07-01-2019
Ngày 7 tháng Giêng
hay thứ Hai sau Lễ Hiển Linh
Bài Ðọc I: 1 Ga 3, 22 -
4, 6
"Hãy nghiệm xét các thần trí, coi có phải bởi Thiên Chúa hay
không".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, bất cứ điều gì chúng ta xin, thì chúng ta cũng lãnh nhận
được nơi Chúa, vì chúng ta giữ các giới răn Người và làm điều đẹp lòng Người.
Và đây là giới răn của Người: chúng ta phải tin vào thánh danh Con của Người,
là Chúa Giêsu Kitô, và phải thương yêu nhau, như Người đã ban giới răn cho
chúng ta. Ai giữ các giới răn của Người, thì ở trong Người và Người ở trong họ.
Do điều này mà chúng ta biết Người ở trong chúng ta, đó là Thánh Thần mà Người
đã ban cho chúng ta.
Các con thân mến, chớ tin bất cứ thần trí nào, nhưng hãy nghiệm xét các
thần trí, coi có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì có nhiều tiên tri giả đã xuất
hiện trong thế gian. Do điều này mà các con biết là thần trí của Thiên Chúa: Thần
trí nào tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô đã đến trong xác phàm thì là bởi Thiên Chúa;
còn thần trí nào phủ nhận Chúa Giêsu, thì không bởi Thiên Chúa mà ra, đó là thần
trí của Phản-Kitô; các con nghe nói rằng nó đến, và hiện giờ nó đã ở trong thế
gian rồi.
Các con thân mến, các con bởi Thiên Chúa mà ra và đã thắng nó, vì Ðấng ở
trong các con thì cao trọng hơn kẻ ở trong thế gian. Chúng thuộc về thế gian,
nên nói chuyện thế gian, và thế gian nghe theo chúng. Chúng ta bởi Thiên Chúa
mà ra. Ai biết Thiên Chúa, thì nghe chúng ta; còn ai không bởi Thiên Chúa, thì
không nghe chúng ta. Do đó mà chúng ta biết được thần trí chân thật và thần trí
dối trá.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 2, 7-8.
10-11
Ðáp: Cha sẽ cho Con được chư
dân làm phần sản nghiệp (c. 8a).
Xướng: 1) Ta sẽ tuyên rao thánh chỉ của Chúa: Chúa đã phán bảo cùng Ta:
"Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con. Hãy xin Cha và
Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp, và cùng kiệt cõi đất làm gia
tài". - Ðáp.
2) Giờ đây, hỡi các vua, hãy nên hiểu biết; quân vương mặt đất nên giác
ngộ. Hãy kính sợ làm tôi Chúa và hân hoan mừng Ngài; hãy khiếp run tỏ bày sự
vâng phục Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Mt 4,17
Alleluia, alleluia! - Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng;
ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 4, 12-17.
23-25
"Nước trời đã đến gần".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ
Nadarét, đến ở miền duyên hải thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và
Nephtali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng:
"Hỡi đất Giabulon và đất Nephtali, đường dọc theo biển, bên kia sông
Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy
hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết". Từ bấy giờ,
Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: "Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến".
Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của
họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân.
Tiếng tăm Người đồn ra khắp xứ Syria. Người ta đã đem đến cho Người đủ thứ bệnh
nhân, những người mắc phải tật nguyền đau đớn, quỷ ám, kinh phong, bất toại.
Người đã chữa họ lành. Dân chúng đông đảo theo Người, họ đến từ xứ Galilêa, miền
Thập Tỉnh, Giêsrusalem, Giuđêa và vùng bên kia sông Giođan.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm : Hãy sám hối.
Có một vị ẩn sĩ nổi tiếng là thánh thiện, và được nhiều người đến xin ông
cầu nguyện cho. Điều đó làm cho ông rất hãnh diện.
Một buổi sáng nọ, trên đường đến thăm một ngôi nhà thờ, ông thấy một người
ngồi nức nở bên đường. Đến gần, ông nhận ra đó là tên cướp mà mọi người trong
vùng đều run sợ. Vị ẩn sĩ định bỏ đi, nhưng anh ta tiến đến quỳ gối trước mặt
ông và xưng thú tội lỗi. Nghe xong, vị ẩn sĩ tự nhiên nổi giận, và nói lớn tiếng:
“Một tên trộm cướp như ngươi mà hy vọng được Chúa tha thứ sao? Ta nói thật với
ngươi: cây gậy mà ta đang cầm trên tay trổ bông còn dễ hơn việc Thiên Chúa tha
thứ cho ngươi”. Nói như thế rồi, vị ẩn sĩ tiếp tục cất bước, bỏ mặc tội nhân
trong thất vọng.
Nhưng chưa đi quá mười bước, cây gậy ông đang cầm trên tay bỗng bị cắm
sâu xuống đất, ông dùng tất cả sức lực để rút lên, nhưng cây vẫn không nhúc
nhích. Lạ hơn nữa, từ thân cây gậy, cành lá và hoa từ từ mọc ra. Rồi ông nghe
có tiếng nói: “Sự tha thứ của Thiên Chúa dành cho một tội nhân sám hối còn dễ
hơn một cây gậy trổ bông, một người tỗi lỗi biết hối cải được tha thứ dễ dàng
hơn một hơn một kẻ kiêu hãnh”.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Đó là trọng tâm của bài Tin Mừng
hôm nay. Ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu loan báo chính là giải phóng con người khỏi tội
lỗi và những hệ lụy của nó, như yếu đau tật nguyền…
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Sám hối là điều kiện tiên quyết để
được ơn cứu độ. Sám hối không phải là tiếng khóc của thất vọng, mà là một sức lực
mới giúp con người vươn lên.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Nước Trời chính là động lực của
sám hối. Và do đó, sám hối đích thực cũng chính là một quyết tâm hướng về những
biểu hiện của Nước Trời như sống yêu thương, quảng đại, tha thứ.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên” hay nói đúng hơn hãy sám hối để cho
Nước Trời được đến giữa mọi người.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai sau Lễ Hiển Linh
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải học Lời Chúa để
nhận ra sự thật!
Chúng ta đang sống
trong thế giới vàng thau lẫn lộn: sự thiện và sự ác, sự thật và sự giả trá điêu
ngoa. Một người bình thường rất khó nhận ra sự thật từ biết bao nhiêu sự gian dối,
người thành thật từ những người giả trá điêu ngoa. Làm sao để nhận ra sự thật
và người thành thật?
Các Bài Đọc hôm nay
cho chúng ta những tiêu chuẩn để nhận ra sự thật. Trong Bài Đọc I, Thánh Gioan
cho chúng ta 2 tiêu chuẩn để nhận ra sự thật: (1) Người nói sự thật là những
người tin vào Đức Kitô; và (2), người nói sự thật sẽ bị thế gian ghét bỏ. Trong
Phúc Âm, Thánh Matthêu tường thuật bước đường đầu trong sứ vụ rao giảng của Đức
Kitô: Ngài không những mang ánh sáng xua tan những vùng tăm tối sự chết của Dân
Ngọai, mà còn cả cho những người Do-Thái đang mong chờ Đấng Cứu Thế ra đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải
ở lại trong Thiên Chúa để nhận ra sự thật.
1.1/ Làm thế nào để ở lại
trong Thiên Chúa? Theo Gioan, để ở lại trong
Thiên Chúa, các tín hữu phải giữ các giới răn: “Ai tuân giữ các điều răn của
Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ
vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần
Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta.” Theo truyền thống Do-Thái, biết Thiên
Chúa không phải chỉ là họat động của tri thức, nhưng phải ảnh hưởng đến đời sống
của người tin; nói cách khác, biết Thiên Chúa là phải giữ các giới răn của
Ngài. Theo Gioan, hai giới răn quan trọng nhất là:
(1) Phải tin vào danh
Đức Giêsu Kitô, Con của Người: Theo Gioan, đây là điều kiện để trở thành
tín hữu, thành con Thiên Chúa. Sở dĩ Gioan nhắc lại điều này, là có những bè rối
xuất thân từ cộng đòan tín hữu, từ chối nhân tính hay thiên tính của Đức Kitô.
(2) Phải yêu thương
nhau: Thiên Chúa là tình yêu, ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa.
Khi một người có Thiên Chúa, là có cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Ngược lại, ai ghét
anh em mình, kẻ ấy sẽ không có Thiên Chúa.
1.2/ Làm thế nào để nhận
ra sự thật? Phải cân nhắc để nhận ra sự thật: “Anh
em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi
Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian.” Hai
tiêu chuẩn cần dựa vào để nhận ra sự thật:
(1) Người nói sự thật
là người nhìn nhận Đức Kitô đến từ Thiên Chúa: “Căn cứ vào điều này, anh
em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng
đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào
không tuyên xưng Đức Giêsu, thì không bởi Thiên Chúa; đó là thần khí của tên Phản-Kitô.”
Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và hiện nay nó ở trong thế gian rồi. Thời
Thánh Gioan, có ít nhất 2 bè rối chống nhân tính của Đức Kitô là Phái Thuần Tri
Thức và Bè rối Docetism; trong khi Nhóm Do-Thái bảo thủ từ chối không tiếp nhận
thiên tính của Chúa Giêsu.
(2) Người nói sự thật
không được thế gian chấp nhận: Đối với Gioan, chỉ có trắng hay đen, chứ
không có vùng xám ở giữa; chỉ có sự thật của những người tin theo Đức Kitô hay
sự gian trá của những người không tin Đức Kitô. Người Kitô hữu là những người
tin Đức Kitô. Họ thuộc về Thiên Chúa. Họ nói sự thật và thế gian không tin họ.
Kẻ Phản-Kitô là những người từ chối không tin Đức Kitô. Họ thuộc về thế gian. Họ
nói những điều giả trá và thế gian tin họ. Tuy nhiên, Gioan củng cố niềm tin của
các tín hữu: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, anh em thuộc về Thiên Chúa,
và anh em đã thắng được các ngôn sứ giả đó, vì Đấng ở trong anh em mạnh hơn kẻ ở
trong thế gian. Các ngôn sứ giả đó thuộc về thế gian; vì thế, chúng nói theo thế
gian, và thế gian nghe chúng. Còn chúng ta, chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Ai biết
Thiên Chúa thì nghe chúng ta. Ai không thuộc về Thiên Chúa thì không nghe chúng
ta. Chúng ta cứ dựa vào đó mà nhận ra thần khí dẫn đến sự thật và thần khí làm
cho sai lầm.”
2/ Phúc Âm: Chúa
Giêsu tỏ mình cho tất cả mọi người.
2.1/ Chúa Giêsu bắt đầu sứ
vụ giảng dạy cho Dân Ngọai tại miền Bắc của Galilee:
Galilee là vùng đất
phì nhiêu, rất đông dân, nhưng bao quanh bởi các Dân Ngọai: Phía Tây Bắc là người
Phoenicia, phía Đông Bắc là người Syria, và phía Nam là người Samaria; vì thế,
Galilee chịu nhiều ảnh hưởng của Dân Ngọai hơn bất cứ vùng nào của người
Do-Thái. Hơn nữa, Galilee còn là trục lộ giao thông của miền Trung Đông: Con Đường
Ven Biển nối từ Damascus, Syria, tới Ai-Cập, rồi qua Phi Châu phải băng ngang
qua Galilee; Con Đường tới phía Đông cũng phải qua Galilee. Vì thế, có thể nói:
giao thông của thế giới phải ngang qua Galilee. Trong khi đó, Judah ở một vị
trí tách biệt, không tiện lợi cho việc giao thông tới các nơi trên thế giới. Có
người nhận xét về sự khác biệt giữa hai miền như sau: “Galilee là đường dắt tới
mọi nơi, trong khi Judah không dắt tới đâu cả.” Điều này cho chúng ta thấy,
Chúa Giêsu rất tinh tế trong việc lựa chọn địa danh để rao giảng. Ngài chọn
Galilee là chỗ đông dân cư, và là chỗ qua lại của nhiều nền văn minh thế giới;
để nhiều người có cơ hội nghe Tin Mừng Ngài rao giảng.
Trình thuật hôm
nay cũng đề cập tới việc Chúa Giêsu làm ứng nghiệm lời Tiên-tri Isaiah khi Ngài
bắt đầu sứ vụ rao giảng tại vùng này: “Này đất Zebulun, và đất Naphtali, hỡi
con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Jordan, hỡi Galilee, miền đất của Dân
Ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những
kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.”
2.2/ Từ Zebulun và Naphtali, Tin Mừng của Chúa Giêsu được
lan rộng ra khắp nơi:
(1) Trước hết, Chúa
Giêsu loan báo Tin Mừng trong khắp miền Galilee; sau đó đến các vùng: Thập
Tỉnh, Thành Jerusalem, miền Judah, và vùng bên kia sông Jordan. Dân chúng các
nơi lũ lượt kéo đến đi theo Người.
(2) Họat động truyền
gíao của Chúa Giêsu: Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng là "Anh em hãy sám
hối, vì Nước Trời đã đến gần." Ngài giảng dạy trong các hội đường, rao giảng
Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Thiên hạ
đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị
quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã chữa lành họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải nhận
ra nhu cầu học hỏi Lời Chúa để biết và sống theo sự thật.
- Chỉ có một cách duy
nhất để nhận ra sự thật từ bao nhiêu sự gian dối là dựa vào Lời của Thiên Chúa.
- Hai tiêu chuẩn căn bản
để nhận ra sự thật: chúng ta phải tin Đức Kitô đến từ Thiên Chúa và phải giữ
các giới răn của Ngài.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên OP
07/01/19 THỨ
HAI SAU LỄ HIỂN LINH
Mt 4,12-17.23-25
Mt 4,12-17.23-25
ÁNH SÁNG ĐÃ BỪNG
LÊN
“Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm, đã thấy một ánh sáng
huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh
sáng bừng lên chiếu rọi.” (Mt 4,16)
Suy niệm: Ánh sáng huy hoàng bừng lên tại cánh đồng Bê-lem, ánh sao
lạ rực rỡ trên bầu trời đêm Giê-ru-sa-lem, nhưng dân cư tại đó vẫn say giấc mộng;
chỉ có đám mục đồng còn thức canh giữ đoàn chiên đón nhận được lời loan báo Hài
Nhi giáng sinh, và chỉ có ba nhà chiêm tinh theo ánh ngôi sao lạ tìm đến thờ lạy.
Các mục đồng, những người nghèo khó chất phác đơn sơ, và ba nhà chiêm tinh, bậc
thức giả say mê kiếm tìm Chân Thiện Mỹ, họ tuy khác nhau về tầng lớp xã hội
nhưng cùng đại diện cho những người thiện tâm, không “ngủ mê” trong tự mãn, đam
mê, nhưng nỗ lực vươn lên không ngừng, để “bắt đầu và lại bắt đầu”, bất chấp những
thách đố, những cạm bẫy trần gian: Họ là những người nhìn thấy ánh sáng hiển
linh của Con Thiên Chúa làm người.
Mời Bạn: Bốn lối sống “thời thượng” trong xã hội ngày nay là chủ
nghĩa vô thần, chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa cá nhân,
chúng là những cản trở khiến con người không thể nhìn thấy ánh sáng hiển linh của
Chúa Ki-tô. Chúng ta có đang bị những lối sống ấy chi phối khiến cho ánh sáng của
Đức Ki-tô không thể bừng lên trong thế gian này không?
Chia sẻ: Đâu là những dấu hiệu cho thấy lối sống thế tục đang len
lỏi vào và làm biến chất đời sống kitô hữu?
Sống Lời Chúa: Xét mình: Cách tôi làm ra và sử dụng của cải vật chất có
bị tiêm nhiễm bởi lối sống thế tục không?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin mở mắt cho con nhìn thấy Ánh Sáng của
Chúa, và sống theo Chân Lý của Ngài.
(5 phút Lời Chúa)
Ánh sáng và sự sống
Làm thầy dạy và làm lương y là hai nghề
đặc biệt tiếp nối công việc ngày xưa của Thầy Giêsu, để loan báo cho thế giới
hôm nay về sự sống, ánh sáng và hy vọng.
Suy niệm:
Từ sau lễ
Hiển Linh đến lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa, Giáo Hội cho chúng ta đọc các
bài Tin Mừng về việc Chúa tỏ mình. Mỗi bài là một dịp Chúa tỏ mình cho Dân
của Người.
Bài đọc
hôm nay cho thấy Đức Giêsu tỏ mình lần đầu tiên tại Galilê, vùng đất có
nhiều người ngoại giáo sinh sống. Ngài tỏ mình tại Caphácnaum, một tỉnh lớn
chuyên đánh cá gần hồ Galilê,tỉnh này nằm trong địa giới của chi tộc Naptali
ngày xưa.
Thánh
Mátthêu thấy việc tỏ mình này làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia:“Đoàn dân đang
ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng,những kẻ đang ngồi trong
vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1). Như
thế Đức Giêsu chính là ánh sáng rực rỡ xua tan bóng tối, Người nâng dậy những
ai đang ngồi trong cảnh chết chóc, tối tăm. Phần sau của bài Tin Mừng hôm
nay cho ta thấy điều đó (Mt 4, 23-25).
Đức
Giêsu đã đi khắp vùng Galilê để làm ba việc: dạy dỗ trong các hội đường,
rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh nhân. Thật ra việc dạy dỗ và việc rao
giảng có thể coi là một, nếu thế chương trình hành động của Đức Giêsu sẽ gồm
giảng dạy và chữa bệnh. Dù giảng dạy hay chữa bệnh, Đức Giêsu chỉ muốn một
điều đó là làm vơi nhẹ gánh nặng của những người đang đau khổ.
Đức Giêsu loan báo Nước Trời đã đến gần (Mt 4, 17), và Người chứng tỏ
cho thấy Nước ấy đã đến thật rồi qua việc chữa lành moi bệnh hoạn tật nguyền
của dân. Cách đây hai ngàn năm, đã có những người bị quỷ ám, kinh phong, bại
liệt.Ngày nay, dù khoa học tiến bộ, nhưng bệnh tật vẫn không tha con người. Y
khoa vẫn phải đối mặt với những chứng bệnh mới, chưa có thuốc chữa. Con
người không bị ám bởi quỷ, nhưng bởi những sản phẩm do mình làm ra. Làm thầy
dạy và làm lương y là hai nghề đặc biệt tiếp nối công việc ngày xưa của Thầy
Giêsu, để loan báo cho thế giới hôm nay về sự sống, ánh sáng và hy vọng.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa đã bẻ tấm bánh
trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ. Vì
Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với
những khó khăn gay gắt của cuộc sống. Vì Chúa bị kết án bất công, xin
cho chúng con can đảm bênh vực sự thật. Vì Chúa bị làm nhục và nhạo
báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng. Vì Chúa
chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ
nâng. Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền
hòa thắng được bạo lực. Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin
cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với
nhau. Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ, xin
cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Giêng
7 THÁNG GIÊNG
Hành Trình Trực Chỉ
Giê-ru-sa-lem
Các nhà thông thái
phương Đông là những người ngoại giáo đầu tiên đón nhận mạc khải đức tin vào
Chúa Kitô. Họ là những người đầu tiên tiếp cận mầu nhiệm thừa tự mà Thiên Chúa
đã mở ra cho mọi người nơi Đức Giêsu Kitô: cuộc Nhập Thể của Con đời đời của
Thiên Chúa.
Mầu nhiệm ấy, nhờ Chúa
Thánh Thần vén mở, đã được các nhà thông thái tiếp cận ngay cả trước khi nó được
mạc khải cho các tông đồ – và ngay cả trước khi Tin Mừng được nhận biết như là
con đường dẫn tới đức tin. Nơi các nhà thông thái này, chúng ta tìm thấy một
hình mẫu của công cuộc tiền-Phúc-Âm hóa. Chúng ta thấy rõ linh hồn họ đã được
Thiên Chúa chuẩn bị để đón nhận ơn cứu độ. Đây cũng là một công trình của Chúa
Thánh Thần, Đấng mạc khải ý nghĩa của ánh sao mà các nhà thông thái đã dõi bước
theo trên hành trình trực chỉ Giê-ru-sa-lem. Aùnh sao ấy biểu trưng ý nghĩa rằng
ơn cứu độ của họ vẫn còn ở xa xa, réo gọi.
Trong ngày Lễ Hiển
Linh, phụng vụ của Giáo Hội cũng muốn dẫn dắt chúng ta trên hành trình của mình
tiến về Giê-ru-sa-lem. Chúng ta hướng lòng về thành Thánh, “thành đô của Đại
Vương”. Cho dẫu cư dân Giê-ru-sa-lem không hề hay biết rằng vị Vua Vinh Quang
đã được sinh ra giữa họ, thì phần mình, chúng ta vẫn vui mừng hoan hỉ hướng về
thành Thánh. Bởi đó là ‘thành đô của Đại Vương’.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
do nhà Servant Pubns xuất bản, 1994.
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Raimunđô
Penyafort, linh mục; 1Ga 3, 22-4,6; Mt 4, 12-17.23-25.
LỜI SUY NIÊM: “Đức Giêsu
nghe tin ông Gioan bị nộp, Người lánh qua miền Galilê. Rồi Người bỏ Nadarét, đến
ở Caphácnaum, một thành ven biển hồ Galilê, thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali, để
ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói” (Mt 4,12-14).
Mỗi người đều có một sứ
mạng truyền giáo, mỗi người đều có những môi trường và hoàn cảnh thuận tiện và
không thuận tiện. Chúng ta đều phải cố gắng thực hiện cho được công tác mà mình
đã nhận lãnh. Nhưng không phải cứ liều mạng lao đầu vào chốn hiểm nguy, vì tự
ái, vì anh hung tính của mình. Việc truyền giáo phải biết đặt Thánh Ý của Thiên
Chúa trên hết mọi sự, tất cả vì Thiên Chúa, vì việc thờ phượng tôn vinh Ngài.
Nên trong mọi công tác và đời sống của chúng ta tiên vàng là phải cầu nguyện,
xin cho được ơn khôn ngoan và suy biết, hầu trong mọi sự chúng ta sẽ được Chúa
hướng dẫn và ban ơn để chúng ta hoàn thành công việc một cách tốt đẹp theo
Thánh Ý của Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 07-01:
THÁNH RAYMUNDO
PENYAFORT
Linh Mục (1175-1275)
Thánh Raymudô chào đời
năm 1175 trong một gia đình hiệp sĩ tại lâu đài Penyafort ở California. Không
chiều theo cuộc sống dễ dãi, Ngài đã dành trọn nỗ lực tuổi trẻ vào việc học
hành và thực tập các nhân đức. Mới 20 tuổi, Ngài đã giữ ghế triết tại đại học Barcelona.
Nhưng vì tinh thần hiếu học và muốn giúp ích cho Giáo hội đắc lực hơn, năm 30
tuổi, Ngài qua Italia để tiếp tục học luật tại Bologna. Tại đây Ngài đã tốt
nghiệp tiến sĩ và thành công trong nghề luật sư, lại còn giảng dạy tại chính đại
học Bologna trong ba năm. Nhiều nhà quí phái và bậc thứ giả tìm đến với Ngài. Tận
tụy hướng dẫn họ, Ngài chỉ mong cho họ tiến bộ. Nếu có bị ép để nhận một ít thù
lao nào, Ngài cũng đem phân phát cho người nghèo.
Năm 1249, Đức giám mục
địa phận Bacelona mời Ngài về giúp việc địa phận. Nhưng lúc 48 tuổi, thánh nhân
đã trốn mọi danh vọng và xin gia nhập dòng Daminh, Ngài chỉ ao ước được trao
phó cho những công việc thấp hèn nhất. Nếu được tán thưởng, Ngài liền xin bề
trên cho được làm việc đền tội. Tuy nhiên việc đền tội Ngài không mong mỏi chút
nào, là việc nhà dòng trao cho Ngài trách nhiệm viết một tác phẩm về các vấn đề
lương tâm để hướng dẫn các cha giải tội. Tác phẩm này cho tới ngày nay vẫn còn
danh tiếng.
Năm 1230, Đức giáo
hoàng Gregoriô IX cảm kích những thành quả do thánh Raymundô mang lại, đã mời
làm cha giải tội cho mình, đồng thời chọn Ngài làm tổng giám mục thành
Tarragona. Nhưng danh dự này đã khiến thánh nhân, khi nghe tin, lên cơn sốt liền
trong vòng ba ngày, Ngài đã xin các đức hồng y can thiệp cho mình khỏi lãnh nhận
danh dự và gánh nặng này. Cuối cùng Đức giáo hoàng đành chấp thuận. Năm năm làm
việc tại giáo triều, đức giáo hoàng đã ủy thác cho thánh nhân thu thập các sắc
lệnh của các đức giáo hoàng và các công đồng thánh nhân đã gom góp vào năm cuốn
sách và được phê chuẩn năm 1234. Ngoài việc chu toàn các nghĩa vụ được trao
phó, Ngài còn theo đuổi một nếp sống nhiệm nhặt, khiến Ngài lâm trọng bệnh.
Thánh nhân liền khẩn nài cho mình được trở về với nếp sống tu sĩ bình thường.
Từ khứơc mọi đặc ân
thánh nhân rời khỏi Roma trở về Barcelona. Trên chuyến tàu Ngài gặp một người
lâm bệnh nặng không còn nói năng gì được. Cầu nguyện và xin mọi người cầu nguyện
cho ông, thánh nhân hỏi ông có muốn xưng tội không ? Bệnh nhân bỗng nói được.
Ông ta đã xưng tội rồi tắt thở.
Tại Barcelon, thánh
nhân trở lại đời sống sám hối rất gương mẫu. Hàng ngày Ngài vẫn xưng tội rước
khi dâng lễ. Ngài nói: - "Những ngày bị ngăn trở không xưng tội được, đối
với tôi là những tang chế u sầu".
Năm 1238, Ngài được bầu
làm bề trên tổng quyền thứ ba của dòng Daminh. Suốt hai năm làm bề trên, Ngài
đã đi bộ đến thăm viếng mỗi tỉnh dòng để hun nóng lòng nhiêt thành của các tu
sĩ. Hai năm sau Ngài xin từ chức vì tuổi già sức yếu.
Tuy nhiên trong tuổi
già yếu, Ngài vẫn góp phần xây dựng cho tổ quốc. Ngài đã viết thư yêu cầu thánh
Tôma viết một bộ sách để chống lại bọn lạc giáo, như vua Giacôbê yêu cầu. Thánh
Tôma đã nhận lời và viết bộ sách "Summa Contra Ghentiles" Dù được nhà
vua quí mến chiều chuộng, nhưng thánh nhân không ngại cảnh cáo ông ta. Một lần
kia, trong cuộc chinh phục đảo Maiorqua. Vua mời thánh nhân cùng đi. Thánh nhân
nhận lời với ước vọng giảng thuyết để phá đổ những sai lầm tại đó. Nhưng tới
nơi, Ngài khám phá ra rằng nhà vua đang phá hoại tổ chức bằng cuộc sống tội lỗi
của mình. Ngài can ngăn nhưng nhà vua không giữ lời hứa.
Thánh nhân liền tuyên
cáo: - Vì Ngài không bỏ đường tội lỗi nên tôi sẽ bỏ đi.
Hoảng hốt, nhà vua cấm
mọi tàu thuyền không được phép chở Ngài. Tương truyên rằng: thánh nhân đã nói với
một tu sĩ đi theo Ngài rằng: - Một vua trần thế cản đường, thì vua trên
trời sẽ mở lối cho chúng ta đi.
Nói rồi, Ngài cởi áo
ngoài trải ra trên mặt biển, cắm cây gậy làm cột và cuốn một góc làm buồm. Ngài
mời thầy dòng lên "Tàu" nhưng ông không dám. Thế là một mình Ngài đáp
"tàu" hồi hương. Vài giờ sau thánh nhân tới bến và Ngài vội vàng cuốn
áo thẳng về nhà dòng để tránh tiếng hoan hô của dân chúng. Phép lạ này đã trở
thành sức mạnh cải hóa nhà vua, đưa ông trở lại với lương tâm và quê hương
mình.
Về già, thánh Raymundô
đã chịu nhiều cơn đau yếu, nhưng lòng nhiệt thành của Ngài vẫn bốc cháy không
ngừng. Ngày 6 tháng giêng năm 1275 Ngài đã từ giã cõi thế là nơi mà Ngài đã hiến
trọn đời phụng vụ Chúa.
(Daminhvn.net)
07 Tháng Giêng
33 Năm Sau
Với tựa đề "33
năm sau", đó là một câu chuyện thuật lại như sau: "Những gì đã xảy ra
cho đứa bé năm nào?". Một trong ba vua đã đi triều bái vua Do Thái mới
sinh tự hỏi. Suốt cuộc đời mình, nhà vua không thể nào quên được cuộc hành
trình cách đây khoảng 33 năm, một cuộc hành trình dõi theo ánh sáng sao lạ dẫn
ông đến hang đá Bêlem.
Câu hỏi: "Liệu
đứa bé ấy có trị vì dân Israel được không?". Làm cho nhà vua bồn chồn đứng
ngồi không yên. Rồi chẳng dừng được, một lần nữa nhà Vua quyết định lên đường
đi đến Palestine. Tại Giêrusalem, những bậc bô lão còn nhớ đến những vì sao lạ,
nhưng không ai biết gì đến đứa bé được sinh ra dưới điềm lạ ấy. Còn tại Bêlem mọi
người được hỏi đều lắc đầu, ngoại trừ một cụ già cho nhà Vua biết: Làm gì có
ông Giêsu Bêlem, chỉ có ông Giêsu Nagiarét, một người nói phạm thượng tự xưng
mình là Con Thiên Chúa, nên cách đây mấy tuần đã bị xử "tử hình thập
giá".
Thất vọng ê trề,
nhà Vua thẫn thờ nhập vào đoàn những người hành hương trở lại Giêrusalem, vào
đúng ngày Lễ Ngũ Tuần. Chen lấn vào đoàn lũ đang mừng lễ Tạ Ơn Sau Mùa Gặt, nhà
Vua chú ý đến một đám đông đang bu quanh một nhóm người. Tò mò ông lấn qua đám
đông để đến gần và nghe có kẻ nói: "Tưởng gì chứ lại gặp mấy tên say rượu
nói tầm xàm".
Nhưng tai nhà Vua lại nghe một người trong nhóm nói tiếng nước mình và rõ ràng ông ta nói về ông Giêsu Nagiarét, người đã bị đóng đinh, nhưng đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết. Như bị một sức mạnh vô hình thúc đẩy, nhà Vua chen vào đám đông cất tiếng hỏi: "Vậy bây giờ ông Giêsu đó ở đâu?". Ðại diện nhóm người đứng ở giữa đám đông là Simon Phêrô trả lời: "Ngài đang ở giữa chúng tôi. Ngài đang ở trong chúng tôi. Chúng tôi là môi miệng, là tai mắt, là đôi tay, là đôi chân của Ngài".
Nhưng tai nhà Vua lại nghe một người trong nhóm nói tiếng nước mình và rõ ràng ông ta nói về ông Giêsu Nagiarét, người đã bị đóng đinh, nhưng đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết. Như bị một sức mạnh vô hình thúc đẩy, nhà Vua chen vào đám đông cất tiếng hỏi: "Vậy bây giờ ông Giêsu đó ở đâu?". Ðại diện nhóm người đứng ở giữa đám đông là Simon Phêrô trả lời: "Ngài đang ở giữa chúng tôi. Ngài đang ở trong chúng tôi. Chúng tôi là môi miệng, là tai mắt, là đôi tay, là đôi chân của Ngài".
Trong lúc Phêrô
đang nói, bỗng có một luồng gió thổi mạnh và hình lưỡi lửa một lần nữa thổi
tràn xuống mọi người. Nhà Vua bỗng lại thấy ánh sao Bêlem, nhưng lần này ánh
sao ấy chia ra nhiều ánh sao khác rơi xuống mọi người. Trong tâm hồn, nhà Vua
chợt hiểu: Mỗi người phải trở nên máng cỏ nơi Ðức Giêsu sinh ra và mỗi người phải
mang Ngài đến cho mọi người xung quanh.
Câu chuyện trên nối liền
ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh, mừng biến cố Ngôi Lời nhập thể với Lễ Tưởng Niệm Biến
Cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Ðồng thời câu chuyện cũng nêu nổi bật bổn phận của
mọi người Kitô, là những kẻ phải trở nên tai mắt, trở nên môi miệng và chân tay
của Ðức Kitô để mang Tin Mừng của Ngài đến cho mọi người chúng ta gặp gỡ và cộng
tác hằng ngày.
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét