02/01/2019
Thứ Tư trước lễ Hiển Linh.
Thánh Baxiliô Cả và thánh Grêgôriô Nazianzênô.
Lễ nhớ.
* Thánh
Baxiliô sinh tại Xêdarê miền Capađôxia năm 330, trong một gia
đình Kitô giáo. Vốn là người tinh thông văn học lại nổi tiếng nhân đức, ban
đầu thánh nhân chọn cuộc đời đan tu.
Đến năm 370, người được cắt đặt làm giám
mục cai quản nơi người sinh trưởng. Người tích cực chống
lại giáo phái Ariô, viết nhiều tác phẩm.
Đặc biệt, người đã soạn thảo những quy luật cho đời sống đan tu, mà cho đến bây
giờ, nhiều đan sĩ đông phương vẫn còn tuân giữ. Người hết sức chăm lo cho người
nghèo. Người qua đời ngày 1 tháng Giêng năm 379.
* Thánh Grêgôriô cũng
sinh năm 330 gần thành Nadien. Người đi rất nhiều nơi để học hỏi, người
đã kết thân với thánh Baxiliô, đã
chọn cuộc sống tu hành, nhưng sau đó thụ phong linh mục, rồi được
chọn làm giám mục.
Năm 381 người được đặt lên cai quản giáo phận thành Công-tăng-ti-nô-pô-li; tuy
nhiên, 18 tháng sau, vì có sự chia rẽ và bè phái trong địa phận, người lui về
thành Nadien và qua đời tại đó ngày 25 tháng Giêng năm 389 hay 390. Hậu thế
thường gọi thánh nhân là nhà thần học vì
người vừa am tường đạo lý cao siêu, vừa có tài hùng biện.
BÀI ĐỌC I: 1 Ga 2,
22-28
“Ước gì điều các con đã nghe từ
ban đầu, vẫn ở lại mãi trong các con”.
Trích thư thứ nhất
của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, ai
là kẻ nói dối, nếu chẳng phải là kẻ không nhìn nhận Chúa Giêsu là Đức Kitô? Ai
không nhận Chúa Cha và Chúa Con, chính nó là phản Kitô, ai không nhận Chúa Con,
thì cũng không được có Chúa Cha. Còn ai tuyên xưng Chúa Con thì cũng được có
Chúa Cha.
Phần các con, ước gì
điều các con đã nghe từ ban đầu vẫn ở lại mãi trong các con. Nếu điều các con
đã nghe từ ban đầu vẫn ở lại trong các con, thì các con cũng được ở lại trong
Chúa Con và Chúa Cha nữa. Và này là điều Người đã hứa cho chúng ta, đó là sự sống
đời đời. Ta đã viết những điều này cho các con biết về những người lừa dối các
con.
Về phần các con, việc
xức dầu mà các con đã nhận lãnh nơi Người vẫn ở lại trong các con, nên các con
không cần ai dạy dỗ, nhưng như việc xức dầu của Người đã dạy các con mọi sự, và
lại là sự thật, chứ không phải sự dối trá, nên như các con đã được dạy dỗ, hãy ở
lại trong Người.
Và giờ đây, hỡi các
con bé nhỏ, hãy ở lại trong Người, để khi Người tỏ hiện, chúng ta được dạn dĩ,
không phải xấu hổ lìa xa Người, lúc Người đến. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 97, 1.
2-3ab. 3cd-4
Đáp: Khắp nơi bờ
cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta (c. 3c).
1) Hãy ca mừng Chúa một
bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho
Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. – Đáp.
2) Chúa đã công bố ơn
cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ đức công minh. Người đã nhớ lại
lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. – Đáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa
cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng
Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. – Đáp.
ALLELUIA: Ga 1, 14 và
12b
Alleluia, alleluia!
– Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể và đã cư ngụ giữa chúng ta. Những ai tiếp nhận
Người thì Người ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 1, 19-28
“Có một Đấng sẽ đến sau tôi,
nhưng chính Đấng đó đã có trước tôi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Đây là chứng của
Gioan, khi những người Do-thái từ Giêru-salem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi
đến hỏi ông: “Ông là ai?” Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng:
“Tôi không phải là Đấng Kitô”. Họ liền hỏi: “Như vậy là thế nào? Ông có phải là
Elia chăng?” Gioan trả lời: “Tôi không phải là Elia”. – “Hay ông là một đấng
tiên tri?” – Gioan đáp: “Không phải”.
Họ liền bảo: “Vậy ông
là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?”
Gioan đáp: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi,
như tiên tri Isaia đã loan báo”.
Và những người đã được
sai đến đều thuộc nhóm biệt phái. Họ hỏi Gioan rằng: “Nếu ông không phải là Đức
Kitô, cũng không là Elia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?” Gioan
trả lời: “Tôi làm phép rửa trong nước, nhưng giữa các ngươi, có Đấng mà các
ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đã có trước tôi,
và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”. Việc này xảy ra tại Bêtania,
bên kia sông Giođan, nơi Gioan làm phép rửa. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Lời Chứng Của
Gioan
Con người thường mang
tâm trạng thích được khen, người nhận lời khen cảm thấy tâm hồn thoải mái, vui
tươi, phấn khởi. Ðó là một nghệ thuật để khuyến khích người khác hăng hái tiếp
tục công việc họ đang làm ngày càng khá hơn. Trong gia đình, người chồng khen
người vợ biết trang hoàng căn phòng lịch sự, sáng sủa, đơn sơ sẽ làm cho người
vợ thương mến người chồng hơn, hoặc người chồng được vợ khen là biết chọn màu
áo trang nhã, tiệm may vừa khít trông đẹp, phải chăng tình thương nồng ấm, đậm
đà giữa vợ chồng trong gia đình càng tăng thêm hạnh phúc hơn.
Nếu một người nhân
viên trong sở làm, người giám đốc mỉm cười khen một cách thành thực là anh đi
làm rất đúng giờ có phải là một ích lợi lớn lao cho anh, vì được ông chủ để ý đến
mình và biết đâu anh ta nhờ đó mà siêng năng, chăm chỉ hơn trong công việc của
mình. Cho nên, khen là một điều nên thực hiện khi có thể đối với nhau. Tuy
nhiên, điểm tác hại sâu xa nhất là khen hời, khen quá hóa nịnh là chuyện không
nên. Người ta không có mà chúng ta đưa lên tận mây xanh làm họ mở mắt không ra,
không nhìn thấy khả năng thực sự của mình và làm họ cứ ảo tưởng nghĩ rằng mình
giỏi thật, đó thật là một chuyện nguy hiểm và là chuyện tâm lý bình thường của
con người. Có một điểm nữa là từ đó con người ưa nói quá về mình. Chúng ta
không có nhưng người ta nịnh gán cho mọi thứ tài giỏi hay ho, chúng ta cũng cứ
nhận bừa lấy và trở thành như là của mình để rồi cứ nhận tiếp những lời khen
quá đáng như thế.
Trong bài Tin Mừng hôm
nay, Gioan Tẩy Giả đã cho chúng ta một bài học trung thực về chính cuộc đời của
ông. Khi những người Do Thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến
hỏi ông là ai? Ngụ ý của họ là muốn biết Gioan có phải là Ðức Kitô, Ðấng phải đến
chăng? Gioan xác nhận ngay: "Tôi không phải là Ðức Kitô". Ðức Kitô
thì chắc hẳn Gioan không dám tự nhận nhưng ông có thể nhận mình là Elia được,
vì có ai biết được Elia đâu, người ta chỉ nghe truyền thuyết là Elia không chết,
ông ngồi trên xe lửa mà về trời và sau này ông sẽ trở lại. Nhưng Gioan Tẩy Giả
cũng không nhận mình là Elia và ngay cả người ta hỏi: "Ông có phải là một
tiên tri không?" vì Gioan cũng làm nhiều điều lạ, ông kêu gọi mọi người ăn
năn hối cải và người ta đến rất đông để nhận lãnh phép rửa do ông ban cho. Ông
cũng có thể nhận mình là một tiên tri nào đó thì có ai biết đến, thế nhưng ông
vẫn trả lời:"Tôi không phải là một tiên tri" mà ông tự nhận như sau:
"Tôi là tiếng kêu trong hoang địa, hãy sửa đường cho ngay thẳng để Chúa
đi", như lời tiên tri Isaia đã loan báo.
Một con người thấp hèn
với địa vị khiêm tốn, nào ai trong chúng ta chấp nhận được tinh thần như Gioan
Tẩy Giả. Và còn hơn thế nữa, Gioan đã nhìn nhận con người kém cỏi của mình so với
Ðấng Cứu Thế mà ông đang rao giảng: "Ðấng sẽ đến sau tôi nhưng tôi không xứng
đáng cởi dây giầy cho Ngài". Một câu nói khác mà Chúa Giêsu đưa ra để cho
chúng ta noi gương, Chúa Giêsu đã nói: Khi vào bàn tiệc hãy ngồi chỗ rốt hết để
sau đó người ta mời mình lên nơi cao có phải vinh dự hơn không?" Còn nếu
chúng ta ngồi vào chỗ nhất, chỗ nhì thì sau đó người ta sẽ lại đến nói với
chúng ta: "Xin nhường chỗ cho vị này" có phải là chúng ta xấu hổ mà
ngồi lui xuống dưới chăng.
Khi người khác nhờ
chúng ta một việc gì trong khả năng mà chúng ta có thể làm được thì chúng ta sẽ
giúp họ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn khiêm tốn nói: "Nếu không có gì trở ngại,
tôi sẽ làm giúp cho anh", hay "theo khả năng của tôi, tôi hy vọng
giúp được anh". Nói thế không hẳn là chúng ta thiếu tự tin hay không sốt sắng
sẵn sàng trong những công việc người khác nhờ chúng ta. Nhưng nói như vậy là
chúng ta nói lên sự tế nhị, sự khiêm tốn trong khả năng Thiên Chúa ban cho mỗi
người trong chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho
chúng con bắt chước thánh Gioan Tẩy Giả có một tinh thần khiêm nhu, ôn hòa để
qua cuộc sống của chúng con, mọi người nhận ra được khuôn mặt nhân hậu, từ ái
bao la của Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm
Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 2 tháng 1 BNGS
Bài đọc: I
Jn 2:22-28; Jn 1:19-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự thật và sự
dối trá quanh co
Trong xã hội, rất khó
cho chúng ta để nhận biết bản chất đích thực của một người qua việc đối thọai.
Khi phải nói về mình, con người thường có những khuynh hướng như: mạo nhận danh
nghĩa người khác; giả vờ như mình có để người khác phải thán phục mình; khuếch
đại: có ít nói nhiều; nói quanh co để người khác khỏi nhận ra con người thực của
mình. Khi phải tìm hiểu cá nhân đó qua người khác, người khác thường có khuynh
hướng: cắt bớt những công trạng và các đức tính tốt để họ đừng nổi bật quá;
thêm những nhận xét của mình để dìm bớt những điều tốt; gán cho họ những tật xấu
mà họ không có; hay vơ vào những thói xấu của gia đình họ.
Các Bài Đọc hôm nay dạy
chúng ta phải biết sống thực với con người của mình. Trong Bài đọc I, Thánh
Gioan đưa ra lý do tại sao chúng ta phải sống thực là vì chúng ta đã lãnh nhận
dầu Thánh Thần qua Bí-tích Rửa Tội. Thánh Thần giúp chúng ta sống thực, và giúp
nhận ra những sự giả trá trong thế gian. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả cho chúng
ta một mẫu gương phải sống thực qua cách trả lời cho những người đến điều tra:
ngắn gọn: có hoặc không; trực tiếp: không dài giòng quanh co; đơn giản: không
dùng những lời nhiều nghĩa; chính xác: những gì mình là, không phải những gì
người khác gọi, hay khen mình. Khi phải so sánh mình với Chúa Giêsu, Gioan Tẩy
Giả đã khiêm nhường nhìn nhận: “Tôi tuy đến trước, nhưng tôi không xứng đáng để
cởi quai dép cho Ngài.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Kitô Giáo và các tôn giáo khác
1.1/ Phản-Kitô là người
không tin Đức Kitô: Nhiều tôn giáo thờ một
Thiên Chúa; chẳng hạn, Do-Thái Giáo, Hồi Giáo, nhưng Kitô Giáo thờ Thiên Chúa
và Đức Kitô.
(1) Các lạc giáo: Ngay
từ thời Thánh Gioan, khi Kitô Giáo bành trướng vào thế giới, có nhiều những lạc
giáo từ chối không tin thiên tính (Do-Thái Giáo) hay nhân tính của Đức Kitô (Chủ-nghĩa
thuần Tri-thức). Thánh Gioan đề phòng các tín hữu của ngài các lạc giáo này:
“Ai là kẻ dối trá, nếu không phải là kẻ chối rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô? Kẻ ấy
là tên Phản-Kitô, là kẻ chối Chúa Cha và Chúa Con.”
(2) Mối liên hệ giữa
Thiên Chúa và Đức Kitô: Đối phương của Gioan có thể thuyết phục ngài: “Tuy khác
biệt, nhưng chúng ta cùng tin Một Thiên Chúa.” Thánh Gioan thẳng thắn nói lên
niềm tin của ngài: “Ai chối Chúa Con thì cũng không có Chúa Cha; kẻ tuyên xưng
Chúa Con thì cũng có Chúa Cha.” Theo ngài, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa Chúa
Cha và Chúa Con:
– Chúa Giêsu mặc khải
cho con người biết về Chúa Cha, và nếu Ngài không mặc khải, con người không thể
biết Chúa Cha: “Không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra
Con và những người Con muốn mặc khải cho” (Mt 11:27, Lk 10:22).
– Tin Con là tin Cha
(Jn 12:44-45); từ chối Con sẽ bị Cha từ chối (Mt 10, 32-33).
– Nhìn thấy Con là
nhìn thấy Cha (Jn 14 :6-9).
1.2/ Hai tiêu chuẩn để nhận
ra sự thật: Để chống lại những lạc giáo,
Thánh Gioan đưa ra 2 tiêu chuẩn để giúp các tín hữu nhận ra sự thật phải theo
và sự dối trá phải tránh: tiêu chuẩn bên ngòai là những Giáo Huấn của Giáo Hội;
và tiêu chuẩn bên trong là sự soi sáng của Chúa Thánh Thần.
(1) Điều anh em đã
nghe từ lúc khởi đầu: Ngài nói: “Phần anh em, ước chi điều anh em đã nghe từ
lúc khởi đầu ở lại trong anh em. Nếu điều anh em đã nghe từ lúc khởi đầu ở lại
trong anh em, thì chính anh em sẽ ở lại trong Chúa Con và Chúa Cha. Và đây là
điều mà chính Đức Kitô đã hứa ban cho chúng ta: sự sống đời đời.” Điều nghe từ
đầu đây có lẽ là những dạy dỗ về đạo, trước khi một người được lãnh nhận
Bí-tích Rửa Tội.
(2) Sự soi sáng của
Chúa Thánh Thần: Khi một người được chịu Phép Rửa nhân danh Đức Kitô, người ấy
được xức dầu của Thánh Thần; và được phong chức làm tư tế, tiên tri, và vương đế.
Thánh Gioan quả quyết: “Phần anh em, dầu mà anh em đã lãnh nhận từ Đức Kitô ở lại
trong anh em, và anh em chẳng cần ai dạy dỗ nữa; nhưng dầu của Người dạy dỗ anh
em mọi sự – mà dầu ấy dạy sự thật chứ không phải sự dối trá – thì theo như dầu ấy
đã dạy anh em, anh em hãy ở lại trong Người.” Trong khi chủ thuyết “Thuần
Tri-thức” cho rằng chỉ có họ mới biết cách giải thóat con người ra khỏi vật chất
để kết hợp với Thiên Chúa; Thánh Gioan dạy các tín hữu: một khi đã có Thánh Thần
của Thiên Chúa, Thần Sự Thật, trong người, các tín hữu chẳng cần phải được dạy
dỗ bởi ai khác nữa.
2/ Phúc Âm: Lời chứng của Gioan
2.1/ Những gì Gioan không
là: Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi
người Do-Thái từ Jerusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông
là ai?” Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng
Kitô.” Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlijah không? ” Ông
nói: “Không phải.” “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng? ” Ông đáp: “Không.” Sở dĩ
Gioan Tẩy Giả trả lời như thế là vì ông không quan tâm đến những điều người
khác nói về ông, mà ông chỉ quan tâm đến những gì ông thực sự là. Nhiều người
đã coi Gioan Tẩy Giả như một Tiên-tri, và chính Chúa Giêsu đã gọi ông là một
Tiên-tri quan trọng hơn hết các tiên-tri.
2.2/ Điều Gioan Tẩy Giả
là: Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để
chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính
ông?” Ông nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng
để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaiah đã nói.” Một khi Gioan nhận ra sứ vụ Thiên
Chúa trao cho trong cuộc đời, ông dành mọi thời gian, và nỗ lực để chu tòan sứ
vụ của mình.
Trong nhóm được cử đi,
có mấy người thuộc phái Pharisees. Họ hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu
ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlijah hay vị ngôn sứ?” Ông
Gioan trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa
các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai
dép cho Người.” Chỗ khác, Gioan phân biệt hai Phép Rửa: ông làm Phép Rửa để tha
tội, nhưng Đức Kitô làm Phép Rửa để ban Chúa Thánh Thần.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta cần biết
mình, biết Thiên Chúa, và biết tha nhân.
– Chúng ta đừng bao giờ
mạo nhận những gì chúng ta không có, cũng đừng bao giờ đánh cắp công ơn của người
khác; nhưng phải biết nói, sống, và làm chứng cho sự thật.
– Chúng ta phải đề
phòng những kẻ Phản-Kitô và những người không sống xứng đáng với danh hiệu
“Kitô hữu” của mình.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
02/01/2019 – THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TRƯỚC LỄ HIỂN LINH
Th. Ba-si-li-ô Cả và Ghê-gô-ri-ô, giám mục, tiến sĩ HT
Ga 1,19-28
NGƯỜI LÀM CHỨNG KHIÊM HẠ
Và đây là lời chứng của Gio-an: “Tôi không phải là Đấng
Ki-tô… Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn đường cho thẳng để Đức
Chúa đi.” (Ga 1,19.20.23)
Suy niệm: Gio-an được sai đến để làm
chứng; nhưng cách làm chứng của Gio-an thật lạ! Lạ không phải vì ông làm chứng
cho Đức Ki-tô mà lại nói về chính mình. Lạ ở chỗ ông không vỗ ngực xưng tên
mình là một “quí ông” nào đó mà ông phủ định chính mình: “Tôi không phải là…”
Ông không phải là ánh sáng. Ông là người chỉ cho người ta thấy ánh sáng. Ông
không phải là con đường. Ông chỉ là người dọn đường cho Đức Chúa. Gột bỏ được
những gì không phải là Ki-tô để thấy rõ hơn những gì đích thực là Ki-tô. Sự
khiêm hạ của Gio-an làm cho lời chứng của ông đáng tin hơn.
Mời Bạn: Đạo Chúa hiện diện trên
quê hương Việt Nam đã hơn 400 năm rồi. Cả 7 triệu tín hữu có sứ mạng làm chứng
cho Đức Ki-tô trong đó rất đông đảo các giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo lý viên
và tông đồ giáo dân. Thế mà có biết bao nhiêu anh em lương dân vẫn không biết Đức
Ki-tô là ai, hoặc vẫn coi Hội Thánh như một thực tại xa lạ, thậm chí thù địch.
Phải chăng vì chúng ta bận tâm làm chứng về cái tôi khiến cho người khác khó thấy
được Đức Ki-tô là ai? Chúng ta hãy là những người làm chứng khiêm hạ như
Gio-an: mình phải nhỏ đi để Đức Ki-tô được lớn lên.
Sống Lời Chúa: Làm một việc phục vụ tha
nhân cách âm thầm khiêm tốn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, để Chúa hiện diện và hoạt động trong đời
con. Xin dạy con biết phục vụ cách hiền hoà khiêm tốn để Chúa được mọi người nhận
biết, yêu mến và tôn thờ. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Có một vị đang ở giữa các ông (2.1.2019
– Thứ Tư )
Suy niệm:
Người ta chỉ lớn lên khi ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm về mình.
Người ta chỉ lớn hết mức khi không còn coi mình là trung tâm.
Trung tâm được đặt nơi Thiên Chúa và tha nhân.
Đức Giêsu đã từng khẳng định rằng
trong con cái loài người, không ai lớn hơn ông Gioan Tẩy Giả (x. Mt
11,11).
Gioan lớn vì ông là vị ngôn sứ giới thiệu trực tiếp Đấng Mêsia.là Đức
Giêsu,
một điều mà không một ngôn sứ nào trong Cựu Ước được diễm phúc làm.
Nhưng Gioan cũng lớn vì ông đã chấp nhận nhỏ đi:
“Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3, 30).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cách Gioan làm mình nhỏ lại.
Khi Gioan đã nổi tiếng bởi lối sống khắc khổ và lời giảng mạnh mẽ,
thì người Do Thái, người Pharisêu, sai các tư tế và các thầy Lêvi
từ Giêrusalem đến với Gioan đang làm phép rửa ở bên kia sông Giođan.
Họ muốn biết ông Gioan là ai.
Gioan đã không nhận mình là Đấng Kitô, hay Êlia tái giáng (Ml 4,5),
hay vị Ngôn Sứ cao cả đã được ông Môsê loan báo (Tl 18, 15.18),
mặc dù có người đã nghĩ ông là như vậy.
Những lời từ chối của Gioan càng lúc càng ngắn hơn và sắc hơn.
“Tôi không phải là Đức Kitô. - Tôi không phải là. - Không.”
Gioan từ chối những chức danh mà nhiều người thèm muốn.,
bởi lẽ ông biết rõ mình là ai.
Khi bị bắt buộc phải đưa ra một câu trả lời về con người của mình,
Gioan đã chọn câu của ngôn sứ Isaia (40, 3).
“Tôi là tiếng người hô trong hoang địa.
Hãy sửa cho thẳng con đường của Chúa.”
Gioan nhận mình chỉ là người dọn đường cho một Đấng đến sau,
Đấng ấy là người ông không xứng đáng cởi quai dép.
Cởi quai dép của chủ là việc chỉ dành cho người nô lệ thấp kém nhất.
Gioan là người làm chứng tuyệt vời về ánh sáng (Ga 1, 7-8).
Ông là “tiếng” làm chứng cho “Lời” là Con Một Thiên Chúa.
Cám ơn Gioan vì nhờ ông mà ta gặp được Ánh Sáng thật.
Cám ơn Gioan vì tiếng của ông dẫn ta đến với Lời của Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen.
(Thánh Augustinô)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
2 THÁNG GIÊNG
Một Mầu Nhiệm Giấu Ẩn
Trong Hai Tâm Hồn
Giáo Hội cảm nghiệm niềm
vui giáng sinh của Chúa trong mầu nhiệm gia đình – mầu nhiệm Gia Đình Thánh.
Đây là một chân lý đầy chất nhân bản. Với sự chào đời của đứa con, cuộc hôn
nhân giữa hai người nam nữ – giữa vợ và chồng – càng trở nên trọn vẹn hơn trong
tư cách là một gia đình.
Đồng thời, cuộc sinh hạ
của Đức Giêsu là một mầu nhiệm cao cả của Thiên Chúa vén mở ra trước mắt người
trần, một mầu nhiệm giấu ẩn trong đức tin và trong cõi lòng của Maria và Giu-se
ở Na-da-rét. Trước bất cứ ai, hai người là những chứng nhân duy nhất của biến cố
Hài Nhi chào đời tại Bê-lem – biến cố chào đời của Con Đấng Tối Cao!
Nơi Maria và Giu-se,
Thiên Chúa tỏ lộ mầu nhiệm gia đình. Thiên Chúa xây dựng gia đình này với Maria
và Giu-se – và với cuộc chào đời của Giê-su.
Và chúng ta, khi biết
nhìn bằng con mắt đức tin, sẽ nhận ra rằng qua Gia Đình Thánh này, Thiên Chúa
cho thấy Ngài gần gũi chúng ta biết bao. Gia Đình Thánh ấy cũng nêu bật địa vị
của mọi gia đình trong ánh nhìn của Tạo Hóa. Thật vậy, Đức Kitô đã trao tặng
chúng ta Bí Tích Hôn Nhân như một dấu chỉ của địa vị cao cả ấy. Tông Đồ Phao-lô
đã có thể gọi bí tích này là “một mầu nhiệm lớn lao” của mối quan hệ giữa Chúa
Kitô và Giáo Hội (Ep 5, 32).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 02/1
Thánh Grêgôriô
Nazianzênô, giám mục tiến sĩ Hội Thánh
1Ga 2, 22-28; Ga 1,
19-28.
LỜI SUY NIÊM: “Tôi đây làm phép
Rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người
sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”
Khi Gioan Tẩy Giả xuất hiện trên sống Giođan và làm phép rửa, đã gây cho các
nhà lãnh đạo tại Giêrusalem ngạc nhiên và thắc mắc. Bởi vì trong các Sách Kinh
Thánh đã cho họ biết như trong Sách Êdêkien nói: “Rồi Ta sẽ rảy nước thanh sạch
trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế
và mọi tà thần.” (Ed 36,25); Và Dacaria nói: “Ngày ấy, một dòng suối sẽ vọt
ra cho nhà Đavít và cư dân Giêrusalem để tẩy trừ tội lỗi và ô uế.” (Dcr 13,1).
Nên họ đã cử một số người đến hỏi trực tiếp Gioan Tẩy Giả: “Ông là ai?” Gioan Tẩy
Giả đã cho họ biết: “Tôi không phải là Đấng Kitô” … và rồi Gioan nói rõ về ông:
“Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi,
như ngôn sứ Isaia đã nói. Và rồi Gioan thông báo cho họ biết: “Tôi đây
làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không
biết.”
Lạy Chúa Giêsu. Mỗi
người chúng con đều được Chúa đặt để một nơi chốn, để làm chứng nhân cho Chúa.
Xin cho mỗi người chúng con có được những đức tính cần thiết như Gioan Tẩy Giả,
để Danh Chúa được hiển trị.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 02-01: THÁNH
BASILIÔ CẢ
Giám mục, Tiến Sĩ
(329-397)
Thánh Basiliô, con người
kỳ diệu mà mọi thời gọi là thánh Cả, chào đời vào khoảng cuối năm 329 tại
Cêsarêa, thủ đô miền Cappadocia. Ngài thật có phúc vì được sinh ra trong một
gia đình thánh thiện. Cha Ngài là thánh Basilio, mẹ Ngài là thánh nữ Emelia.
Nhưng sinh ra Ngài, cha mẹ Ngài đã chịu bao nỗi lo âu. Một cơn bệnh nặng tưởng
như đã cất mất mạng sống của Ngài. Việc Ngài bình phục được coi như là kết quả
của lời cầu nguyện mà thôi.
Từ thuở thơ ấu thánh
nhân đã đến sống với người bà là thánh nữ Macrina. Tại đây, Ngài đã hấp thụ được
những nguyên tắc sống đạo đức đầu tiên. Ngài nói: tôi không hề quên được những
lời dạy dỗ và gương lành mà người bà thánh thiện đã ghi vào trong tâm hồn bé
thơ của tôi.
Ngay khi tới buổi đi học,
cha Ngài, một con người vừa đạo đức vừa hoạt bát, đã tự đảm nhiệm việc dạy dỗ
Ngài những yếu tố đầu tiên về văn chương. Sau khi cha qua đời, Ngài được gửi đi
Cêsarea rồi Constantinople để học khoa hùng biện. Sau cùng, Ngài đi Athena,
kinh thành ánh sáng của thế giới nói tiếng Hy Lạp thời đó. Tại đây, Ngài có dịp
làm quen với Thánh Gregoriô thành Nazianze. Hai người kết thân với nhau và tình
bạn đầy thánh thiện của họ không hề bị một áng mây mù nào che phủ. Trong thành
phố xa hoa ấy, họ chỉ biết có hai con đường dẫn tới nhà thờ và tới trường học.
Sau khi hoàn tất các
môn học, Ngài dồn nỗ lực học kinh thánh và các giáo phụ. Ngài đã kín múc được từ
kho tàng phong phú này những hiểu biết và những tâm tình cao thượng qui hướng
con người lên trời.
Lúc hai mươi bảy tuổi,
Ngài trở về quê nhà và biện hộ cho một vài vụ kiện tụng. Tài lợi khẩu và thành
công tưởng đã cột chặt Ngài vào với pháp đình. Nhưng chị Ngài là thánh nữ
Macrina (trẻ) đã nói cho Ngài biết về sự giả trá của những tài năng của cả loài
người, và về những giá trị chân thực mà Ngài nhhư đã bỏ quên. Thế là thánh nhân
quyết từ giã thế gian và đeo đuổi đời sống tu trì. Ngài đã viếng thăm các tu viện
bên Đông phương để tìm kiếm gương mẫu và thầy dạy đường nhân đức. Một năm sau
Ngài trở về Cappadocia, rồi lui về miền Pont và thiết lập nhiều tu viện. Các
qui luật Ngài soạn ra cho các tu viện đã trở thành danh tiếng và ngày nay vẫn
còn được áp dụng tại các tu viện của Giáo hội công giáo theo nghi lễ Byzantin.
Chính thánh Bênêdictô cũng chịu ảnh hưởng của Ngài qua bản dịch tiếng la Tinh của
Ruffinô. Thánh Basiliô chỉ sống năm năm như tu sĩ trong viện. Nhưng điều Ngài
đã làm đã viết là phần thành công trực tiếp và lâu bền nhất trong công trình đời
Ngài.
Năm 370 khi Đức giám mục
Eu-sê-bi-ô qua đời, thánh Basiliô được bầu làm giám mục Cêsaria. Thánh nhân đã
lãnh nhận giáo phận trong một hoàn cảnh đầy sóng gió và đã tỏ ra là một chủ
chăn bất khuất trong việc bảo vệ đức tin. Lúc ấy lạc giáo Ariô đang ở vào thời
cực thịnh. Hoàng đế Va-lăng (valens) đúng vào phái lạc giáo để bách hại Giáo hội.
Thánh Grêgoriô đã kể lại cuộc đời thánh Basiliô, có lẽ đã tô điểm thêm đôi
chút, nhưng đã cho thấy được cá tính của thánh nhân như thế nào. Va-lăng phái
Modestô, một tổng trấn nổi tiếng mưu mô và hung ác đến gặp thánh nhân.
Hắn nói: – Tại sao ông
dám chống lại hoàng đế và không theo đạo của Ngài.
Thánh nhân trả lời: – Bởi vì Thiên Chúa là hoàng thượng của tôi, Ngài bảo vệ tôi.
Thánh nhân trả lời: – Bởi vì Thiên Chúa là hoàng thượng của tôi, Ngài bảo vệ tôi.
Modestô vặn lại: – Vậy
ông coi chúng tôi là thứ gì chứ ?
Thánh nhân trịnh trọng
đáp lời: – Tôi chẳng coi các ông là gì cả, bởi vì các ông đã bắt chúng tôi phải
có những điều phản nghịch lại thánh ý Thiên Chúa:
Modestô liền dở trò đe
dọa: – Ông không biết rằng tôi có thể cho ông nếm mùi sức mạnh của chúng tôi
sao ?
Nhưng thánh nhân đã khẳng
khái trả lời: – Những hậu quả do sức mạnh của các ông chỉ có thể là tịch biên
tài sản, lưu đày, tra tấn hay là sát hại mà thôi. Đối với việc tịch biên tài sản
thì người không có gì như tôi làm gì mà phải sợ. Tôi càng không sợ phải lưu
đày, bởi vì đâu có Chúa thì đấy cũng là quê hương của tôi. Đối với những tra tấn
ông muốn bắt tôi phải chịu, thì quả thật tôi đã quá yếu đuối và không đủ sức để
chịu được một cuộc tra tấn thứ hai. Về cái chết, làm sao tôi lại phải sợ, vì nó
sẽ sớm đưa tôi về với Thiên Chúa hơn”.
Vị tổng trấn ngạc
nhiên: – Tôi chưa hề gặp người nào gan dạ như ông.
Và thánh Basiliô bình tĩnh trả lời: – Bởi vì ông chưa nói chuyện với một giám mục nào.
Và thánh Basiliô bình tĩnh trả lời: – Bởi vì ông chưa nói chuyện với một giám mục nào.
Sau cuộc đàm thoai nẩy
lửa này, tình hình lắng dịu một thời gian. Nhưng vì áp lực của bè rối, hoàng đế
Valăng tính bắt giám mục Basiliô đi đày. Nhưng ý định bất thành vì ngay đêm trước
con ông ngã bệnh nặng, được giám mục viếng thăm và cầu nguyện cho lành, nó cũng
đã qua đời vì sự thay lòng đổi dạ của nhà vua. Dầu vậy, dưới áp lực mạnh mẽ của
bè rối, vua cũng quyết ký án lệnh phát lưu Đức giám mục. Lần này, ông vẫn thất
bại vì ba bốn lần cầm lấy viết thì viết bị hư, cầm đến ấn thì ấn bị bể nát.
Ngoài sự can trường để
bảo vệ đức tin chân chính, thánh Basilio còn là một mục tử nhiệt hành và giàu
lòng bác ái, Ngài đã liên tục đi thăm viếng từng miền trong giáo phận, Ngài
chuyên chăm dạy dỗ đoàn chiên và một số bài giảng của Ngài được lưu giữ tới
ngày nay là những công trình thần học rất đáng giá. Ngoài ta thánh nhân còn
thương yêu đặc biệt những người nghèo khó bệnh tật. Ngài đã thiết lập một nhà
thương, đặt tên là Basiliô (Basiliade) để săn sóc họ.
Thánh nhân đã được sống
để chứng kiến cái chết của Valăng lẫn sự tàn lụi của lạc giáo Ariô. Nhưng chẳng
bao lâu sau Ngài cũng qua đời vì kiệt sức, ngày 1 tháng giêng năm 379.
****************
Ngày 02-01: Thánh
GREGÔRIÔ NAZIANZÊNÔ
Giám Mục Tiến Sĩ –
(329 – 390)
Thánh Grêgôriô
Nazianzênô là một trong những giáo phụ danh tiếng của giáo hội Hy Lạp và được mệnh
danh là thần học vì giáo thuyết rất sâu sắc của Ngài. Ngài ra đời khoảng năm
329, trong một gia đình danh giá và đáng mến chuộng. Cha Ngài, cũng tên là
Grêgôriô, lúc ấy còn là lương dân. Nhưng thánh nữ Monna, mẹ Ngài, nhờ nhân đức
siêu vượt, sự dịu hiền, đời sống gương mẫu với kinh nghiệm và nước mắt đã đưa
ông về với Chúa Giêsu.
Thánh Leông (Léonce)
giám mục thành Cêsarêa đã rửa tội cho ông. Vài năm sau, nhờ đời sống đạo đức trổi
vượt, ông đã xứng đáng lãnh chức giám mục, cai quản điạ phận Nazianze.
Thánh Grêgôriô ra đời
như kết quả lời cầu nguyện của bà mẹ thánh thiện, chỉ mong có được người con để
phục vụ bàn thánh. Khi thánh nhân ra đời, bà coi Ngài như quà tặng của trời
cao. Được đào tạo trong một môi trường thánh thiện như vậy, ngay từ nhỏ, Ngài
đã biết quí trọng những nét đẹp của tội thơ vô tội.
Thánh nhân được cử đi
học hùng biện ở Cêsarêa, rồi Palestina. Sau đó Ngài đã qua Alexandria và sau
cùng tới Athena là nơi coi là nguồn gốc đích thật của khoa hùng biện, trên đường
tới Athena, con tàu thánh nhân đi đã phải một cơn bão dữ dội, tưởng chừng như sẽ
bị đắm chìm trong lòng biển. Lúc ấy thánh nhân chưa được rửa tội và rất lo âu
cho phần rỗi của mình. Ngài tha thiết cầu khẩn Thiên Chúa thánh cho được sống
thêm, để có thể làm con Chúa. Thánh nhân đã được nhậm lời. Cơn giông bão chấm dứt
và Ngài tới được Athena.
Tại đây thánh Gregorio
gặp lại một người bạn cũ của mình là thánh Basiliô. Mối giây thân tình giữa các
Ngài ngày càng trở nên bền chặt hơn. Cho đến ngày nay, người ta vẫn còn trưng dẫn
hai vị nhân này như là khuôn mẫu cho tình bạn trong trắng và chân thành nhất.
Không thể lìa xa nhau, họ còn chú tâm tránh thoát mọi cuộc kết thân nguy hiểm
và chỉ giao tiếp với những bạn bè mà lòng hiếu học luôn đi đôi với việc thực
hành các nhân đức. Không bao giờ người ta thấy họ đi vào các cuộc giải trí có
tính cách trần tục. Trong thành phố xa hoa ấy họ chỉ biết có hai con đường dẫn
tới nhà thờ và các trường học.
Hoàn tất việc học
hành, thánh Grêgôriô trở về sống với cha mình đang làm giám mục cai quản giáo
phận Nazianze và được cha ban phép Rửa tội cho. Một khi đã được đóng ấn tín thần
linh, Ngài coi mình hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và hiến thân phung sự Ngài,
Ngài nói: – “Tôi hiến
trọn cho Đấng đã ban cho tôi tất cả. Từ nay chỉ có Ngài là phần sản nghiệp của
tôi”.
Tình thảo hiếu đã giữ
lại bên người cha già tám mươi tuổi trong ba năm trời. Ngài giúp đỡ cha trong mọi
công việc và chăm sóc mọi việc trong nhà. Nhưng lòng yêu thích được ẩn dật đã
đưa Ngài tới gặp thánh Basiliô đang theo đuổi nếp sống tu trì. Ngài đã sống xa
thế gian một thời gian và chỉ lo tới sự hoàn thiện của mình. Nhưng thời gian ẩn
dật này mới chỉ đủ cho Ngài nếm thử được sự ngọt ngào để mà luyến tiếc thôi,
người cha già chín mươi tuổi đã gọi Ngài về giúp việc điều khiển giao phận. Nhận
thấy rằng: Giáo hội sẽ được lợi ích nhiều bởi người con thân yêu của mình, vị
thánh giám mục già cả đã truyền chức linh mục cho Ngài ngày 6 tháng 1 năm 362.
Lúc ấy thánh Gregôriô hơn ba muôi lăm tuổi và ấn tích mới càng tăng thêm nhiệt
tình của Ngài.
Thánh Basiliô lúc ấy
đã làm tổng giám mục Cêsalêa, quyết định nâng thánh Gregoriô lên làm giám mục
cai quản điạ phận Sarima. Nhưng vì những chống đối dữ dội, Ngài đã không hề tới
nhậm điạ phận được và dường như Ngài chịu chức giám mục chỉ để giúp đỡ người
cha mà tuổi tác đã không cho phép chu toàn phận sự được nữa. Sau khi cha qua đời
năm 374 thánh nhân trở lại Nazianze săn sóc cho giáo phận, nhưng không hề muốn
làm giám mục của giáo phận này.
Năm 380, tức là khoảng
năm năm sau, các tín hữu ở Constantinopkle đã khẩn nài thánh nhân tới củng cố
giáo phận đã bị bè rối Ariô tàn phá của họ, với nhiệt tâm tông đồ, thánh nhân
đã nhận lời. Trước tiên thánh nhân đã không được tiếp đón nồng hậu lắm. Trong một
thành phố xa hoa giàu có vì là thủ đô mới của đế quốc này, người ta đang ngóng
đợi một nhân vật có khuôn mặt sáng sủa giữa một đám rước linh đình. Nhưng người
ta đã vô cùng kinh ngạc khi thấy Ngài chỉ là một ông lão già yếu, ăn mặc giản dị
và lời nói vắn gọn.
Những người theo lạc
giáo Ariô chế giễu phỉ báng Ngài. Dầu vậy, bằng những giáo huấn vững chắc và
hùng hồn, Ngài đã thành công trong việc đưa dân thành này từ chỗ bỏ cái sai lầm
của lạc giáo mà trở về với đức tin công giáo. Sau bốn mươi bị năm bị tàn phá.
Giáo phận không có nhà thờ, Ngài rao giảng trên đường phố hay tại một ngôi nhà
mà Ngài đăt tên là Anastasia.
Hương thơm nhân đức và
sự hiểu biết uyên thâm của Ngài đã lối kéo cảm tình người nghe càng thêm đông.
Từ trong sa mạc, thánh Hiêronymô cũng tìm đến nghe người giảng thuyết. Tuy
nhiên bề ngoài khiêm tốn bình dị và hoàn cảnh khó khăn ấy cũng là một khó khăn
khiến cho địch thủ đã nhiều lần toan tính ám hại Người.
Năm 381, công đồng
chung họp tại Constantinople, thánh Grêgôriô được bầu lên làm giám mục chính
tòa của giáo phận này và giữ ghế chủ tịch công đồng. Nhưng ít lâu sau, một số
giám mục đã chất vấn tính cách hợp pháp của chức vụ Ngài. Lợi dụng những chống
đối này, thánh Grêgôriô đã xin từ chức. Sau khi đã làm vui lòng các nghị phụ
công đồng bằng quyết định của mình, thánh nhân đã đe5 đơn lên Hoàng đế Têodô
(Thésdose) Hoàng đế buộc lòng chấp thuận, cho Ngài từ nhiệm, chỉ vì lý do sứ
ckhỏe mà thôi. Trước khi dứt mình khỏi Giáo hội mà Ngài đã dày công tạo lập với
đầy tình yêu quí, Ngài đã nói với mọi tín hữu và với các nghị phụ một diễn từ đặc
sắc. Người ta gọi diễn từ ấy là: những lời giã biệt (Les Adieux).
Lui về Nazianze, thánh
Grêgôriô dành thời gian viết sách. Năm 390 Ngài qua đời và để lại cho Giáo hội
một kho tàng quí báu gồm 45 bài suy luận thần học và điếu văn, 245 bức thư và mấy
tập thi ca. Người ta đọc cuộc đời trong những tác phẩm có giá trị văn chương và
tín lý, chính ân đức ấy và sức mạnh tinh thần của Ngài.
Người ta còn giữ được
bản di chúc và bản văn trên bia mộ chính Ngài sáng tác. Bản mộ thi này là một
tóm lược khúc chiết trọn đời Ngài với những dòng kết thúc như sau: – “Tôi là mục
tử không có đoàn chiên, và tôi đã đau khổ không ít bởi chính các mục tử. Tôi để
Chúa Giêsu Kitô lo lắng cho tương lai đời tôi như chính Người đã lo cho tôi
trong quá khứ”.
(Đaminh.net)
2 Tháng Giêng
Ðóng Thuế Cho Năm Mới
"Ðóng Thuế Cho Năm Mới: 15 người
thiệt mạng, khoảng 1,500 người bị thương, gần 2,500 lâm cảnh màn trời chiếu đất".
Trên đây là hàng tít lớn của hầu hết các nhật báo xuất bản tại thủ đô Manila
Phi Luật Tân, trong số ra ngày mùng 02 tháng Giêng mỗi năm, tức là số báo đầu
tiên trong năm. Dường như đây là công thức quen thuộc mà bất cứ nhật báo nào
cũng đưa ra số báo đầu năm. Ðó cũng là điều mà dân chúng chờ đợi sau một đêm
đón giao thừa trong tiếng nổ liên tục của pháo và trong khói bay mịt mù.
15 người xấu số trên đây đều là nạn
nhân của những vụ đâm chém, bắn giết vì say sưa quá chén trong đêm giao thừa.
1,500 người bị thương khác là nạn nhân của bất cẩn trong khi đốt pháo.
Chỉ riêng ở thủ đô Manila thôi, chưa
tính số tiền được đốt đi trong tiếng pháo, số thiệt hại vì hỏa hoạn và những
thiệt hại khác lên đến cả triệu Mỹ kim.
Hôm
nay thì mọi người đều trở lại với sinh hoạt bình thường của mình. Ðọc bảng tin
về những gì đã xảy ra trong Ðêm Giao Thừa và Ðầu Năm, ai cũng bàng hoàng xót xa
cho những người xấu số và có lẽ ai cũng thở ra nhẹ nhõm vì bất trắc đã không xảy
đến cho mình. Người ta nghĩ rằng may mắn vẫn còn đó. Bảng tổng kết Ðầu Năm và lời
kêu gọi đề phòng cho Năm Mới không mấy chốc cũng sẽ đi vào quên lãng. Bánh xe lịch
sử cứ lăn và con người cũng sẽ tiếp tục lập lại những lỗi lầm của quá khứ.
Người
Á Ðông chúng ta thường nói: "cha ăn mặn thì con khát nước". Kinh
Thánh Cựu Ước cũng viết: "cha ông ăn nho xanh thì con cháu phải ê
răng". Người tin ở thuyết quả báo thì cho rằng con cái phải gánh chịu những
hậu quả do lầm lỗi của ông bà để lại.
Trong một cái nhìn khách quan và sâu xa hơn, chúng ta phải nói rằng lịch sử thường
lặp lại. Lịch sử thường lặp lại, bởi vì nó được cấu tạo bởi những biến cố do
con người chủ động. Mà bởi vì mẫu số chung của con người ở mọi thời đại vẫn là
tự do, cho nên những lầm lẫn giống nhau được lập lại là chuyện bình thường, có
khác chăng là khác ở mức độ và hình thức mà thôi. Ơ?thời đại nào mà không có
chiến tranh, ở thời đại nào mà không có cảnh người bóc lột người, ở thời đại
nào mà không có tham, sân, si?
Người
Kitô chúng ta hãy nhìn vào bản thân và lịch sử của nhân loại với một cái nhìn
thực tế và lạc quan. Thực tế để thấy rằng sống là một cuộc chiến đấu không ngừng:
chiến đấu giữa thiện và ác, chiến đấu giữa tự do và nô lệ, chiến đấu giữa ân sủng
và tội lỗi. Thực tế để thấy rằng cuộc chiến ấy đang diễn ra trong từng phút
giây của cuộc sống. Nhưng chúng ta cũng hãy có cái nhìn lạc quan, lạc quan và
tin rằng, lầm lỗi thất bại là khởi đầu của những ân ban dồi dào hơn, và trong
cuộc chiến từng ngày đó: Thiên Chúa vẫn luôn có mặt để nâng đỡ chúng ta.
Trích sách Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét