861).
BÀI ĐỌC
I: Kn 3, 1-9
“Chúa chấp nhận
các ngài như của lễ toàn thiêu”.
Trích
sách Khôn Ngoan.
Linh
hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được
các ngài. Đối với con mắt của người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã
chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật
ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài có chịu khổ
hình, lòng trông cậy của các ngài cũng không chết. Sau một giây lát chịu khổ nhục,
các ngài sẽ được vinh dự lớn lao; vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng
trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.
Khi đến
giờ Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu toả
ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét sử các dân tộc, sẽ thống trị
các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đã tin
tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu,
vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn. Đó là Lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6
Đáp:
Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan (c. 3).
Xướng:
1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như Người đang
mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân
hoan. – Đáp.
2) Bấy
giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: “Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng”.
Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. –
Đáp.
3) Lạy
Chúa, xin hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong
lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. – Đáp.
4)
Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về hân hoan, vai mang
những bó lúa. – Đáp.
Khi mừng
theo bậc Lễ Trọng thì có Bài Đọc II này:
BÀI ĐỌC
II: 1 Cr 1, 17-25
“Vì tiếng nói
của Thập Giá là sức mạnh của Thiên Chúa ban cho chúng ta”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh
em thân mến, Đức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là rao giảng Tin Mừng, không
phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo Thập giá của Đức Kitô ra hư không.
Vì
chưng lời rao giảng về Thập giá là sự điên rồ đối với những kẻ hư mất; nhưng đối
với những người được cứu độ là chúng ta, thì điều đó là sức mạnh của Thiên
Chúa. Vì như đã chép rằng: “Ta sẽ phá huỷ sự khôn ngoan của những kẻ khôn
ngoan, sẽ chê bỏ sự thông thái của những người thông sáng. Người khôn ngoan ở
đâu? Người trí thức ở đâu? Người lý sự đời này ở đâu?” Nào Thiên Chúa chẳng làm
cho sự khôn ngoan của đời này hoá ra điên rồ đó sao? Vì thế gian tự phụ là
khôn, không theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà nhận biết Thiên Chúa, thì
Thiên Chúa đã muốn dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu độ những kẻ tin. Vì
chưng, các người Do-thái đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy-lạp tìm kiếm sự
khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập
giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại
giáo. Nhưng đối với những người được gọi, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, thì Ngài
là Chúa Kitô, quyền năng của Thiên Chúa, và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì sự
điên dại của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và sự yếu đuối
của Thiên Chúa thì vượt hẳn sức mạnh của loài người. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA:
1 Pr 4, 14
Alleluia,
alleluia! – Nếu anh em bị sỉ nhục vì danh Chúa Kitô, thì phúc cho anh em, vì
Thánh Thần Chúa sẽ ngự trên anh em. – Alleluia.
PHÚC
ÂM: Mt 10, 17-22
“Các con sẽ bị
điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại
biết”.
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy coi chừng người đời, vì họ
sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các
con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và
cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng
lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì. Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải
nói gì: vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các
con nói trong các con. Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha
mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen
ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm: Cảm
Mến Công Ơn Của Các Anh Hùng Tử Ðạo
Ngày
lễ Các Thánh Tử Ðạo Việt Nam là dịp để chúng ta ca tụng Thiên Chúa đã làm những
việc vĩ đại trên Quê hương Ðất nước và nơi Dân tộc anh hùng chúng ta. Chúng ta
chiêm ngưỡng lại khuôn mặt đẹp đẽ và ý chí quật cường của bao bậc tiền bối.
Chúng ta học để quý mến sự sống mà chúng ta đang mạng trong mình và do các ngài
để lại. Và chúng ta sẽ cố gắng phát huy cơ nghiệp mà tiền nhân đã hy sinh mạng
sống để giữ lại cho chúng ta.
A. Cảm
Mến Công Ơn Của Các Anh Hùng Tử Ðạo
Bài
sách Macabê thuật lại câu truyện tử đạo của một gia đình 7 mẹ con ở thời Cựu Ước.
Ðó là một gia đình không tên không tuổi; và vì thế được phụng vụ coi như là
tiêu biểu cho bao bậc tử đạo vô danh. Chúng ta có thể tựa vào câu truyện ấy để
nhắc tới những bậc tử đạo quá nhiều trên Ðất nước chúng ta.
Thực
vậy, Hội Thánh Việt Nam có nhiều tử đạo bậc nhất thế giới: xét cả về tổng số, cả
về tỷ số... Người ta đã nói tới con số 300,000 tử đạo ở Việt Nam. Ðược mấy Giáo
hội có nhiều tử đạo như vậy! Và con số 300,000 kia ở thời bấy giờ, chắc phải
chiếm tới 3, 4 phần trăm tổng số tín hữu. Chúng ta rùng mình khi nghĩ đến điều ấy.
Nhưng thật như lời người ta nói: máu tử đạo làm nảy sinh kẻ có đạo. Chính Ðức
Yêsu cũng đã dạy trong Phúc Âm: hạt thóc có rơi xuống đất, thối đi thì mới mọc
lên cây, đem lại mùa màng phong phú. Chúng ta ngày nay có đời sống đạo, là nhờ
có đông đảo tiền nhân đã cương quyết giữ vững niềm tin cho đến cùng� Chắc chắn có nhiều bậc phụ huynh
ngồi đây, nhiều gia đình Công giáo ở bên cạnh chúng ta có thể tính lên đời thứ
ba thứ tư và gặp thấy một hay nhiều tử đạo trong gia tộc của mình. Ít nhất ai
cũng nói được rằng tổ tiên của mình đã phải giữ đạo một cách rất vất vả. Và tất
cả chúng ta đều là con cháu các tử đạo theo cả hai nghĩa thiêng liêng và xác thịt.
Ðiều
đó chắc chắn không cần phải nói thêm. Nhưng phải nói lên điều này, là: 300,000
tử đạo kia là một đoàn thể đông đảo đủ mọi màu sắc, khác nào một cánh đồng bát
ngát đủ mọi sắc hương. Giám mục, linh mục và tu sĩ nam nữ có; nhưng số giáo dân
đông hơn nhiều. Và già có, trẻ có; thanh niên, phụ nữ, nhi đồng cũng có: không
thiếu một hạng người nào. Ðặc biệt hơn nữa là rất nhiều người đã tử đạo trong y
phục lý trưởng cũng như quân nhân. Họ là những người dân tốt, phục tùng Nhà nước,
làm việc tận tâm, được lòng quan chức nêu gương cho mọi người.
Tổng
đốc Trịnh Quang Khanh là viên chức có lẽ đã giết rất nhiều tín hữu ở miền Bắc.
Thế mà dưới quyền ông vẫn có nhiều người lính có đạo. Và những người này nhiều
khi lại gương mẫu và xuất sắc. Ông quý mến họ và ra sức dụ dỗ họ bỏ đạo... Ông
không hiểu rằng chính đức tin họ đang giữ là động lực cho đời sống công dân tốt
lành kia. Thấy họ cương quyết trung thành với tín ngưỡng đang khi vẫn nhiệt
tình với chức năng, ông tìm cách bao che cho họ. Nhưng họ không chịu. Ông Huy,
ông Thể, ông Hiếu và nhiều người khác dưới quyền Trịnh Quang Khanh đã ra xưng đạo,
trước sự khâm phục và xót thương của bao nhiêu chiến sĩ, không cùng một quan điểm
tôn giáo nhưng không thể không cảm mến những người chiến hữu và đồng bào giá trị
như vậy.
Chúng
ta không thể kể hết ở đây về đời sống gia đình, xã hội của các Tử đạo Việt Nam.
Chúng ta thường chỉ biết các ngài tử đạo nghĩa là chịu chết vì đạo. Cùng lắm
chúng ta chỉ hay nghĩ tới lòng can đảm, chí chịu đựng của các ngài khi bị tra tấn,
hành hạ. Nhưng chúng ta cần phải biết: Tử đạo là ơn rất lớn. Nó đưa thẳng người
ta về thiên quốc và lên bàn thờ các thánh ngay ở đời này. Một ơn như vậy không
dành cho bất cứ một người nào đâu, nhưng chỉ dành để cho những phần tử ưu tú được
Chúa lựa chọn. Ở thời các tử đạo, rất nhiều tín hữu đã bị bắt. Có những người
đã chối Chúa. Vì họ không mến đủ! Và sở dĩ như vậy vì như lời thánh Yoan nói:
người ta không mến Chúa vô hình khi không yêu mến Người nơi anh em hữu hình.
Các tử đạo, dù ở chức năng nào, trước khi tuyên chứng lần cuối cùng về lòng yêu
mến Ðấng vô hình, cũng đã trải qua nhiều thử thách trong đời sống phục vụ tha
nhân. Chúng ta cứ đọc lại mà xem! Hết mọi hạnh thánh tử đạo Việt Nam đều kể rằng
trước khi ra pháp trường hay chịu chết trong ngục để xưng đạo, các ngài đã là
những người mẹ, người cha chu toàn phận sự gia đình; những người chồng người vợ
thi hành tốt mọi phận sự công dân; những người con hiếu thảo và những người
lính dũng cảm; những y sĩ và lý trưởng được đồng bào quý mến việc phục vụ. Bởi
vì không ai có thể trở thành công dân Nước Trời sau này, nếu đã không là những
công dân tốt trên mặt đất.
Ngay
cái chết của các tử đạo Việt Nam cũng khiến chúng ta phải suy nghĩ về khía cạnh
vừa nói. Anh em Macabê được tử đạo trong một hoàn cảnh đơn giản hơn. Họ là những
người Israel bị ngoại xâm Batư bắt phải bỏ đạo của tổ tiên. Trong một cái chết
họ đã tỏ ra trung thành với Thiên Chúa và Tổ Quốc. Trường hợp các tử đạo Việt
Nam éo le hơn. Những người bắt các ngài bỏ đạo lại là vua quan "phụ mẫu
chi dân". Thế nên các ngài không có một lời nào xúc phạm đối với các quan
tòa. Và cho đến lúc chết các ngài vẫn chứng tỏ đã chu toàn tốt đẹp mọi nghĩa vụ
xã hội. Các ngài đã chết trong tình mến Chúa yêu người và thương nhà thương Nước.
Các ngài đã hy sinh mạng sống cho đức tin và chân lý ở trên giải đất này... Cho
nên Giáo hội toàn cầu chỉ biết các ngài là tử đạo của Việt Nam.
Do đó
khi mừng lễ các ngài, chúng ta phải biết để ý đến nét Việt Nam nơi các ngài.
Chúng ta phải soi gương các ngài chu toàn các nhiệm vụ xã hội một cách thánh
thiện. Và cho được như vậy chúng ta phải tìm hiểu động lực bên trong thúc đẩy đời
sống của các ngài.
Bài
thư Phaolô có thể giúp chúng ta làm công việc này.
B. Ði
Theo Ðường Lối Của Các Tử Ðạo
Quả
thật các Tử đạo Việt Nam có thể mượn những lời thư Phaolô hôm nay để nói với
chúng ta. Một đàng các ngài không giấu giếm sự thật. Bí quyết khiến các ngài có
thể vượt thắng trăm ngàn thử thách là chính sự sống và sự sống lại của Chúa
Yêsu trong thân xác yếu hèn của các ngài. Các ngài nói: chúng tôi chứa đựng những
kho tàng ấy trong những bình sành để biết rằng quyền lực vô song ấy là của
Thiên Chúa chứ không phải phát xuất tự chúng tôi. Các ngài chịu khổ cực tư bề
nhưng không bị đè bẹp, bị bắt bớ nhưng không bị bỏ rơi... bởi vì sự sống của Ðức
Kitô tỏ hiện nơi thân xác của các ngài. Chính Ðức Kitô trong bài Tin Mừng cũng
đã nói không phải các tử đạo ở trước tòa nhưng là Thánh Thần nói trong các
ngài.
Và để
có Thánh Thần và sự sống của Ðức Kitô ở trong mình như vậy, các tử đạo đã phải
hư vô hóa mình, tức là chết cho bản thân, không sống theo xác thịt tự nhiên nữa,
nhưng theo Thần trí của Ðức Kitô, tức là đường lối của Người. Hết mọi tử đạo đều
đã chết cho đức tin và vì đức tin; nhưng đức tin ở đây không phải là một hệ thống
tư tưởng vũ trụ nhân sinh quan mà là đức tin sống động, tin Thiên Chúa và tin Ðức
Yêsu Kitô đã yêu thương mình cho đến chết. Ðó là đức tin đầy lòng mến và đầy
lòng trông cậy, chắc chắn rằng nếu cùng chết với Ðức Kitô và vì Ðức Kitô thì sẽ
được sống lại với Ngài và được đồng thừa tự với Ngài. Thế nên, các tử đạo là những
người đầy Chúa Yêsu sau khi đã tát cạn bản ngã và các khuynh hướng xấu xa ở nơi
mình.
Và
cũng chính nhờ đó mà đàng khác, các vị tử đạo trước khi hy sinh mạng sống mình
vì Chúa, đã có một đời sống xã hội đáng khâm phục. Ðiều này cũng rất dễ hiểu! Lời
thư Phaolô viết: sự chết hoành hành nơi chúng tôi còn sự sống hoạt động nơi anh
em. Các tử đạo cũng có thể nói: chúng tôi đã chết cho bản thân để sự sống tăng
trưởng nơi anh em. Thật vậy, con người đã chết đi cho chính mình, thì sống cho
Chúa. Nhưng đối với họ, Thiên Chúa không phải chỉ là Ðấng Vô hình, mà hơn nữa
còn là Ðấng đang hiện diện trong Hội Thánh và trong anh em. Mọi hành vi làm cho
người anh em nhỏ mọn nhất là làm cho Chúa. Thành ra các đấng thánh là những người
nhìn thấy Thiên Chúa ngay ở đời này và cụ thể trên mặt đất này nơi Hội Thánh và
nơi anh em. Và vì họ không còn sống cho chính bản thân và vì bản thân nữa, nên
mọi phục vụ của họ chỉ còn quy vào một đối tượng. Ðó là Thiên Chúa nơi tha
nhân... Ðó là tha nhân trong cái nhìn của đức tin và lòng mến. Các tử đạo làm tốt
các nhiệm vụ xã hội là vì thế. Và mọi người thật có lý để nghi ngờ những kẻ đã
phản bội đức tin của mình.
Như
thế, nếu hôm nay mừng lễ các Tử đạo Việt Nam, chúng ta phải để ý đến nét Việt
Nam nơi các ngài, tức là phải soi gương các ngài trong đời sống xã hội phục vụ
anh em đồng bào, thì chúng ta � người có đức tin � phải luôn duy trì và phát triển động
lực thúc đẩy đời sống xã hội kia tức là Thánh Thần và Ðức Kitô ở trong mình. Và
cho được như vậy, chúng ta phải mang sự chết của Ngài trong thân xác, là biết
chết cho bản thân và các khuynh hướng vị kỷ. Phải làm như vậy mới đi vào được
đường lối của các tử đạo và mới có thể theo các ngài cho đến cùng. Bởi vì muốn
nên giống các ngài hoàn toàn, chúng ta không những phải biết sống như các ngài
mà còn phải biết chết như các ngài. Mà muốn chết như các ngài, chúng ta phải sống
đạo như trên mà vẫn không quên Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay.
C.
Tin Tưởng Như Các Tử Ðạo
Chúa
nhắc nhở chúng ta biết số phận thông thường của các môn đệ Người: "Người
ta sẽ bắt bớ các con". Và trong sách Tin Mừng Yoan, Người còn nói rõ hơn:
đó là điều thật dễ hiểu, vì tôi tớ không trọng hơn Thầy. Có lạ chăng là việc thế
gian yêu các con chứ các con có thuộc về thế gian nữa đâu mà thế gian quý mến
các con! Và lịch sử làm chứng Hội Thánh của Ðức Yêsu, Hội Thánh tiếp nối sứ mạng
cứu thế của Người, luôn luôn có các tử đạo, không ở nơi này thì ở nơi khác,
không dưới hình thức này thì dưới hình thức khác. Ðó là mầu nhiệm, nhưng là mầu
nhiệm tương đối dễ hiểu.
Sứ mệnh
của Ðức Yêsu cũng như của Hội Thánh Người là sứ mệnh tuyên chứng. Tuyên chứng về
chân lý, về những chân lý siêu phàm; thế mà chân lý thì như ánh sáng và thế
gian đã bị tối tăm bao phủ nên luôn luôn muốn vùi dập ánh sáng. Và cũng đồng thời
tuyên chứng về tình yêu, tình yêu của Thiên Chúa yêu thương loài người và chẳng
tình yêu nào lớn bằng tình yêu nơi người hy sinh mạng sống vì người mình muốn
yêu.
Thế
nên chính khi chịu chết vì đạo, người tín hữu trở thành chứng tá hoàn toàn hơn
cả. Cái chết của họ vừa nói lên niềm tin chắc chắn, vừa nói lên tình mến tận
cùng. Chỉ những kẻ có niềm tin yếu ớt mới sợ tử đạo. Nhưng nếu chúng ta yếu thì
đã có Chúa ban Thánh Thần của Người đến nâng đỡ sự yếu đuối nơi chúng ta. Và việc
này tùy ở chúng ta trong lúc bình thường có cầu xin và sống đạo để nhận được
nhiều Thánh Thần hay không?
Giờ
đây chúng ta cử hành thánh lễ. Chung quang bàn thờ này hiện diện vô hình đoàn
thể các tử đạo Việt Nam. Các ngài ước mong chúng ta dâng lễ này sốt sắng và hiệu
quả. Nếu chúng ta cầu xin và nhất là phó thác bản thân trong tay Chúa thì Người
sẽ ban sự sống của Chúa Yêsu và Thánh Thần của Người cho chúng ta. Chính Thánh
Thần sẽ là sức mạnh cải tạo cho chúng ta một nếp sống mới để chúng ta dần dần sống
bớt đi cho mình và nhiều hơn cho Chúa, tức là cho Người ở trong anh em. Như vậy
chúng ta sẽ có đời sống trần gian này tốt để chúng ta cũng sẽ chết tốt như các
tử đạo. Chúng ta sẽ tuyên xưng Chúa khi sống và khi chết. Chúng ta sẽ khơi được
lòng ngưỡng mộ của mọi người. Chúng ta sẽ xứng đáng với tổ tiên đức tin của
mình, những vị mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Các Thánh Tử Đạo Việt-Nam
Bài đọc: II Mac 7:1, 20-23, 27b-29; Rom 8:31b-39; Lk
9:23-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự sống, tình yêu, và sự đau khổ
Sự sống,
tình yêu, và đau khổ là ba mầu nhiệm khó hiểu trong cuộc sống con người; vì thế,
không phải ai cũng hiểu đúng. Chẳng hạn khi nói về nguồn gốc của sự sống, có
người cho là do cha mẹ, có người cho là tự nhiên, có người cho là từ Thiên
Chúa. Hay khi phải định nghĩa tình yêu, có người định nghĩa “yêu là chết trong
lòng một ít;” có người cho là “cùng nhìn về một hướng;” hay “yêu ai là muốn mọi
sự tốt đẹp cho người ấy.” Khi nói về đau khổ, quan niệm của nhà Phật cho “cần
diệt dục để tránh đau khổ;” trong khi Kitô giáo quan niệm con người không thể
tránh đau khổ, và nó cần thiết để con người chứng tỏ niềm tin yêu nơi Thiên
Chúa.
Các
Bài Đọc trong ngày Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay giúp chúng ta thấu hiểu
tại sao các bậc tiền nhân của chúng ta sẵn sàng hy sinh thân mình để làm chứng
cho Chúa. Trong Bài Đọc I, bà mẹ của bảy anh em nhà Maccabees xác tín: Thiên
Chúa là Đấng ban sự sống và hơi thở cho con người. Ngài sẽ trả lại sự sống cho
ai trung thành làm chứng cho Ngài. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô diễn tả tình
yêu của Thiên Chúa dành cho con người qua biến cố Nhập Thể của Đức Kitô, Người
Con của Ngài; để gánh tội cho nhân loại. Một khi đã cảm nhận được tình yêu
Thiên Chúa, không một ai hay một quyền lực nào có thể ngăn cản con người đáp lại
tình yêu của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Đức Kitô mặc khải cho con người nghệ
thuật sống theo thánh ý Thiên Chúa. Đây là cách sống duy nhất mang lại sự sống
đầy tràn cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và
sự sống.
1.1/ Ai
ban cho con người hơi thở và sự sống? Vua Antiochus nghĩ mình có quyền trên sự sống của bảy anh em nhà
Maccabees; nên bắt bảy anh em cùng với bà mẹ thay đổi tôn giáo bằng cách cho lấy
roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Moses cấm. Sách
Khôn Ngoan còn nói rõ hơn: những kẻ ngông cuồng muốn tra tấn như thế để thử xem
Thiên Chúa có đến cứu những ai tin cậy Ngài hay không!
Là
con người, ai cũng ham sống và sợ chết; tại sao bà mẹ vẫn bình tĩnh khi chứng
kiến bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày? Có phải người mẹ và bảy
anh em nhà Maccabees khinh thường sự sống? Trình thuật hôm nay nói rõ lý do: Bà
mẹ là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà vẫn can
đảm chịu đựng được là nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa.
Là
người cưu mang tất cả các con, mà Bà lại nói với các con: “Mẹ không rõ các con
đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự
sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con.
Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc
muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở
và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình.”
Theo
niềm tin Kitô giáo, Thiên Chúa ban sự sống cho con người bằng các ban hơi thở
và thần khí, Ngài có quyền chấm dứt sự sống của con người bằng cách rút hơi thở
ra. Hơn nữa, Ngài còn có quyền ban lại sự sống đời đời cho con người, nếu họ
trung thành làm chứng cho Ngài.
1.2/
Tình yêu mạnh hơn đau khổ và sự chết: Tình mẫu tử được con người ở mọi nơi và mọi thời ca tụng, vì sự
hy sinh chịu đựng của người mẹ dành cho con mình. Rất nhiều bà mẹ đã hy sinh cuộc
sống cả đời cho tương lai của con cái; và nếu có phải chết vì con, nhiều bà mẹ
cũng sẵn sàng hy sinh để con được sống. Tuy nhiên, tình mẫu tử chỉ là phản ánh
của tình yêu Thiên Chúa, chính Ngài đã phú bẩm tình yêu của Ngài vào các bà mẹ
để họ sẵn sàng hy sinh cho con cái. Vì thế, khi phải chọn giữa Thiên Chúa và
con cái, các bà chọn Thiên Chúa, vì các bà biết Thiên Chúa sẽ trả lại con cái
cho các bà. Chúng ta cảm nhận được niềm tin này qua lời của bà mẹ nói với người
con út: “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã
nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và
muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và
loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy
tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương
xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ.”
2/ Bài
đọc II: Không có gì tách được chúng ta ra khỏi
tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô.
2.1/
Tình yêu Thiên Chúa dành cho con người: được diễn tả rất hay và đầy đủ qua ngòi
viết của thánh-sử Gioan:
“Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của
Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Jn 3:16). Không phải chỉ
Thiên Chúa Cha yêu thế gian, mà Người Con cũng yêu thế gian qua sự kiện Ngài sẵn
sàng chấp nhận cái chết đau thương trên Thập Giá: “Không có tình thương nào cao
cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Jn
15:13). Tuy con người chưa bao giờ nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng khi nhìn lên Thập
Giá, con người cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa. Thánh Phaolô rút ra hai hệ luận
quan trọng từ tình yêu vô biên của Thiên Chúa:
(1)
Thiên Chúa không tiếc con người bất cứ điều gì: Thánh Thomas Aquinas nói: yêu
ai là muốn mọi sự tốt lành cho người ấy. Thiên Chúa yêu con người và muốn cho
con người mọi sự tốt lành như Phaolô diễn tả: “Đến như chính Con Một, Thiên
Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người
Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” Ngài còn rất
nhiều quà tặng cho con người, và quà tặng quí giá nhất là cho chúng ta được sống
đời đời với Ngài trên Thiên Đàng.
(2)
Tình yêu Thiên Chúa không quan tâm đến việc xét xử: Nhiều người sợ Thiên Chúa
và coi Ngài như vị hung thần chỉ chờ con người phạm tội là ra tay trừng phạt.
Phaolô hoàn toàn chống lại quan niệm này: “Ai sẽ buộc tội những người Thiên
Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ?
Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu
Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?” Thánh Gioan đồng ý với quan niệm này và
cắt nghĩa rõ hơn: Con người xét xử chính mình khi không tin vào Đức Kitô là Con
Thiên Chúa: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để
lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai
tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi,
vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Jn 3:17-18).
2.2/
Tình yêu con người dành cho Thiên Chúa: Tình yêu chỉ hoàn hảo khi người được yêu chấp nhận tình yêu của
người cho đi; nếu không, muôn đời nó chỉ là tình đơn phương. Để có thể đáp trả
tình yêu Thiên Chúa, con người phải cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa dành cho
họ. Trong cuộc tử đạo của vị thánh trẻ Anrê Phú Yên, ngài khuyên các tín hữu
đang thương khóc ngài những lời cuối cùng: “Anh chị em: chúng ta phải lấy tình
yêu để đáp trả tình yêu, lấy mạng sống để đáp trả mạng sống!” Nếu Đức Kitô đã
yêu thương và chết cho chúng ta, đến lượt, chúng ta cũng phải yêu thương và chết
để làm chứng tình yêu của chúng ta dành cho Ngài.
Chấp
nhận hy sinh và chịu đau khổ là hai dấu chứng chắc chắn để bày tỏ tình yêu.
Thánh Phaolô chắc chắn đã cảm nhận được tình yêu của Đức Kitô dành cho, nên đã
đặt câu hỏi cho mình và cho các tín hữu: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình
yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt
bớ, gươm giáo?”
Chấp
nhận đau khổ không nhất thiết là hậu quả của tội lỗi một người gây ra. Như Đức
Kitô, Đấng không bao giờ phạm tội, mà Thiên Chúa muốn Ngài gánh mọi hình phạt của
tội lỗi con người. Noi gương Đức Kitô, các môn đệ của Ngài cũng phải chịu đau
khổ để đền tội cho mình và cho mọi người, như có lời chép: “Chính vì Ngài mà mỗi
ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh” (LXT 43:23, RSV 44:22).
Và thánh Phaolô kết luận: “không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của
Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.”
3/
Phúc Âm: Ai được cả thế giới mà phải đánh mất
chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?
3.1/ Nghệ
thuật sống trên đời: Biết sống
là một nghệ thuật phải học, vì không phải ai cũng biết sống. Nhiều người tìm đọc
cuốn Nghệ thuật Đắc Nhân Tâm của Dale Carnegie, vì ông dạy cho
con người biết sống. Tuy nhiên, nếu so sánh sách này với sự dạy dỗ của Đức Kitô
dành cho các môn đệ, những lời chỉ giáo của Đức Kitô vượt xa những khôn ngoan của
con người.
(1)
Ba điều kiện để làm môn đệ Đức Kitô: Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo
tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.”
– Từ
bỏ chính mình: Đây có lẽ là điều khó làm nhất, vì nó đòi con người phải từ bỏ ý
riêng của mình để sống hoàn toàn theo thánh ý Chúa trong mọi sự.
– Vác
thập giá hằng ngày của mình: Thập giá hằng ngày là tất cả những bệnh tật, hiểu
lầm, trái ý, thử thách do tha nhân và hoàn cảnh gây ra.
– Đi
theo Đức Kitô: Con người không chỉ tiêu cực từ bỏ chính mình và vác thập giá
suông; nhưng làm tất cả những điều đó cho một mục đích cao vời như Đức Kitô: đó
là làm sao đem Tin Mừng cứu độ đến cho muôn người.
(2)
Nghịch lý của đời sống: Nghệ thuật sống của Đức Kitô dạy không phải là một
trong những cách để sống; nhưng là cách thức duy nhất cho những ai muốn sống
cách sung mãn và có ý nghĩa, vì Chúa Giêsu tuyên bố rõ ràng: “Quả vậy, ai muốn
cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu
được mạng sống ấy.” Chúa có ý muốn nói: Nếu con người không theo nghệ thuật sống
trên, mà chỉ sống theo ý riêng mình, họ sẽ mất mạng sống họ muốn giữ; nhưng nếu
họ sống theo thánh ý Thiên Chúa bằng cách sống hy sinh như Đức Kitô, họ sẽ cứu
được mạng sống họ.
3.2/
Hậu quả phải lãnh nhận của những người không biết sống: Sống làm sao sẽ gặt hái
hậu quả tương xứng. Đối với những người chỉ biết vun quén cho mình để trở nên
giàu có, Chúa nhắc nhở họ: “Người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính
mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?” Điều Chúa muốn nói ở đây là phần rỗi
linh hồn và cuộc sống đời sau.
Đối với
những người không sống Lời Chúa và không làm chứng cho Ngài khi có dịp, Chúa
cho họ biết hậu quả: “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng
sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha
và các thánh thiên thần.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
–
Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền trên sự sống: Ngài có quyền ban sự sống và
có quyền lấy đi. Hơn nữa, Ngài còn có quyền cho lại sự sống đã mất và sự sống
trường sinh.
–
Thiên Chúa yêu thương con người với tình yêu không biên giới. Ngài cũng đòi
chúng ta yêu thương Ngài và tha nhân như thế, cho dù có phải hy sinh đến tính mạng
của mình.
– Hy
sinh chịu đựng đau khổ vì Chúa là cách thức duy nhất chúng ta có thể làm để
minh chứng tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
24/11/2018 – THỨ BẢY TUẦN 33 TN
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Ga 17,11b-19
LƯU DANH MUÔN THUỞ
“Không
có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn
hữu của mình.” (Ga 15,13)
Suy niệm: Chim có tổ,
người có tông. Chúng ta ai cũng có họ và có tên. Xúc phạm đến dòng họ của ai,
là xúc phạm đến chính người đó. Làm vẻ vang dòng họ gia tộc, vừa là bổn phận vừa
là mơ ước của mỗi người. Các thánh tử đạo Việt Nam không hổ danh, trái lại còn
làm vinh danh “dòng họ” ki-tô hữu của mình: “Thà tôi bị lưu đày và phải chết vì
Chúa, chứ tôi không chối đạo” (Thánh An-rê Kim Thông). Các Ngài đã anh dũng hy
sinh mạng sống để tuyên xưng niềm tin đó, “lấy tình yêu đáp lại tình yêu” (Chân
phước An-rê Phú Yên), và để lưu danh muôn thuở một dòng họ, dòng họ những người
công giáo, giữa nhân loại và thế giới hôm nay. Anh hùng thay, vinh quang thay.
Mời Bạn: Là người
Ki-tô hữu Việt Nam, đức tin chúng ta được trổ sinh từ hạt giống là “máu” của
các Thánh Tử Đạo, chúng ta thuộc dòng họ anh hùng và vinh quang với các ngài. Bạn
có ý thức và tự hào về điều này không? Bạn đã, đang và sẽ làm gì để không làm
“ô danh”, ngược lại làm “vinh danh” dòng họ? Khi có một ai xúc phạm đến Thiên
Chúa và Hội Thánh, bạn phản ứng ra sao? Lẩn tránh? Dửng dưng hay bảo vệ làm chứng?
Chia sẻ: Cuộc sống
của bạn, của chúng ta có thể nói gì về Chúa Giê-su cho những anh em lương dân sống
chung quanh chúng ta?
Sống Lời Chúa: Ý thức rõ
rằng chỉ có thể truyền giáo bằng đời sống bác ái, mỗi ngày bạn làm một việc bác
ái cụ thể cho đồng bào lương dân chung quanh, thực hiện tình làng nghĩa xóm một
cách thiết thực hơn.
Cầu
nguyện: Đọc kinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam.
(5
Phút Lời Chúa)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
24
THÁNG MƯỜI MỘT
Hòa
Bình, Hoa Trái Của Sự Chuyển Hóa Nội Tâm
Chính
Thiên Chúa là Đấng biến đổi trái tim con người, như Ngôn Sứ Eâdêkien đã diễn tả
hùng hồn: “Ta sẽ ban cho các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào
lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi, và sẽ ban
tặng các ngươi một quả tim bằng thịt” (Ed 36,26). Giáo Hội không ngừng công bố
sự thật rằng hòa bình thế giới bắt rễ từ trong chính cõi lòng con người, từ
trong lương tâm của mọi con người.
Hòa
bình chỉ có thể là hoa trái của một cuộc chuyển hóa nội tâm, bắt đầu trong lòng
của mỗi người và lan tỏa ra trong mọi xã hội tới mọi cộng đồng. Cộng đồng thứ
nhất trong các cộng đồng chính là gia đình. Gia đình là cộng đồng đầu tiên được
mời gọi sống hòa bình và cũng là cộng đồng đầu tiên được mời gọi tranh thủ hòa
bình và hữu nghị cho hết mọi người trên thế giới này.
Đó là
lý do tại sao suy tư hôm nay của chúng ta về hòa bình được tập chú vào gia
đình. Chúng ta hy vọng rằng trong các tế bào căn bản này của xã hội sẽ có một
niềm khát vọng mãnh liệt được sống hòa bình và hữu nghị với mọi con người.
–
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
24-11
Các
Thánh Tử Đạo Việt Nam
Bổn
mạng Hội Thánh Việt Nam
Đn
12, 1-; Dt 11, 14-18; Mc 13, 24-32.
LỜI
SUY NIỆM: “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền
năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Lúc đó Người sẽ sai các thiên sứ
đi, và Người sẽ tập họp những kẻ Người đã tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt
đất cho đến cuối chân trời.”
Hôm nay khi cùng Hội Thánh tại Việt Nam long trọng mừng kính 117 thánh Tử Đạo,
cũng là ngày bổn mạng của Giáo Hội tại Việt Nam. Điều này thúc bách mỗi người
chúng ta nhìn vào gương sống của các bậc tiền nhân trước những hoàn cảnh khó
khăn về đức tin của các ngài. Các ngài đã phải hy sinh, chịu đựng gian khổ, tù
tội và cuối cùng đã lấy chính máu của mình để tuyên xưng đức tin, trung thành với
đức tin.
Lạy Chúa Giêsu, Các thánh tử đạo Việt Nam, là những người đã được Chúa tập họp,
đã tuyển chọn, đang được chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa trong Nước Chúa.
Chúng con là con cháu của các ngài; Xin Chúa thương giúp chúng con luộn vui sống
đức tin với lòng yêu mến.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
24-11
CÁC
THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Vào đầu
thế kỷ XVI, khi vị thừa sai đầu tiên đặt chân lên đất Việt Nam, ánh sáng Tin Mừng
cũng bắt đầu lan rộng. Giáo hội Việt Nam được khai sinh từ đấy. Tuy nhiên, như
bầu trời có những ngày mây đen giăng mắc, Giáo hội Việt Nam cũng có những ngày
tăm tối. Giáo hội Mẹ Roma đã trải qua 3 thế kỷ bị bách hại, trước khi được mở rộng
như ngày nay, thì Giáo hội Việt Nam cũng phải trải qua gần 3 thế kỷ chìm ngập
trong thử thách. suốt từ năm 1630 – 1883, bao giòng máu đã đổ ra để bảo vệ đức
tin và để làm phát sinh Giáo hội này, trong những cuộc bắt bớ đời các chúa:
Trinh Doanh, Trịnh Sâm, các vua: Cảnh Thịnh, Minh Mạng, Triệu Trị, Tự Đức.
Hàng
vàn chứng nhân đã hiên ngang hiến mạng sống để bảo vệ đức tin. Gương hy sinh quả
cảm của các Ngài thật sáng ngời và Giáo hội qua 3 đời giáo hoàng: Lêô VIII, Piô
X và Piô VII, đã tôn phong 117 vị lên hàng chân phước. Tất cả đã được Đức Gioan
Phaolô II suy tôn lên hàng hiển thánh ngày 19-6-1988.
Tuy
nhiên “máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra người công giáo”. Gương các
thánh tử đạo không chỉ là niềm hãnh diện của chúng ta, mà còn là công ơn mà
chúng ta, các tín hữu Việt Nam, phải ghi nhớ và đáp đền. Mừng kính trong một
ngày lễ, chúng ta khơi dậy cuộc đời các vị tử đạo, nhất là các vị đã được tôn
phong lên bàn thánh để kính nhớ. Chúng ta ghi nhớ ngày các Ngài hiến thân vì đức
tin:
(daminhvn.net)
24
Tháng Mười Một
Ðây Bài Ca Nghìn Trùng
Ðây
bài ca nghìn trùng! Vâng, đúng thế, từ dạo Ðức Giêsu gục đầu tắt thở trên thập
giá, cuộc sống và cái chết của Ngài đã trở nên một bài ca nghìn trùng, một bản
tình ca muôn thuở nói lên mối tình Thiên Chúa yêu thương nhân loại, được thể hiện
qua cái chết tự ý thực tình của Ngài để sống trọn từng chữ lời mình tuyên bố:
“Không
có Tình Yêu nào lớn hơn mối tình của người chết cho bạn hữu mình”.
Ðây
bài ca nghìn trùng! Vâng, đúng thế, bài ca nghìn trùng, bài ca muôn thuở của một
cuộc đời sống cho tình yêu và một cái chết, chết cho cuộc tình. Vì thế, cuộc sống
khó nghèo, khiêm tốn, lam lũ để dấn thân rao giảng Tin Mừng và cứu nhân độ thế
của Ðức Giêsu phải kết thúc bằng cái chết tang thương, tất tưởi, cái chết đầy
đau đớn, tủi nhục trên thập giá, để ngàn đời hai bàn tay bị đinh đâm thâu qua
không thể nào nắm lại được nữa, nhưng muôn thuở một bàn tay luôn xòe ra như muốn
nói: “Vâng, Con hoàn toàn yêu mến và vâng phục thánh ý Cha”, và bàn tay kia
luôn mở rộng như muốn nói: “Vâng, Ta chọn tình thương yêu và sẵn sàng phục vụ mọi
người cho đến khi đổ giọt máu cuối cùng”.
Ðây
bài ca nghìn trùng! Vâng, đúng thế, bài ca nghìn trùng của cuộc sống dấn thân
phục vụ được kết thúc trên thập giá để từ dạo ấy thập giá là biểu tượng cho một
quy luật muôn thuở của Tin Mừng do Ðức Giêsu rao giảng: “Nếu hạt lúa gieo xuống
đất không mục nát đi, nó cứ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó mục nát đi, nó sinh
ra được nhiều hạt khác”.
Ðây
bài ca nghìn trùng! Vâng, đúng thế, đây bài ca tình thương muôn thuở được sướng
lên để chờ đợi những câu đáp trả. Ngày hôm nay, nhân ngày lễ mừng thánh Andrê
Dũng Lạc và các bạn tử đạo, chúng ta hãy hân hoan dâng lên Thiên Chúa cuộc sống
và cái chết vì đức tin, vì tình yêu của các bậc đàn anh, đàn chị, của chúng ta
như những câu đáp lại điệp khúc bản tình ca của Chúa Giêsu: “Không có tình yêu
nào lớn hơn mối tình của người chết cho bạn hữu mình”.
Một
điểm son nổi bật nhất trong những thành tích vẻ vang chứng tỏ niềm tin sắt đá
được các thánh tử đạo Việt Nam ghi vào những trang sử của Giáo Hội là: Lòng tôn
kính thập giá.
Không
hiểu vì lý do gì mà các vua quan Việt Nam thời đó đã dùng thập giá làm phương
tiện để thách đố niềm tin của các vị tử đạo. Họ gọi đó là “Quá khóa” để dùng thập
giá vạch ranh giới giữa cái sống và cái chết. Nhưng trăm ngàn hình khổ đã không
làm cho các vị anh hùng đức tin Việt Nam tự ý bước qua thập giá, dấu hiệu của Ðấng
đã rao giảng và đã thực hiện lời mình xác quyết: “Không có tình yêu nào lớn hơn
mối tình của người chết cho bạn hữu mình”.
Không
bước qua thập giá để chứng tỏ mình không chối bỏ đạo, không chối bỏ niềm tin
vào Thiên Chúa, không chối bỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với mình dù phải chịu
tan xương nát thịt, dù phải chịu kìm kẹp, giam cầm, dù phải chịu voi dày ngựa
xéo, dù phải chịu đầu rơi máu đổ, các vị tử đạo Việt nam đã nêu gương đáp lại
tình yêu của Ðấng chết treo trên thập giá để:
– Nợ
máu, các ngài đã trả bằng máu.
– Nợ
tình, các ngài đã trả bằng tình.
– Nợ
mạng sống, các ngài đã trả bằng những cái đứnng lặng im, không qua khóa, nhưng
cái đứng bất động này là những cử chỉ hùng hồn dẫn các ngài đến cái chết vì một
niềm tin, chết cho một cuộc tình như Ðức Giêsu đã nêu gương.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét