31/01/2019
Thứ Năm tuần 3 thường niên
Thánh Gioan Boscô, linh mục.
Lễ nhớ.
* Chào đời năm 1815
tại Cáttennôvô, giáo phận Tôrinô, Gioan đã trải qua thời thơ ấu trong hoàn cảnh
khó khăn, vì thế, khi làm linh mục, người dấn thân lo việc giáo dục thanh thiếu
niên. Người lập dòng các tu sĩ Salêdiêng và dòng Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu để
huấn luyện thanh thiếu niên về nghề nghiệp và đời sống đạo. Người qua đời năm
1888.
BÀI ĐỌC I: Dt 10, 19-25
“Chúng ta hãy kiên trì tuyên xưng
niềm hy vọng của chúng ta, và hãy thúc giục nhau thực thi bác ái”.
Trích thơ gửi tín hữu
Do-thái.
Anh em thân mến, nhờ
máu Chúa Giêsu, chúng ta tin tưởng bước vào cung thánh. Đó là con đuờng mới và
sống động mà Người đã mở cho chúng ta, xuyên qua tấm màn là thân xác Người; và
ban cho chúng ta có một thượng tế cai quản nhà Thiên Chúa. Chúng ta hãy tiến đến
với lòng chân thành, đầy đức tin, lòng được trong sạch khỏi lương tâm gian ác,
và thân xác được tắm gội bằng nước trong sạch. Chúng ta hãy kiên trì tuyên xưng
niềm hy vọng của chúng ta, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín. Chúng ta hãy thúc
giục nhau thực thi bác ái và làm việc thiện. Đừng trốn tránh những buổi hội
chung như ít người có thói quen, nhưng anh em hãy khích lệ nhau, nhất là khi thấy
ngày đó gần đến. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 23, 1-2.
3-4ab. 5-6.
Đáp: Lạy Chúa, đó
là dòng dõi người tìm kiếm Chúa (c. 6).
Xướng: 1) Chúa là chủ
trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong.
Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển cả, và Ngài giữ vững nó trên chỗ nước nguồn.
– Đáp.
2) Ai khá trèo lên cao
sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Ngài? Người tay vô tội và lòng
thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa. – Đáp.
3) Người đó sẽ được
Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Đấng cứu độ ban ân thưởng. Đó là dòng
dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp. – Đáp.
ALLELUIA: Tv 24, 4c và
5a
Alleluia, alleluia!
– Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn con trong
chân lý của Ngài. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 4, 21-25
“Đèn đốt lên là để đặt trên giá
đèn. Các ngươi đong đấu nào, thì người ta sẽ đong đấu ấy cho các ngươi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng dân chúng rằng: “Có ai đem đèn sáng đặt trong thùng hay dưới gầm giường
chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao? Vì chẳng có gì giấu kín mà chẳng
tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng. Ai có tai để nghe,
thì hãy nghe”. Và Người bảo họ rằng: “Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy.
Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy,
và người ta còn thêm nữa. Vì ai có, sẽ được cho thêm; và ai không có, cả cái
đang có cũng bị lấy mất”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Ðong đấu nào
Thi hào Tagore có kể
câu truyện ngụ ngôn như sau: Có một người hành khất nọ ngồi bên vệ đường. Hôm ấy,
đức vua ngự giá đi ngang qua. Người hành khất cố lê lết đến cổng làng, ngồi đó
và nhủ thầm: "Ðây là dịp may hiếm có, tôi sẽ xin đức vua bố thí cho
tôi".
Từ xa, khi thấy xe
đức vua, người hành khất đã vẫy tay chào. Nhưng không ai ngờ, khi xe dừng lại,
vua chẳng cho gì mà còn giơ tay xin người hành khất bố thí. Người hành khất liền
đưa tay vào cái bị, lấy ra một nắm thóc và đặt vào bàn tay vua một hạt thóc. Ðức
vua cám ơn, rồi tặng lại một món quà nhỏ bỏ vào cái bị ấy.
Khi về đến nhà, người
hành khất mở bị ra, thì thấy giữa những hạt thóc một hạt kim cương sáng ngời.
Lúc đó, người hành khất mới hối tiếc: "Phải chi ta cho đức vua cả bị thóc
này, thì ta đã được cả một bị kim cương".
Trong Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Các con đong đấu nào thì Thiên Chúa
cũng sẽ đong cho các con đấu ấy, và còn cho các con hơn nữa". Nói khác đi,
chỉ có một đấu duy nhất, là nếu chúng ta làm điều gì đó cho người anh em, thì
chính đấu ấy sẽ đong lại cho chúng ta. Có một tội mà ít ai tránh khỏi, đó là tội
ích kỷ. Vì ích kỷ là chỉ muốn thu vén điều tốt cho mình, còn dành điều xấu cho
người khác, do đó chẳng quan tâm gì đến những bất hạnh của người khác.
Ước gì Lời Chúa hôm
nay giúp chúng ta suy xét và điều chỉnh lại cuộc sống trong tương quan với tha
nhân, với ý thức rằng những gì chúng ta làm cho người anh em, là làm cho chính Chúa,
và rằng Chúa sẽ đối xử với chúng ta theo cung cách chúng ta đối xử với người
khác.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 3 TN, Năm lẻ
Bài đọc: Heb
10:19-25; Mk 4:21-25.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu là
trung gian giữa Thiên Chúa và con người.
Làm sao con người có
thể tiến gần tới Thiên Chúa? Phải chăng bằng kiến thức bí mật? Phải chăng bằng
máu chiên bò? Phải qua Đức Kitô, Người Con của Thiên Chúa?
Các Bài Đọc hôm nay
xoay quanh Chúa Giêsu, Người là trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Trong
Bài Đọc I, tác-giả Thư Do-thái so sánh Bức Màn trong Đền Thờ, ngăn cản giữa con
người với Thiên Chúa, với Bức Màn mới, là chính thân thể của Đức Kitô. Ngài đã
xé tan bức màn trong Đền Thờ để con người có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa ở
mọi nơi và mọi thời. Trong Phúc Âm, Thánh Marcô dẫn chứng một số những câu nói
của Chúa Giêsu về ánh sáng, về sự thật, về sự liên hệ giữa việc cho đi và nhận
lại; và về sự cần thiết phải luôn cố gắng trau dồi thêm.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúa Giêsu đã mở toang bức màn ngăn cản giữa con người và
Thiên Chúa.
1.1/ Bức màn ngăn cản giữa
Nơi Thánh và Nơi Cực Thánh trong Đền Thờ: Để
hiểu ý tác-giả, chúng ta cần phải trở về với cấu trúc trong Đền Thờ của Cựu-Ước.
Để phân biệt Nơi Thánh và Nơi Cực Thánh, một “bức màn” che kín từ trên xuống dưới
được dựng nên, để ngăn cách con người khỏi sự hiện diện của Thiên Chúa. Chỉ có
Thầy Thượng Tế mới được vượt qua bức màn này để dâng của lễ đền tội mỗi năm một
lần mà thôi.
Khi Chúa Giêsu trút
hơi thở trên Thánh Giá, các tác giả của Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện
“bức màn này trong Đền Thờ bị xé ra làm đôi từ trên xuống dưới” (Mat 27:51, Mk
15:38, Lk. 23:45).
1.2/ Ý nghĩa của biến cố
này: Tác giả Thư Do-Thái chú giải: “Vậy,
thưa anh em, nhờ máu Đức Giêsu đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung
thánh. Người đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức
là chính thân xác của Người.” Nhờ Chúa Giêsu, từ nay con người có thể đến trực
tiếp với Thiên Chúa bất cứ lúc nào.
2/ Phúc Âm: Những thực tại trần gian và trên trời.
Trong Tin Mừng hôm
nay, Marcô tường thuật một lúc những câu dạy dỗ của Chúa Giêsu ở nhiều biến cố
khác nhau. Một người có thể nhận ra điều này khi đối chiếu với Tin Mừng của
Matthew. Vì thế, chúng ta sẽ phân tích từng câu một; vì mỗi câu tự nó đã đầy đủ
ý nghĩa; sau đó chúng ta sẽ tìm xem nếu các câu có liên hệ với nhau.
2.1/ Mục đích của đèn là
để soi sáng: Chúa Giêsu nói: “Chẳng lẽ đèn
được mang tới để bị đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường? Nào chẳng phải là để
được đặt trên trụ đèn sao?” Ai ai cũng đều hiểu công dụng của đèn là để soi
sáng cho mọi người; vì thế, cần phải đặt trên trụ cao để soi sáng một diện tích
lớn chung quanh. Đèn để dưới sàn chỉ có thể soi sáng một diện tích nhỏ. Lấy
thùng úp vào đèn hay đặt dưới gầm giường là làm mất công dụng của đèn.
Sự Thật được ví như
đèn; mục đích của sự thật là để hướng dẫn đời sống con người. Vì thế, con người
cần phải học, nói, và sống theo sự thật. Con người không được che đậy hay ẩn giấu
sự thật, cho dẫu “sự thật mất lòng.” Sống theo sự thật có thể làm một người bị
chê bai, ghét bỏ, thiệt hại, ngay cả mất mạng sống; nhưng chỉ có sự thật mới thực
sự giải thóat con người. Các thánh tử đạo là những ví dụ của những người dám sống
theo sự thật.
2.2/ Sự Thật không thể bị
che giấu: “Vì chẳng có gì che giấu mà không
phải tỏ bày, chẳng có gì bí ẩn mà không phải đưa ra ánh sáng. Ai có tai nghe
thì nghe!” Con người có thể làm ngơ, từ chối, đàn áp, hay tiêu diệt sự thật;
nhưng sau cùng, họ cũng phải đương đầu với sự thật: không ở đời này cũng ở đời
sau. Ví dụ: Giáo Hội, trong quá khứ, đã từ chối không chấp nhận nguyên lý “trái
đất xoay chung quanh mặt trời” của Copernicus và Galileo (thế kỷ 16 và 17);
nhưng sau cùng Giáo Hội cũng phải chấp nhận sự kiện khoa học này. Vì thế, con
người phải rất cẩn thận khi sống ngược với sự thật, vì phải lãnh mọi hậu quả của
nó. Sức mạnh có thể làm cho người ta sợ; nhưng không thể nào bưng bít sự thật.
Hơn nữa, cho dẫu con người có thể giấu sự thật khỏi tất cả mọi người, nhưng họ
không thể giấu khỏi Thiên Chúa, Đấng nhìn xem và thấu suốt mọi bí ẩn trong
lòng.
2.3/ Cho đi bao nhiêu sẽ
nhận lại bấy nhiêu: Chúa Giêsu dạy: “Anh em
đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em, và còn cho anh em
hơn nữa.” Điều này phải trở thành nguyên tắc làm việc cho con người: hậu quả
hay phần thưởng có được tùy thuộc vào cố gắng hay nỗ lực một người bỏ ra. Nếu một
người chuẩn bị và cố gắng nhiều, họ sẽ thu thập nhiều; và nếu một người chuẩn bị
và cố gắng ít, họ sẽ thu thập ít.
Ví dụ, trong lãnh vực
học hỏi, nếu một người chịu bỏ thời gian nghiên cứu học hỏi, người đó sẽ càng
ngày càng có kiến thức rộng rãi về lãnh vực chuyên môn người đó theo đuổi.
Tương tự trong lãnh vực thờ phượng, nếu một giáo dân chịu khó chuẩn bị đọc các
bài đọc ngay từ lúc còn ở nhà, họ sẽ dễ dàng hiểu và thâu thập được nhiều hơn
khi vị linh mục chia sẻ Tin Mừng. Điều này càng đúng trong lãnh vực phục vụ, nếu
vị chủ chiên chịu bỏ thời giờ để dạy dỗ và huấn luyện đòan chiên, giáo dân sẽ
hiểu biết và hăng say tích cực trong việc giữ đạo hơn. Ngược lại, nếu con người
không chịu bỏ thời gian chuẩn bị, và cố gắng; làm sao con người có thể đòi kết
quả như mình mong ước được?
2.4/ Phải biết dùng thời
gian, tài năng, và của cải Chúa ban: “Ai đã
có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy
mất.” Đây cũng là một nguyên lý sống cho con người: phải năng dùng tài năng
mình đang có, sẽ càng ngày càng tinh luyện hơn; nếu không, sẽ mất dần những tài
năng mình có. Ví dụ, việc học ngọai ngữ: Nếu một người tiếp tục học hỏi và áp dụng
những gì học ở trường, người đó sẽ dần dần thông thạo về ngọai ngữ đó; nhưng nếu
người đó không chịu tiếp tục học hỏi, vốn liếng đã thâu nhận ở trường cũng từ từ
mất đi. Tương tự với món quà vô giá là đức tin: Nếu một tín hữu chịu khó đào
sâu và tìm cơ hội để sống đức tin, người đó sẽ sở hữu một đức tin vững chắc,
không gì có thể lay chuyển được; nhưng nếu người đó không chịu đào sâu và tìm dịp
sống đức tin, người đó sẽ có ngày mất niềm tin đã được trao ban.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúa Kitô là Vị
trung gian đem Thiên Chúa đến cho con người, và đem con người về cho Thiên
Chúa.
– Chúng ta phải là những
ngọn đèn soi cho thế gian bằng cuộc sống thực theo Tin Mừng, để soi sáng cho mọi
người nhìn thấy và tin tưởng vào Chúa.
– Những gì chúng ta sẽ
nhận lãnh tùy thuộc vào những gì chúng ta cho đi. Thiên Chúa và tha nhân sẽ bù
đắp lại tất cả những gì chúng ta đã hy sinh cho đi, và còn hơn thế nữa. Nếu
chúng ta chỉ ích kỷ giữ lại cho mình, chúng ta sẽ mất dần những gì chúng ta
đang sở hữu.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
31/01/2019 – THỨ NĂM TUẦN 3 TN
Th. Gio-an Bốt-cô, linh mục
Mc 4,21-25
LÀ ÁNH SÁNG GIỮA TỐI TĂM
“Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm
giường? Nào chẳng phải là để đặt trên đế sao?” (Mc 4,21)
Suy niệm: “Một ngọn nến nhỏ tỏa sáng
xa biết bao! Cũng vậy, một việc làm tốt tỏa sáng biết bao trong một thế giới mệt
mỏi” (Văn hào W. Shakespeare). Ngọn đèn muốn tỏa sáng xa thì phải được đặt trên
đế cao có lẽ là chuyện chẳng cần bàn cãi. Thế nhưng, ngọn đèn mà Đức Giê-su muốn
ta đặt trên đế lại là chuyện khác, vì đèn ấy chính là Tin Mừng của Ngài. Có vẻ
ta có khuynh hướng che dấu, ngại bày tỏ – nghĩa là đặt dưới thùng hay gầm giường
– thay vì loan báo, trình bày cho người lân cận. Sống triệt để tinh thần
Tin Mừng của Chúa là phương thế hữu hiệu nhất để đặt Tin Mừng ấy trên đế cao.
Ngược lại, coi thường Tin Mừng, không quan tâm Tin Mừng ấy là cung cách thích hợp
nhất cất giấu dưới thùng hay gầm giường.
Mời Bạn: Chắc chắn bạn có kinh nghiệm
này: Cái gì tỏa sáng cũng phải chịu bị đốt cháy. Để là ánh sáng Tin Mừng xua
tan đi bóng tối hận thù, đói khát, bạo lực, sa đọa cho người lân cận, chính bạn
phải chịu hy sinh, quên mình, mất mát. Chỉ khi ấy, ánh sáng Tin Mừng từ trong
tâm hồn bạn mới có thể tỏa sáng, và đó là thứ ánh sáng mạnh mẽ nhất.
Sống Lời Chúa: Tôi từ bỏ ý riêng, khuynh
hướng xác thịt để sống tinh thần Tin Mừng Chúa dạy, ngõ hầu có thể chiếu tỏa
ánh sáng Tin Mừng ấy cho người khác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là ánh sáng con phải đặt trên đế cao, để có thể tỏa sáng cho thế giới. Xin
cho con ý thức mình cũng là ánh sáng trần gian theo Lời Chúa dạy, ngõ hầu qua đời
sống đậm chất Tin Mừng, con có thể chiếu tỏa ánh sáng cho người khác.
(5 Phút Lời Chúa)
Đặt trên đế (31.1.2019 – Thứ Năm
Tuần 3 TN – Lễ nhớ Thánh Gioan Boscô)
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay gồm bốn câu có vẻ rời rạc
được Đức Giêsu nói trong những dịp khác nhau.
Thánh Máccô chia bốn câu này thành hai cặp (cc. 21-22 và 24b-25).
Trong mỗi cặp, câu thứ hai được nối với câu thứ nhất bằng chữ “vì”.
Đức Giêsu nhấn mạnh tầm quan trọng của bốn câu nói trên
qua việc Ngài nhắc nhở ta phải nghe một cách nghiêm túc (cc. 23. 24a).
Thầy Giêsu vẫn quen giảng khởi đi từ những chuyện hàng ngày.
Thời xưa, khi chưa có điện, ngọn đèn dầu đem lại ánh sáng cho cả căn nhà.
Bởi vậy không thể nào hiểu được chuyện ai đó thắp đèn lên,
rồi lại đặt nó dưới cái thùng hay gầm giường.
Cứ sự thường phải đặt nó trên đế để soi sáng mọi sự.
Ngọn đèn mà Thầy Giêsu nói ở đây có thể ám chỉ Tin Mừng của Ngài,
và cũng có thể ám chỉ chính Con Người của Ngài.
Tin Mừng ấy không được phép đem giấu đi,
nhưng phải được quảng bá và rao giảng.
Con Người Đức Giêsu không được che kín sau bức màn,
nhưng phải được từ từ vén mở cho mọi người thấy.
Trong sách Tin Mừng theo thánh Máccô,
Đức Giêsu cấm các môn đệ không được nói với ai Ngài là Đức Kitô (8, 30),
vì chữ “Kitô” khiến người ta lầm tưởng Ngài sẽ đứng lên làm cách mạng.
Nhưng vào cuối đời, khi tay không đứng trước vị thượng tế (14, 61-62),
Đức Giêsu đã nhìn nhận tước vị này, vì nó không còn có thể bị hiểu lầm nữa.
Như thế, những gì được tạm thời che giấu, cuối cùng đã được tỏ lộ,
những gì bí ẩn đã được đưa ra ánh sáng (c. 22).
Đức Giêsu là Kitô, nhưng là một Kitô chịu đau khổ như Người Tôi Tớ (Is
53).
Cuộc đời người Kitô hữu, người đã lãnh nhận phép thanh tẩy,
cũng giống như ngọn đèn đã thắp sáng đặt trên đế.
Không được vì bất cứ lý do gì mà che giấu đi:
vì khiêm tốn không muốn cho ai thấy ánh sáng của mình,
hay vì không dám đương đầu với sức mạnh của bóng tối.
Thế giới hôm nay cần những ngọn đèn Kitô hữu.
Hai tỷ Kitô hữu làm nên hai tỷ ngọn đèn.
Ánh sáng bừng lên xua tan bóng tối của dối trá, hận thù, sa đọa.
Ánh sáng đem lại sự ấm áp của cảm thông, an bình và nâng đỡ.
Khi cảm nhận được ánh sáng, người ta sẽ nhận ra được Kitô hữu là ai.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.
Xin đừng mỉm cười mà nói rằng
Chúa đã ở bên chúng con rồi.
Có cả triệu người chưa biết Chúa.
Nhưng biết Chúa thì được cái gì ?
Chúa đến để làm gì
nếu đời sống con cái của Chúa
cứ tiếp tục y như cũ ?
Xin hoán cải chúng con.
Xin lay chuyển chúng con.
Ước gì sứ điệp của Chúa
trở nên máu thịt của chúng con,
trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con.
Ước gì sứ điệp đó
lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại,
và đòi buộc chúng con,
làm chúng con không yên.
Bởi lẽ chỉ như thế,
sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con
bình an sâu xa,
thứ bình an khác hẳn,
đó là Bình An của Chúa.
(Hélder Câmara)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu. S.J
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
31 THÁNG GIÊNG
Hợp Tác Và Liên Đới
Nếu như trong quá khứ
có một khuynh hướng xem lao động như chuẩn mực duy nhất đo lường giá trị con
người, thì trong thời đại chúng ta lại thấy xuất hiện một nhãn quan mới: đánh
giá con người theo chức năng. Theo cách nhìn này, lao động chỉ có ý nghĩa thông
qua thu nhập trong một nghề nghiệp nào đó. Trước một trào lưu như vậy, chúng ta
càng phải khẩn cấp hơn bao giờ hết để nắm bắt lại niềm xác tín rằng “lao động
là một chiều kích căn bản của hiện sinh con người trên trái đất” (Laborem
exercens 4). Nhưng đồng thời cũng phải nhận thức rằng lao động không phải là cứu
cánh cuối cùng. Vâng, lao động phải luôn luôn phụ thuộc vào con người – và
chính con người mới là mục tiêu và là cứu cánh cuối cùng của lao động (Laborem
exercens 6).
Xuất phát từ sự thật
đó, một yêu cầu quan trọng đặt ra cho tất cả mọi người: yêu cầu phải cộng tác
và liên đới với nhau. Người ta vốn phải luôn luôn cần sự giúp đỡ và cộng tác của
nhau để có thể cùng nhau thăng tiến. Liên đới có luật của nó: không ai có thể
áp đặt nó lên một người khác. Trái lại, mỗi bên đều sẵn lòng đón nhận sự cộng
tác của bên kia trong một đường lối xây dựng. Điều này áp dụng cả cho những
doanh nghiệp cá thể lẫn cho toàn bộ tiến trình sản xuất. Nó cũng áp dụng – theo
một nghĩa rộng – cho tất cả đời sống xã hội.
Khi nhìn lao động và sản
xuất trong tinh thần hợp tác và liên đới, chúng ta có thể nhận ra những vai trò
thiết yếu của mỗi bên liên hệ. Các chủ xí nghiệp và các vị lãnh đạo đảm nhận
vai trò đưa ra các quyết định để bảo vệ mối thống nhất, sự hợp tác và điều hành
hoạt động của xí nghiệp.
Những người lao động độc
lập thì tự nhận lấy các trách nhiệm, những mối ràng buộc và những rủi ro trong
công việc. Họ đem lại sự uyển chuyển cho toàn tiến trình sản xuất và họ được đền
bù thích đáng bởi nguyên tắc phụ trợ. Theo nguyên tắc này, cả nhà nước lẫn xã hội
đều không thể hạn chế sáng kiến và sự lựa chọn tự do của của cá nhân (Huấn thị
của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tự Do và Giải Phóng theo Kitô giáo, số 73).
Về phần mình, những
công nhân trực thuộc các xí nghiệp không chỉ có quyền nhận được món tiền lương
công bằng – tức bảo đảm mức sống cho bản thân họ và gia đình họ; nhưng một cách
liên đới trách nhiệm, họ cũng tham gia vào các sáng kiến và các quyết định có ảnh
hưởng đến đời sống của xí nghiệp, nghĩa là các quyết định có ảnh hưởng đến
chính tương lai của họ. Hơn nữa, họ sẽ làm việc bằng một cung cách sao cho luôn
luôn bảo đảm tôn trọng phẩm giá và khả năng sáng tạo của mình. Như vậy, họ có
thể thực sự cảm nhận được vai trò làm chủ của mình trong môi trường lao động
(Laborem exercens 14 – 15).
Chúng ta biết rằng mọi
quyền đều gắn liền với bổn phận. Nguyên tắc công bằng và bình đẳng không chỉ
chi phối đến các mối quan hệ giữa chúng ta với nhau, nhưng cũng chi phối cả đến
sự đóng góp của mọi người vào thiện ích chung. Nếu chúng ta muốn một xã hội
công bằng hơn và một cuộc sống có chất lượng hơn, mọi người chúng ta đều phải
biết nhìn xa hơn những ích lợi nhất thời của riêng mình. Chúng ta phải sẵn lòng
dự phần vào trách nhiệm chung, vì thiện ích của mọi người.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 31/1
Dt 10, 19-25; Mc 4,
21-25.
LỜI SUY NIÊM: Người nói với các
ông: “Hãy để ý tới điều anh em nghe. Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ
đong đấu ấy cho anh em và còn cho anh em hơn nữa.”
Trong đoạn Tin Mừng này dẫn đưa mỗi người chúng ta đi từ nhận biết điều này đến
điều khác, trước hết chúng ta phải ý thức mình là ánh sáng, đã được giao nhận
trong ngày chịu phép Rửa Tội với lời căn dặn ân cần là phải giữ gìn. Khi đã là
ánh sáng cần phải dương cao, soi sáng cho mọi người trong nhà nhìn thấy. Đồng
thời cũng phải đề phòng những tật xấu và tội lỗi của mình; bởi vì với thời
gian, tất cả đều được phơi bày trước ánh sáng. Tất cả những điều này cần phải
biết lắng tai nghe, để chọn lọc. mà sống, thực hiện trong đời sống của
mình, hầu được Thên Chúa ghi nhận và ban ơn một cách dư đầy.
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con là những ngọn nến được thắp sáng, cần phải dương cao
trước sóng gió của cuộc đời. Xin Chúa ban thêm sức mạnh và sự che chở cho chúng
con, để đèn chúng con tiếp tục được sáng giữa trần gian này.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 31-01: Thánh
GIOAN BOSCÔ
Linh mục
(1815-1888)
Ngày 16 tháng 8 năm
1815, Gioan chào đời trong một túp lều tranh thuộc tỉnh Turinô. Cha Ngài qua đời
lúc Ngài được hai tuổi. Mẹ Ngài là bà Magarita một mình nuôi nấng ba người con
trai. Bà tập cho con quen với công việc nặng nhọc, với đời cầu nguyện. Bà thường
lập lại với các con bà: – Chúa thấy hết, Chúa thấy hết.
Và con cái bà biết rằng
chính nhờ tình yêu mà Người ta làm đẹp lòng Chúa, Gioan sau này sẽ nói: – Nếu
tôi trở thành linh mục đó là nhờ mẹ tôi.
Cậu bé đã tỏ ra có ơn
gọi làm tông đồ. Ngoài đồng cỏ, Ngài đã đổi phần bánh ngon miệng của mình lấy mẩu
bánh đen của một mục đồng nghèo. Mẹ Ngài trách cứ Ngài vì đã làm bạn với những
người xấu. Gioan đáp lại: – Khi con chơi với chúng nó, chúng nó bớt khùng hơn.
Lúc chín tuổi, Gioan
đã có một giấc mơ lạ lùng: một đám đông trẻ con tinh nghịch vây quanh Ngài,
chúng nó nói phạm thượng. Bất chợt chúng hiện hình thành bọn lang sói. Nhưng đức
Trinh Nữ đã nói với Gioan: – Đừng dùng bạo lực, nhưng hãy ngọt ngào nếu con muốn
chiếm được tình nghĩa với chúng.
Ngài còn nói: – Đó là
môi trường làm việc cùng con. Sau này con sẽ làm cho con cái mẹ, điều Mẹ sắp
làm cho những con thú này.
Và rồi những con vật dữ
tợn trên biến thành chiên ngoan Gioan đã kẻ lại giấc mơ trên. Một người anh đã
nói với Ngài: – Mầy sẽ là thằng chăn chiên. Và người anh khác nói tiếp: – Hay
là tướng cướp.
Vì tình yêu Chúa, cậu
bé tưởng tượng ra mình là một thằng múa rối. Ngày Chúa nhật bọn trẻ xếp vòng
tán thưởng nhà nhào lộn và leo giây đại tài, cha mẹ chúng, cũng tới nữa, những
lúc đổi trò, mọi người phải lần chuỗi. Nhà nhào lộn trở thành nhà giảng thuyết,
lập lại bài giảng của cha sở.
Một linh mục già cho
Gioan cuốn sách văn phạm latinh và dạy Gioan học. Một trong các anh ghen tỵ.
Gioan ôm sách đi tìm việc làm trong một nông rại. Hai năm sau trở về nhà, Gioan
phải chân không cuốc bộ hai mươi cây số ngàn để tới trường học mỗi ngày. Sau
này ở trường Chieri, Ngài làm gia nhân khi có giờ rảnh để khỏi tốn tiền mẹ.
Ngài thành lập một hội vui để lôi kéo bạn bè vào đường thiện hảo, lành mạnh.
Gioan được thụ phong
linh mục. Theo phong tục Italia, người ta gọi Ngài là Don Boscô. Mẹ Ngài đã nhắn
nhủ: – Đùng lo nghĩ tới mẹ nữa mà chỉ cầu nguyện cho mẹ thôi. Lo lắng duy nhất
của con là phần rỗi các linh hồn.
Ngài theo học ở
Turinô, viếng thăm các tù nhân và đã kinh ngạc khi thấy bao nhiêu là thanh thiếu
niên ở đó, thấy trong các đường phố những đứa trẻ này bị bỏ mặc cho sự cùng khổ
và tật xấu của chúng. Phương pháp cứu vớt tuổi trẻ này. Trong thánh đường, một
ông quản xua đuổi đứa trẻ lêu lổng. Gioan nhắc nhở ông ta rằng: nó lại không muốn
nhận biết Thiên Chúa tốt lành sao ?
Chính Don Boscô sẽ dạy
nó đọc chữ và giải thích giáo lý cho nó. Hôm sau đứa trẻ trở lại với bạn bè của
mình. Hội bảo trợ đầu tiên được thành lập. Trong hai tháng số trẻ lên tới cả
trăm. Nhưng tụ họp chúng ở đâu ? Khắp nơi người ta đều xua đuổi chúng, và người
ta lại không cho rằng Don Boscô điên rồi sao ? Ngài thuê một căn nhà trong khu
phố nghèo đói nhất và phải trả tiển nửa tháng một lần, Mẹ Ngài lo lắng: – Con
không có lấy một xu.
Thánh nhân trả lời: –
Nếu mẹ có tiền lại chẳng cho con sao ? Mẹ có tin là Chúa quan phòng giầu có vô
cùng lại không tốt bằng mẹ sao ?
Ngài tập họp những trẻ
xấu nết lại và dọn cho chúng ruớc lễ vỡ lòng, khu vực đốn mạt sắp trở thành nơi
có tinh thần Kitô giáo nhất thành phố. Ngài không hề mất tin tưởng. Không có gì
làm Ngài nản chí được. Ngài dẫn về cho mẹ mình những đứa vô lại chiêu tập trong
một hàng quán. Đêm về những đứa vô lại này biến mất, mang theo cả chăn nệm,
Ngài đưa về một thàng nhãi bị trui đến tận xương tủy. Chẳng mấy chốc căn phòng
đã có tới bảy đứa như vậy.
Don Boscô mua một căn
nhà. Trẻ nội trú đông nhung nhúc. Một ngày sống bắt đầu với thánh lễ, sau đó là
đi học hay tập nghề. Chính lúc này mà thánh nhân muốn giúp đỡ từ những người
nghèo tới các công tử. Các nhà sắp được xây dựng khắp nơi, cả đến Mỹ Châu.
Đối với các trẻ em
nam, Gioan đã thiết lập một dòng gồm các linh mục mang danh là Salésien, để
kính thánh Phanxicô Salê mà Ngài đã lấy châm ngôn của thánh nhân làm của mình.
– Lạy Chúa xin cho các
linh hồn vì phần còn lại có đang giá gì cho con đâu ?
Và thánh nhân khuyên nhủ hãy làm điều đó: – Trong vui tươi hoan hỉ không ngừng.
Và thánh nhân khuyên nhủ hãy làm điều đó: – Trong vui tươi hoan hỉ không ngừng.
Cùng với chị thánh
Maria Mazzarello, Ngài cũng thiết lập một dòng tu mang danh hiệu các nữ tu Đức
Mẹ phù hộ. Công cuộc các chị cũng sẽ lan rộng trên khắp thế giới. Mệnh lệnh của
Ngài là: – Hãy tin tưởng cầu nguyện và can đảm tiến tới không ngừng.
Don Boscô đi thực hiện
các công trình tại Pháp. Các sự lạ xảy ra vô số trên đường Ngài đi qua. Ơ
Marseille Ngài gặp một đứa trẻ bệnh hoạn, Ngài bảo nó đọc một kinh kính Mừng và
chữa lành cho nó. Cả đứa trẻ lẫn mẹ nó khóc nức nở vì biết ơn. Dọc đường xe
Ngài bị vây chặt đến độ người đánh xe đã phải kêu lên: – Kéo theo một con quỉ,
còn hơn chở một vị thánh.
Ở Paris Ngài được tiếp
đón tưng bừng. Đức Hồng y xin Ngài chúc lành. Thi sĩ Victor Hugô hai lần muốn gặp
Ngài. Người ta ngạc nhiên khi thấy Ngài rất đơn sơ vui vẻ và hiền hậu. Ngài giảng
dạy nhiều. Các viện mồ côi, trường huấn nghệ, hội bảo trợ mọc lên khắp nước
Pháp. Người ta nói Ngài dừng lại một chút, Người trả lời rằng: lên thiên đàng
ta sẽ ngừng, hoặc, ma quỉ không có ngừng. Don Boscô muốn đưa cả thế giới về với
Chúa Kitô. Các giấc mơ cho Ngài biết rằng: ước muốn của Ngài sẽ được thực hiện.
Trong một giấc mơ Ngài thấy những người hoang dại quỳ gối trước mặt các tu sĩ
Salésiens. Suốt đời Ngài không dứt các giấc mơ, các lời tiê đoán và các thị kiến.
Gioan phải trả cho định
mệnh siêu nhiên của Ngài bằng những dằn vặt mà chỉ mình Ngài biết được. Một vị
Hồng y đã phải lo lắng thấy mặt Ngài xanh mét kiệt sức. Thánh nhân cho Ngài biết
là ma quỉ quấy phá mình cả đêm. Nhưng những người thân cận không hề biết gì những
đau khổ của Ngài. Ngài nói: – Vì hồn tôi đã uống những chén đắng, tôi có quyền
thêm vào những lo âu của con cái tôi bằng một gợn sóng đau khổ không ?
Bọn ác nhân giận dữ vì
việc lành Ngài đã làm, đã tìm cách sát hại Ngài. Nhưng sức mạnh của sự dữ không
nghĩa lý gì. Vượt qua mọi trở ngại tưởng như không thể lướt thắng nổi, Don
Boscô còn hoạt động nhiều hơn nữa. Y sĩ tuyên bố rằng: phép lạ lớn lao nhất là
Don Boscô còn sống được.
Cuối cùng Gioan cảm thấy
rằng: thân xác Ngài không còn chiến đấu nổi nữa. Ngài sắp qua đời. Ngài nói với
các linh mục của mình khi họ tới thăm: – Hãy nói với các con cái của tôi rằng:
tôi đợi chúng tất cả trên thiên đàng.
Ngài còn nói như lời dặn
dò thân thiết nhất: – Hãy cổ võ việc siêng năng rước lễ và lòng tôn sùng Đức
Trinh Nữ:
Người ta còn nghe thấy
Ngài nói trong cơn mê sảng: – Mẹ, mẹ ơi, ngày mai… Mẹ hãy mở cửa thiên đàng cho
con.
Thánh Don Boscô qua đời,
đoàn con cái xếp hàng hôn bàn tay đã tận tình cứu giúp họ. Ngày 30 tháng giêng
năm 1888.
(daminhvn.net)
31 Tháng
Giêng
Kỳ Quan Của Thế Kỷ 19
Ngày 31 tháng 1,
cách đây đúng một thế kỷ, thế giới mất đi một người mà ông Rattazzi, thủ tướng
nước Italia, thời bấy giờ nổi tiếng là người chống báng Giáo Hội, đã phải thốt
lên: “Ngài là kỳ quan vĩ đại nhất của thế kỷ thứ 19. Cả nước Pháp đã suy tôn
Ngài như một vị Thánh Vinh sơn đệ Phaolô của thế kỷ”. Con người đó chính là
Thánh Don Bosco.
Thánh nhân chào đời
năm 1815 tại miền Piemonte, thuộc mạn bắc nước Italia. Mẹ Ngài là bà Magarita
mong ước cho Ngài được làm linh mục. Nhưng bà đã dặn dò con mình: “Mẹ đã sinh
ra trong nghèo khó, mẹ đã sống trong nghèo khó, mẹ cũng muốn chết trong nghèo
khó. Nếu con muốn làm linh mục để giàu có, mẹ sẽ không bao giờ bén mảng đến với
con”.
Don Bosco đã thực
hiện lời khuyên của mẹ. Không những Ngài đã sống nghèo, nhưng chỉ sống với người
nghèo, nhất là trẻ em nghèo. Ngài đã đi khắp hang cùng ngõ hẻm, thu nhặt những
trẻ em lang thang đầu đường xó chợ.
Nếu mãi đến năm
1848, Karl Marx mới đưa ra tuyên ngôn kêu gọi giới công nhân đứng lên, đoàn kết
đấu tranh cho quyền lợi của họ, thì trước đó, Don Bosco cũng đã tranh đấu cho
giới công nhân rồi.
Thời của Thánh
nhân, kỹ nghệ mới phát triển, nhiều vấn đề xã hội được đặt ra. Thánh nhân chủ
trương không chỉ mang lại cho giới trẻ một nền giáo dục về mặt tinh thần hay tu
đức, mà còn giúp cho giới trẻ một nghề nghiệp trong tay. Thánh Don Bosco đã được
xem như là cha đẻ của những trường huấn nghệ ngsày nay.
Phương pháp sư phạm
được Thánh nhân đề ra nhắm đến sự đề phòng hơn là trừng phạt. Thay vì chữa trị
những sai trái, tốt hơn là đề phòng để những sai trái không xảy ra. Trong tất cả
mọi sự, tình thương và sự dịu dàng là cơ sở cho tất cả mọi cư xử của Thánh Don
Bosco.
Hiền lành và vui vẻ là
hai nhân đức trội vượt trong sự thánh thiện của Thánh Don Bosco. Với sự hiền
lành đầy cảm thông, Thánh nhân nhìn mọi người bằng chính cái nhìn của Chúa Giêsu.
Cái nhìn đó muốn nói với tội nhân hay bất cứ một tâm hồn xấu xa nào rằng: “Bạn
có một giá trị cao cả. Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương bạn. Bạn đừng ngã
lòng”.
Ði đôi với sự hiền
lành chính là vui vẻ. Châm ngôn của Thánh Don Bosco chính là: Phụng sự Chúa
trong vui tươi. Sự vui vẻ của Thánh Don Bosco là liều thuốc hữu hiệu nhất cho
thời đại đầy ohiền muộn và chán nản của chúng ta. Niềm vui của Thánh nhân xuất
phát từ một xác tín cơ bản trong Kitô giáo của chúng ta: Thiên Chúa là Tình
Yêu. Do đó những người được Thiên Chúa yêu thương không thể nào buồn thảm được.
Sứ điệp của Thánh Don
Bosco vẫn luôn hợp thời, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Giữa một
xã hội mà tương quan con người được xây dựng trên thù hận, nghi kỵ, bon chen,
giành giật, lừa đảo. Thánh Don Bosco nói với chúng ta rằng: Con người vẫn còn
đáng thương yêu, vẫn còn đáng tôn trọng và tin tưởng.
Giữa một xã hội mà sự
buồn thảm đang ngự trị, Thánh nhân muốn đem lại cho chúng ta nụ cười của lạc
quan. Nụ cười lạc quan đó chỉ có thể nở rộ khi con người còn tin tưởng ở Tình
Yêu của Thiên Chúa. Giữa những mất mát từng ngày, Thánh Don Bosco mời gọi chúng
ta hãy tìm kiếm lại mọi sự trong Tình thương của Chúa.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét