Trang

Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2019

24-03-2019 : (phần II) CHÚA NHẬT III MÙA CHAY năm C


24/03/2019
Chúa Nhật 3 Mùa Chay năm C.
(phần II)


Chúa nhật 3 Mùa Chay năm C

(Xh 3,1-8a.13-15; 1 Cr 10,1-6.10-12; Lc 13,1-9)
THIÊN CHÚA KIÊN NHẪN ĐỢI CHỜ
Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. 
Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. 
May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”
(Lc 13,8-9)
Xuyên suốt chặng đường dài của lịch sử cứu độ, Thiên Chúa cho thấy Người là Đấng yêu thương và thành tín (Xh 34,6; Tv 25,10; Tv 36,6), dù nhiều lúc Người cũng trừng phạt dân Israel để sửa dạy họ (Ds 14,20-38; 21,4-9). Dù Thiên Chúa vẫn hằng kiên nhẫn đợi chờ con người sám hối và thay đổi để được sống (Ed 33,10-11), nhưng thời gian đối với mỗi người không phải là vô hạn.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1.Bài đọc 1:
Qua bài trích sách Xuất Hành, Thiên Chúa mặc khải cho Môsê về chính bản thân Người và kế hoạch của Người dành cho dân Israel.
Trước hết, qua câu chuyện bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi, Thiên Chúa mặc khải cho Môsê biết về một Thiên Chúa Chí Thánh. Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng rất thánh (x. Is 6,3), là Đấng siêu việt vượt trên mọi loài thụ tạo. Đồng thời, Người cũng là một Thiên Chúa ở giữa con người nhưng không hoà lẫn với con người, trở nên gần con người phàm tục nhưng vẫn là Thiên Chúa chí thánh. Vì Thiên Chúa là Đấng thánh nên dân thuộc về Chúa cũng phải là dân thánh (Lv 11,44-45; Lv 19,2), nghĩa là được dành riêng để thuộc về Người (Lv 20,26).
Hơn nữa, Thiên Chúa còn mặc khải cho Môsê biết rằng Người là Đấng Hằng Sống. Người không chỉ là Chúa của Môsê mà đã là Chúa của tổ tiên của ông là các tổ phụ Ápraham, Isaác và Giacóp (x. Xh 3,6.15) và vẫn mãi là Chúa của dân Israel. Danh của Người là Đấng Hiện Hữu, là “Anpha và Omêga, là Đấng hiện có, đã có, và đang đến, Đấng Toàn Năng” (Kh 1,8), nghĩa là một Thiên Chúa độc nhất và thực sự hằng hữu. Người là Thiên Chúa vượt trên thời gian nhưng lại đang hoạt động trong lịch sử của dân Chúa và lịch sử nhân loại.
Quả vậy, Thiên Chúa đã “thấy rõ cảnh khổ cực” của dân Người bên Ai Cập, đã “nghe tiếng kêu than” và đã “biết các nỗi đau khổ” của họ (Xh 3,7). Một Thiên Chúa mà ông Môsê sợ đến nỗi không dám nhìn (x. Xh 3,6b), vì con người không thể thấy Thiên Chúa mà còn sống (x. Xh 33,20) cũng lại là một Thiên Chúa có thể “thấy”, “nghe” và “biết” những nỗi cực nhọc, vất vả, đau khổ của dân Người khi họ đang chịu cảnh nô lệ. Một Thiên Chúa Hằng Sống, Hằng Hữu và Toàn Năng, Đấng siêu việt trên thời gian và không gian, lại đang thật sự hoạt động trong lịch sử dân Chúa để giải thoát họ khỏi cảnh đau khổ của kiếp nô lệ.
2. Bài đọc 2:
Thánh Phaolô nêu lên bài học của các bậc cha ông khi họ cùng ông Môsê ra khỏi Ai Cập để cảnh báo và răn dạy các bậc con cháu.
Thế hệ cha ông đã được Thiên Chúa, dưới sự lãnh đạo của ông Môsê, dẫn đi qua Biển Đỏ, và được Người nuôi dưỡng bằng manna, chim cút (x. Xh 16,1-36) và nước từ tảng đá (x. Xh 17,1-7) trong thời gian đi trong sa mạc. Hình ảnh dân đi qua giữa lòng biển là dấu chỉ tiên trưng của bí tích Thanh Tẩy; cũng vậy, thức ăn và của uống linh thiêng ám chỉ thân mình Đức Kitô, Đấng trở nên Thánh Thể mà các tín hữu Côrintô đang được thụ hưởng.
Qua đây, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Côrintô phải thận trọng và khiêm tốn: Nếu trong sa mạc dân Israel đã được hưởng những ân huệ thiêng liêng, thế rồi họ cũng bị loại (x. Ds 14,16), thì những ân huệ mà họ đang được hưởng cũng có thể bị mất đi nếu họ không học được bài học của cha ông. Nếu họ không nhận ra những ân huệ của Thiên Chúa, lại “chiều theo những dục vọng xấu xa”, và “lẩm bẩm kêu trách”, như dân Israel xưa cũng vì lẩm bẩm kêu trách mà không được vào đất hứa (x. Ds 14,21-23), thì họ cũng sẽ chịu chung số phận. Vì thế, điều cần thiết là khiêm tốn đón nhận ân huệ mà Thiên Chúa ban, mà không coi đó như điều để tự hào, vì “ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10,12).
3. Bài Tin Mừng:
Nhân hai biến cố lịch sử bi thương, Chúa Giêsu cho thấy sự cần thiết của việc sám hối. Đồng thời, qua dụ ngôn cây vả, Người nhấn mạnh việc Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi con người sinh hoa trái.
Quan niệm nhân quả thông thường phổ biến trong dân Do Thái vẫn cho rằng chỉ những người tội lỗi mới bị Thiên Chúa phạt nhãn tiền (x. Ga 9,2). Trái lại, những người bình an vô sự được xem như những người công chính (x. G 4,7; 8,4.20; 22,4-5). Chúa Giêsu bác bỏ qua niệm sai lầm này (x. Ga 9,3) và cảnh báo rằng mọi người đều cần phải sám hối vì ai cũng có những lỗi lầm (Lc 13,3.5).
Thật vậy, những báo cáo về cái chết của những người cùng thời trở thành chủ đề để Chúa Giêsu cảnh báo những người còn sống. Những người chết không hẳn đáng chết hơn những người khác. Người ta không thể gán cho cái chết bất ngờ của ai đó là do tội của họ. Điều mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đó là: cái chết là một thực tại rất gần với bất kỳ ai; nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nó xảy ra đột ngột và không hề có bất kỳ dấu hiệu nào báo trước để kịp sám hối.
Như cây vả được cho thêm thời gian để được chăm sóc và vun xới để có thể sinh hoa trái, mọi người cũng đang được cho thêm thời gian để sám hối. Điều cần thiết là “hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối” (Lc 3,8). Đối với tác giả Luca, lúc mà Chúa Giêsu vẫn đang hành trình lên Giêrusalem, trước khi Người bị bắt và bị kết án, là thời gian thuận tiện cho việc sám hối. Tuy vậy, thời gian sẽ không kéo dài mãi. Người ta sẽ bị loại bỏ nếu không sám hối và thay đổi đời sống, vì “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Lc 3,9).
II. GỢI Ý ÁP DỤNG:
1/ Qua hình ảnh bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi, Thiên Chúa mặc khải cho ông Môsê biết Người là Đấng Chí Thánh, Hằng Hữu, Hằng Sống và Siêu Việt trên mọi loài thụ tạo. Đồng thời, Người cũng là Đấng “nghe”, “thấy” và “biết” những nỗi vất vả, khổ cực của dân Israel trong cảnh lưu đày và nhờ trung gian ông Môsê để giải thoát họ. Thiên Chúa không chỉ là Đấng rất thánh, tách biệt khỏi những gì là phàm tục, tội lỗi của con người, nhưng còn là một Thiên Chúa xót thương và hằng quan tâm, lắng nghe những nỗi thống khổ của nhân loại. Có khi Thiên Chúa ở thật gần con người mà con người chẳng hay biết (x. St 28,16).
2/ Thánh Phaolô nhắc các tín hữu Côrintô về những ân huệ lớn lao mà họ đang được thụ hưởng trong Đức Kitô: đó là phép Thánh Tẩy ban ơn tha tội nhờ Đức Kitô và lương thực thiêng liêng là chính Thánh Thể của Người. Cha ông họ xưa kia đã được Thiên Chúa cho vượt qua biển đỏ an toàn và dưỡng nuôi trong sa mạc, nhưng vẫn không tin Người nên đã bị hư vong. Nếu các tín hữu Côrintô không khiêm tốn đón nhận ân huệ thiêng liêng cao quý mà họ được Thiên Chúa ban qua Đức Giêsu, thì họ cũng có nguy cơ bị hư vong như vậy. Thiên Chúa vẫn tiếp tục đổ tràn ân sủng của Người, nhờ Đức Giêsu Kitô, cho những ai tin cậy nơi Người.
3/ Đối với Chúa Giêsu, những biến cố đau thương xảy đến cho người khác không phải là cách Thiên Chúa lên án tội lỗi của họ, nhưng là cơ hội để mỗi người sám hối về những lỗi lầm của mình. Thiên Chúa không muốn bất kỳ ai phải hư vong trong tội lỗi của họ, nhưng kiên nhẫn chờ đợi để mỗi người biết sám hối và thay đổi đời sống để sinh hoa trái xứng với lòng sám hối của mình. Mỗi phút giây trên đời đều là cơ hội quý giá để con người tạ lỗi trước mặt Thiên Chúa và làm những việc lành phúc đức đối với tha nhân.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ tếAnh chị em thân mến! Thiên Chúa là Cha nhân từ đã sai Con Một là Đức Giêsu Kitô đến trần gian để mời gọi những người tội lỗi trở về hiệp thông với Người. Với niềm tin yêu hy vọng và lòng sám hối chân thành, cộng đoàn chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội Thánh có sứ mạng làm chứng cho tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các vị chủ chăn luôn là hiện thân của Đấng giàu lòng thương xót và hay tha thứ, qua việc quảng đại đón nhận và tận tâm giúp đỡ những người lầm lỗi.
2. Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi và sẵn sàng tha thứ cho những người sám hối. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những ai đang lầm đường lạc lối, biết nhận ra tình trạng tội lỗi bất xứng của mình, mà quyết tâm quay về với tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
3. Sám hối tích cực phải nhất thiết đưa đến việc canh tân đời sống. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi kitô hữu trong mùa Chay thánh này biết ý thức đào sâu đức tin, gia tăng việc lành, và nhiệt tâm sửa đổi bản thân để ngày càng trở nên hoàn thiện hơn.
4. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Ai tưởng mình đang đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn có thái độ khiêm tốn quảng đại, không bao giờ xét đoán hay chỉ trích gây thiệt hại cho người chung quanh.
Chủ tế
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và ban ơn nâng đỡ giúp chúng con thành tâm sám hối, canh tân đời sống, và luôn gắn bó mật thiết với Đức Giêsu Kitô, Con Chúa. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.


SCĐ CHÚA NHẬT III CHAY C
Chủ đề :
Hãy sám hối

“May ra sang năm nó sẽ có trái. Nếu không thì ông sẽ chặt đi” (Lc 13,9)
Sợi chỉ đỏ :
Các ý tưởng trong các bài đọc hôm nay được triển khai dần dần để dẫn đến ý tưởng chính là “Hãy sám hối” :
– Vì yêu thương, Thiên Chúa đã chọn Môsê để bắt đầu công trình giải thoát họ qua cuộc xuất hành (Bài đọc I) ;
– Các kitô hữu cũng được dẫn dắt qua một cuộc Xuất hành như dân do thái xưa. Tuy nhiên chúng ta đừng có thái độ như họ : chìu theo dục vọng và luôn kêu ca trách móc Thiên Chúa (Bài đọc II) ;
– Thái độ phải có là sám hối (Bài Tin Mừng)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay rất khẩn thiết : “Nếu các ngươi không sám hối, các ngươi sẽ phải chết”. Phụng vụ dành cho chúng ta một thời gian dài 40 ngày của Mùa Chay để chúng ta nhận thức tình trạng tội lỗi của mình mà ăn năn sám hối. Đây đúng là lúc thuận tiện, đây đúng là thời cứu độ. Chúng ta đừng phí phạm cơ hội Chúa ban, đừng làm ngơ trước lời kêu gọi của Chúa.
II. Gợi ý sám hối
– Chúng con thiếu sót rất nhiều trong bổn phận kính mến và thờ phượng Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
– Chúng con lỗi phạm rất nhiều trong tương quan với tha nhân. Xin Chúa thương xót chúng con.
– Chúng con còn làm nô lệ cho tiền bạc, của cải, tiện nghi. Xin Chúa thương xót chúng con.
III. Lời Chúa
  1. Bài đọc I (Xh 3,1-15)
Tuần vừa qua, chúng ta được kể về chặng thứ nhất trong Lịch sử cứu độ : Thiên Chúa chọn Abraham để thành lập một dân mới. Tuần này chúng ta được nghe kể tiếp chặng thứ hai : Thiên Chúa chọn Ông Môsê để giải phóng dân ấy khỏi ách nô lệ Ai cập.
Lúc bấy giờ Môsê đang trốn trong sa mạc vì sợ Pharao lùng bắt. Ông làm nghề chăn chiên. Một hôm đang khi Môsê chăn chiên thì Thiên Chúa hiện ra với ông.
– Thiên Chúa hiện ra trong một bụi gai rực lửa nhưng bụi gai ấy không bị cháy rụi : Thiên Chúa là Đấng rất hùng mạnh, nhưng sức mạnh của Ngài không phải dể tiêu diệt mà để giải thoát.
– Thiên Chúa gọi đích danh Môsê : Ngài biết rõ từng người.
– Thiên Chúa nói với Môsê “Ta đã thấy rõ cảnh khổ của dân Ta… Ta xuống giải thoát chúng…” : Thiên Chúa là Đấng giải thoát.
– Khi Môsê hỏi Tên Thiên Chúa thì Ngài đáp bằng một câu nói bí ẩn “Ta là điều Ta là”. Có nhiều lối giải thích kiểu nói này : (1) Thiên Chúa từ chối không nói tên mình, bởi vì không ai có thể hiểu được Thiên Chúa ; (2) Ta là thế nào thì các ngươi sẽ hiểu khi thấy các việc Ta sẽ làm (sau này khi thấy Thiên Chúa giải thoát dân do thái : người ta se hiểu Ngài là Đấng giải thoát) ; (3) Câu nói đó có thể dịch là “Ta là Đấng hằng hữu” ; (4) Cũng có thể dịch là “Ta là Đấng là” : ngược với các thần Ai cập chỉ là hư vô giả trả, chỉ có một mình Thiên Chúa là có thật.
Điều quan trọng nhất của tường thuật này là Thiên Chúa thương dân Ngài và muốn giải thoát họ khỏi cảnh khổ.
2.                  Đáp ca (Tv 102)
Thánh vịnh 102 triển khai ý chính của bài đọc I : ca tụng những công trình giải thoát của Thiên Chúa.
3.                  Tin Mừng (Lc 13,1-9)
Ý chính của đoạn Tin Mừng này là kêu gọi sám hối :
– cc 1-5 : người do thái thời Chúa Giêsu quen nghĩ “ác giả ác báo”. Trước hai tai nạn đột ngột làm chết nhiều người, họ kết luận ngay rằng những nạn nhân ấy là “ác giả” cho nên bị “ác báo”. Chúa Giêsu khuyên đừng hồ đồ suy đoán về người khác những mỗi người hãy coi các tai nạn đó là tiếng nhắc nhở hãy xét lại lương tâm mình để lo sám hối.
– cc 6-9 : Qua dụ ngôn cây vả không sinh trái, Chúa Giêsu bảo mỗi người hãy tận dùng thời gian gia hạn mà Thiên Chúa đã ban cho mình để sớm lo sám hối.
4.                  Bài đọc II (1 Cr 10,1-6.10-12)
Thánh Phaolô giải thích ý nghĩa các biến cố trong cuộc Xuất hành :
– Việc vượt qua Biển Đỏ là tượng trưng cho Phép Rửa.
– Tảng đá đã phun ra nước cho dân do thái uống tượng trưng cho Chúa Giêsu.
– Kitô hữu chúng ta cũng xuất hành như dân do thái xưa. Nhưng đừng bắt chước họ chìu theo dục vọng xấu xa, đừng kêu ca trách móc, trái lại ngoan ngoãn hành trình theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Hãy ăn năn sám hối
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy ăn năn sám hối. Lời kêu gọi này không chỉ nhắm đến những kẻ tội lỗi mà nhắm đến mọi người không trừ ai. Thế nhưng có người sẽ thắc mắc : người tốt cũng cần phải sám hối sao ?
Trong trường hợp những người được gọi là tốt, họ vẫn phải sám hối vì những việc tốt lẽ ra họ có thể làm mà lại không làm. Họ giống như cây vả trong bài Tin Mừng này. Ông chủ muốn đốn nó không phải vì nó đã sinh ra những trái xấu, mà vì nó không sinh ra những trái vả như nó phải sinh ra. Một cây vả mà không sinh trai vả thì đâu còn là cây vả nữa.
Các kitô hữu ít khi tự đặt cho mình câu hỏi này : Điều gì lẽ ra tôi phải làm mà lại không làm ? Tiếng gọi sám hối không chỉ kêu gọi ta thôi đừng làm điều xấu nữa, mà còn kêu gọi ta hãy “sinh trái” bằng những việc tốt. Chính vì thế mà lời kêu gọi này nhắm đến mọi người. (FM)
* 2. Cơ hội thứ hai
Có một câu chuyện về một cây vĩ cầm như sau :
Cây vĩ cầm bị rạn nứt, người ta dán lại và đem ra bán đấu giá. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút nó làm gì. Nhưng ông vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán :
– Thưa quí vị ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây ?
Một đồng, rồi hai đồng. Chỉ có hai đồng thôi sao ? Ai sẽ trả nó ba đồng đây. Vâng, một người trả ba đồng. Không ai trả hơn sao ?
Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau sạch bụi chiếc đàn cũ kỹ, rồi lên dây lại. Sau đó, ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, du dương như bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rãi, hỏi :
– Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm này đây ?
Đoạn ông vừa cầm đàn lên vừa nói :
– Một ngàn đồng, và ai sẽ tăng lên hai ngàn ? Hai ngàn rồi, có ai chịu tăng lên ba ngàn không ? Một người chịu giá ba ngàn, còn nữa không ?
Đám đông hồ hởi reo vui, nhưng có vài người trong họ la lên :
– Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm đó ?
Lập tức có tiếng đáp lại :
– Chính nhờ đôi tay người nghệ sĩ chạm vào đấy !
*
Đứng trước những biến cố đem lại tai hoạ và chết chóc cho con người, Chúa Giêsu không bình luận theo quan điểm của người Do Thái thời đó : Tin Mừng hôm nay kể lại việc quan tổng trấn Philalô tàn sát mấy người Galilê và việc tháp Siloê đổ xuống đè chết 18 nạn nhân. Người Do Thái cho rằng những người bị tai hoạ đó là do tội lỗi của chính họ, nên bị Thiên Chúa giáng phạt. Còn những người khác thấy vẫn bình yên vô sự, thì cho rằng mình vô tội, nên dễ tự hào về sự thánh thiện của mình. Chúa Giêsu không nghĩ thế, Người không cho rằng những người bị nạn đó tội lỗi hơn đồng hương của họ. Người muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân, đều bị Thiên Chúa phán xét, đều đáng chịu án phạt của Người, nên cần phải ăn năn sám hối, để tránh hình phạt của Thiên Chúa.
Tính cấp bách phải sám hối ăn năn được Chúa Giêsu nói rõ trong dụ ngôn cây vả : Thiên Chúa là người trồng cây, Chúa Giêsu là người làm vườn, và dân Ítraen là cây vả không sinh trái. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Ítraen làm dân riêng của Người, và ban cho nhiều đặc ân, nhưng họ lại không sinh hoa kết trái, là trung thành với lề luật, sống công chính, và phụng thờ một mình Người.
Thiên Chúa đã chấp thuận đề nghị của Chúa Giêsu, là cho họ một cơ hội thứ hai, một thời gian để chăm bón thêm, với các lời giảng dạy của Chúa Giêsu và các phép lạ kèm theo. Nhưng họ vẫn cố chấp, không hoán cải để sinh hoa trái. Vì thế, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ : Điều đó đã được chứng thực vào năm 7O sau Công Nguyên khi đền thánh Giêrusalem bị tàn phá.
Thiên Chúa cũng đã tuyển chọn chúng ta trong kế hoạch nhiệm mầu của Người và yêu thương chăm sóc chúng ta cách đặc biệt. Người chờ mong chúng ta sinh ra hoa trái tốt tươi. Nhưng nếu chúng ta chưa thực hiện được những mơ ước của Người, thì cũng như cây đàn vĩ cầm rạn nứt trong câu chuyện trên đây, Người cũng cho chúng ta một cơ hội, là đôi tay kỳ diệu của người nghệ sĩ đã chạm vào cây đàn, chính là Đức Glêsu, để chúng ta tấu lên những khúc nhạc du dương, là bài ca của những tâm hồn biết ăn năn, là hoa trái của những tấm lòng sám hối.
Chúng ta hãy cảm tạ tri ân Chúa Giêsu đã cho chúng ta cơ hội thứ hai này, và tận dụng tối đa cơ may ấy để sinh nhiều hoa trái trong mùa Chay thánh.
*
Lạy Chúa, mỗi một biến cố đau buồn là một lời nhắc nhở chúng con hãy sẵn sàng tỉnh thức. Mỗi một ngày mới là một cơ hội Chúa khoan giãn để chúng con có thời gian sám hối ăn năn.
Xin đừng để chúng con khất lần kẻo cũng bị số phận như cây vả không trái, nhưng xin cho chúng con biết dùng ơn Chúa để nên thánh thiện sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn. Nhất là biết chuẩn bị giờ chết ngay từ bây giờ bằng việc ăn năn sám hối. Amen. (TP)
* 3. Kiên nhẫn
Cây vả được trồng 3 năm thì tới lúc có trái. Nếu đến khi đó mà nó vẫn chưa có trái thì hầu như sẽ chẳng bao giờ có trái nữa. Đây là trường hợp của cây vả trong bài Tin Mừng hôm nay. Bởi vậy ông chủ ra lệnh đốn bỏ nó, để khỏi chật đất, để khỏi tốn công chăm sóc, để danh chỗ trồng cây khác hữu ích hơn. Nhưng người làm vườn vẫn chưa nản lòng. Người này vẫn còn hy vọng nơi cây vả, nên xin ông chủ cho thêm thời hạn một năm nữa. Trong thời gian này ông sẽ tích cực bồi dưỡng và chăm sóc cho nó. Sau đó nếu nó vẫn không trái thì mới bị chặt đi.
Dụ ngôn không cho ta biết kết quả cuối cùng thế nào. Nhưng bấy nhiêu cũng đủ nói lên điều Chúa Giêsu muốn nói : cũng như người làm vườn kiên nhẫn chờ đợi cây vả ra trái, Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ tội lỗi ăn năn sám hối.
Lịch sử đầy dẫy những thí dụ về những người nhờ được người khác kiên nhẫn cho thêm cơ hội nên về sau trở thành những vĩ nhân. (1) Ngay trong bài đọc I hôm nay đã có một tấm gương : Môsê khi còn trẻ đã phạm tội giết người. Chúa không phạt ông, mà còn sử dụng tính khí nhiệt tình của ông để giải phóng dân do thái khỏi ách nô lệ Ai cập. (2) Einstein mãi đến hai tuổi mới bắt đầu biết nói bập bẹ. Khi Einstein đến trường, các giáo viên cũng ngã lòng vì sự chậm chạp của ông. Vậy mà Einstein đã trở thành nhà bác học được đánh giá là nổi bật nhất của thế kỷ.
Có nhiều người phát triển rất chậm và muộn màng, nhưng lại là những nhân tài. Những người như thế cần có ai đó tin tưởng họ, kiên nhẫn chờ đợi họ và tạo cơ hội cho họ. Nếu không thì kho tàng tài năng của họ sẽ bị vùi dập và mai một đi.
Chúng ta biết cho chính bản thân mình thêm cơ hội. Tại sao chúng ta không làm như thế đối với người khác ? (FM)
4.                  Đất thánh
Chúa phán với Môsê : “Nơi ngươi đang đứng là đất thánh”.
Mọi nơi trên mặt đất này mà Chúa ban cho ta đều là đất thánh và đáng được chúng ta kính trọng. Nhưng mảnh đất thánh thiện nhất nằm ngay trong chúng ta.
Trước hết, thân xác chúng ta là thánh. Thân xác là thánh vì nó là công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Thánh Phaolô còn đưa ra lý do thứ hai : “Thân xác anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần”. Vậy chúng ta phải tôn trọng và chăm sóc thân xác chúng ta.
Tâm trí chúng ta cũng là thánh. Nhiều người hằng ngày cứ nhồi vào tâm trí mình đủ thứ điều xấu xa từ tivi, radio, sách báo v.v. Chúng ta hãy nghe lời Thánh Phaolô : “Anh em hãy đong đầy tâm trí những gì chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt những gì là đức hạnh đáng khen” (Pl 4,8)
Nhưng thánh nhất là tâm hồn chúng ta. Ngày nay người ta rất quan tâm đến sự sạch sẽ bên ngoài nhưng lại quên đi sự sạch sẽ bên trong, tức là sự sạch sẽ của tâm hồn. Từ tâm hồn sinh ra tư tưởng, lời nói, việc làm như dòng nước phát sinh từ mạch nước. Nếu mạch nước mà sạch thì nước chảy ra cũng sạch. Vậy chúng ta hãy giữ cho tâm hồn trong sạch và tinh tuyền. Chúa Giêsu nói “Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Chúa”. (FM)
5.                  Tản mạn suy tư
a/ Trong bài đọc I kể chuyện Chúa hiện ra với Môsê, điều đáng ngạc nhiên là Chúa không hiện ra cho ông trong Đền thờ mà là trong sa mạc ; và Chúa hiện ra không phải khi Môsê đang cầu nguyện mà trong lúc ông chăn cừu. Chúa hiện ra cho Môsê ở một nơi phàm trần và trong một sinh hoạt phàm trần.
Ngày nay thế giới đã trở thành một nơi phàm trần. Thật khó mà giữ được một ý thức thiêng thánh trong một thế giới như thế. Tuy nhiên, nếu không có thiêng thánh và ý thức hướng thượng, thì cuộc đời sẽ nghèo nàn và thấp hèn biết bao.
Trong cuộc gặp gỡ giữa Môsê với Thiên Chúa, cảm xúc lấn át nhất xem ra là sợ hãi. Nhưng thực ra không phải thế. Khi Thánh Kinh nói về sự sợ đối với Thiên Chúa thì không phải là sợ hãi mà là kính sợ. Sợ hãi là một cảm xúc tiêu cực, nó khiến ta co rúm lại và muốn chạy trốn ; còn kính sợ là một cảm xúc tích cực, nó khuyến khích ta tiến đến gần đối tượng đang tác động lên mình, ta không cảm thấy bị hạ xuống, mà được nâng lên.
Tín ngưỡng bắt đầu bằng cảm xúc kính sợ, kính sợ vì nhận biết sự cao cả của Thiên Chúa và giới hạn thấp hèn của con người. Kính sợ đi trước, và đức tin đến sau.
Mà kính sợ thì bắt đầu bằng sự ngỡ ngàng. Môsê đã ngỡ ngàng khi thấy bụi gai cháy rực mà không rụi tàn.
b/ Tuy nhiên rất dễ ngỡ ngàng trước một sự kiện bất thường như thế. Ngay cả người khùng cũng biết ngỡ ngàng trước sự bất thường. Còn người khôn thì biết ngỡ ngàng trước những sự bình thường. Đây mới là vấn đề. Chúng ta ước ao được ngỡ ngàng trước một phép lạ, nhưng chúng ta không ngỡ ngàng khi ngắm cảnh hoàng hôn. Hầu hết chúng ta cảm thấy khó mà nhận ra nét cao cả và đáng ngỡ ngàng nơi những sự việc bình thường trong cuộc sống ; chúng ta không nhận ra những “phép lạ” vẫn diễn ra hằng ngày chung quanh chúng ta.
Tâm tình tôn thờ bắt nguồn từ ý thức về những phép lạ như thế. Kính sợ và ngỡ ngàng có thể được khơi lên bởi những sự việc rất nhỏ bé, chẳng hạn một hạt cát, một chiếc lá hay một giọt mưa.
Một đức tin cần được củng cố bằng phép lạ là một đức tin nghèo nàn. Những ai đã gắn bó với Chúa thì không cần phép lạ nữa, vì họ đã ý thức mình đang sống trong một thế giới được quyền năng Chúa bao bọc, họ nhìn đâu cũng thấy Chúa.
Người nào có khả năng nuôi dưỡng đức tin của mình bằng những phép lạ đời thường thì giống như người đang ngồi nơi bàn tiệc.
c/ Dù Môsê đang đứng tại một nơi phàm trần giữa hoang địa, nhưng Chúa bảo ông rằng đó là nơi thánh. Điều gì đã khiến nơi đó thành nơi thánh ? Thưa chính là sự hiện diện của Chúa. Nếu thế thì nhà thờ cũng là nơi thánh, vì có Chúa hiện diện trong nhà thờ. (FM)
6.                  Tại sao Chúa chọn Môsê?
Trích đoạn của bài đọc I không cho ta biết tại sao Chúa chọn Môsê. Nhưng trước trích đoạn này có ba đoạn khác có thể giúp chúng ta trả lời được câu hỏi này.
– Một lần kia Môsê thấy một người Ai cập hà hiếp một người do thái, ông chịu không được nên đã ra tay can thiệp.
– Một lần khác ông thấy hai người do thái đánh nhau, ông chịu không nổi nên cũng ra tay can thiệp.
– Và một lần nữa, ông thấy những người chăn chiên xứ Mađian ngăn cản không cho các con gái của Ông Yêthro múc nước, ông không chịu nổi nên lại ra tay can thiệp.
Cả ba chuyện trên đều cho thấy Môsê là người không thể khoanh tay đứng nhìn trước cảnh bất công. Bởi thế khi Thiên Chúa “thấy cảnh khổ cực của dân Ta… Ta xuống giải thoát chúng…” thì Ngài chọn Môsê.
7.                  Chuyện minh họa
a/ Ăn năn
Satan phàn nàn với Chúa : “Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời. “Chúa nói : “Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa ?”.
b/ Cơ hội cuối cùng
Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ông ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ : “Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu”. Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy : Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng : không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn. (Tonne).
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, con người cần phải thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi vết nhơ tội lỗi. Với tâm tình sám hối và quyết tâm đổi mới đời sống, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
  1. Hội thánh luôn mời gọi người Kitô hữu thành tâm sám hối vì những lỗi lầm đã phạm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / biết tích cực sống tinh thần cầu nguyện và sám hối của Mùa Chay.
  2. Trong đời sống thường ngày / vẫn còn biết bao người đói khổ vì quá nghèo túng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người giàu có / biết rộng rãi chia sẻ cơm áo cho những ai khó nghèo.
  3. Hãy thay đổi đời sống / vì Nước Trời đã tới gần bên / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết nỗ lực hoán cải con tim / thay đổi tính hạnh / để ngày càng nên giống Chúa Giêsu hơn.
  4. Sám hối trước tiên là lãnh nhận bí tích Hòa Giải / rồi thực hành bác ái yêu thương / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chân thành xưng thú tội lỗi / và yêu thương hết thảy mọi người.
Chủ tế : Lạy Chúa, biết bao lần chúng con đã sám hối tội lỗi và quyết tâm đổi mới đời sống cho đẹp lòng Chúa, nhưng chúng con chưa thực hiện được những gì muốn quyết tâm sửa đổi vì yếu đuối. Vậy xin Chúa ban thêm sức mạnh cho chúng con. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Trong tâm tình sám hối, khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt đọc cách rất thức lời nguyện “và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”
VII. Giải tán
Như người làm vườn kiên nhẫn chờ đợi cho cây vả sinh ra, Thiên Chúa cũng đang kiên nhẫn chờ đợi chúng ta sám hối và sinh ra hoa trái những việc lành. Chúng ta đừng làm cho Chúa phải thất vọng.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI


Lectio Divina: Chúa Nhật III Mùa Chay (C)
Chủ Nhật 24 Tháng Ba, 2019
Chúa Giêsu nhận xét về các sự kiện trong ngày
Phương cách để giải thích các dấu chỉ thời đại
Lc 13:1-9


Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.   Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tác Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

2. Bài Đọc 

a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật thứ ba Mùa Chay đặt trước chúng ta hai sự kiện riêng rẽ nhưng có liên quan đến nhau:  Chúa Giêsu nhận xét về các sự kiện trong ngày và Người kể một dụ ngôn.  Lc 13:1-5:  Theo lời yêu cầu của dân chúng, Chúa Giêsu nhận xét về các sự kiện trong ngày:  việc tàn sát những người hành hương bởi quan Philatô và việc chết thảm của mười tám người tại tháp Silôê.  Lc 13:6-9:  Chúa Giêsu kể dụ ngôn về cây vả không sinh trái.
Trong lúc đọc, bạn cần lưu ý hai điều:  (i) Quan sát cách thức Chúa Giêsu phủ nhận việc diễn giải thông thường về những gì đang xảy ra; (ii) Tìm xem liệu có mối liên quan nào giữa bài dụ ngôn và lời nhận xét về những sự kiện trong ngày.

b) Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Lc 13:281:  Người ta thuật lại cho Chúa Giêsu về việc thảm sát mấy người Galilê
Lc 13:2-3:  Chúa Giêsu nhận xét về việc thảm sát và từ đó rút ra một bài học cho người ta
Lc 13:4-5:  Để chứng minh cho ý nghĩ của mình, Chúa Giêsu nhận xét về một sự kiện khác
Lc 13:6-9:  Dụ ngôn cây vả không sinh hoa trái

c) Tin Mừng:
Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh. Ngài lên tiếng bảo: “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy. Cũng như mười tám người bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”.
Ngài nói với họ dụ ngôn này: “Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: ‘Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!’ Nhưng anh ta đáp rằng: ‘Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi'”.

3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4. Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.

a) Điểm nào trong bài Tin Mừng này đã đánh động hoặc đã làm bạn hài lòng nhất?  Tại sao?
b) Lời giải thích thông thường về hai sự kiện này là gì?
c) Chúa Giêsu không tán thành với lời giải thích thông thường về các sự kiện như thế nào?
d) Ý nghĩa của bài dụ ngôn là gì?  Có điều gì liên kết giữa bài dụ ngôn và lời nhận xét của Chúa về các sự kiện không?
e) Sứ điệp của bài Tin Mừng này đối với chúng ta là những người phải giải thích những dấu chỉ của thời đại ngày nay là gì?

5. Phần dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề

a) Bối cảnh văn học và lịch sử thời bấy giờ và ngày nay:  
Thánh Luca viết sách Tin Mừng của ông vào khoảng năm 85 sau Công Nguyên cho các cộng đoàn Kitô hữu ở Hy Lạp.  Một cách tổng quát, ông dựa theo lời tường thuật trong sách Phúc Âm của thánh Máccô.  Thỉnh thoảng ông đưa ra một vài khác biệt nho nhỏ hoặc thay đổi một số từ ngữ để thích ứng câu chuyện với mục đích của ông.  Khác với Tin Mừng Máccô, Luca cũng còn tham khảo các sách khác và có các nguồn tư liệu khác:  các nhân chứng và các thừa tác viên của Lời Chúa (Lc 1:2).  Tất cả các tài liệu không thấy hiện diện trong sách Tin Mừng của Máccô, Luca sắp xếp lại thành một hình thức văn học:  Chúa Giêsu trên cuộc hành trình dài từ Galilêa về Giêrusalem.  Có sự mô tả về cuộc hành trình trong sách Luca từ câu 9:51 đến câu 19:28 và điều này bao gồm mười chương hoặc một phần ba của sách Tin Mừng!
Trong những chương này, thánh Luca liên tục nhắc nhở các độc giả của mình rằng Đức Giêsu đang đi trên một cuộc hành trình.  Hiếm khi nào ông nói cho chúng ta biết Chúa Giêsu đang ở đâu, nhưng ông cho chúng ta biết rõ ràng rằng Chúa Giêsu đang trên đường đi và điểm dừng chân sẽ là Giêrusalem nơi Người sẽ chịu chết theo như lời các ngôn sứ đã báo trước (Lc 9:51,53,57; 10:1,38; 11:1; 13:22,33; 14:25; 17:11; 18:31,35; 19:1,11,28).  Và ngay cả sau khi Chúa Giêsu đã đến Giêrusalem, Luca vẫn tiếp tục nói về cuộc hành trình hướng về trung tâm thành thánh (Lc 19:29,41,45; 20:1).  Ngay trước khi cuộc hành trình bắt đầu, nhân dịp Chúa Biến Hình vời các ông Môisen và Êlia trên núi, cuộc hành trình tiến về Giêrusalem được xem như là cuộc xuất hành đối với Chúa Giêsu (Lc 9:31) và như là việc Chúa lên trời (Lc 9:51).  Trong Cựu Ước, ông Môisen đã dẫn dân chúng trong cuộc xuất hành thứ nhất được giải phóng khỏi sự áp bức của Pharaôn (Xh 3:10-12) và tiên tri Êlia được lên thiên đàng (2V 2:11).  Chúa Giêsu là ông Môisen mới, Đấng đến để giải thoát con người khỏi sự áp bức của Lề Luật.  Người là ông Êlia mới, Đấng đến để chuẩn bị cho Nước Trời đã gần đến.
Lời mô tả cuộc hành trình dài của Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem không chỉ là dụng cụ văn học để giới thiệu tài liệu thích hợp cho Luca.  Nó cũng phản ảnh cuộc hành trình dài và cam go mà các cộng đoàn ở Hy Lạp đã trải qua trong cuộc sống hằng ngày của họ vào thời của Luca:  trải qua từ thế giới nông thôn từ vùng Paléstine đến môi trường quốc tế trong nền văn hóa Hy Lạp ở biên giới các đô thị lớn của châu Á và châu Âu.  Đoạn Tin Mừng này hoặc sự hội nhập văn hóa được đánh dấu bằng sự căng thẳng mạnh mẽ giữa những người Kitô hữu xuất thân từ Do Thái giáo và những tân tòng xuất thân từ các nhóm sắc tộc và văn hóa khác.  Thật vậy, lời mô tả cuộc hành trình dài tiến về Giêrusalem phản ảnh tiến trình chuyển đổi khó nhọc mà những người liên đới với Do Thái giáo phải trải qua:  rời bỏ thế giới của việc tuân giữ lề luật đã chỉ trích và buộc tội họ, để hướng tới thế giới của tình yêu nhưng không của Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người, hướng đến điều chắc chắn rằng trong Đức Kitô tất cả mọi dân tộc được gộp nhập lại thành một trước mặt Thiên Chúa; để rời bỏ thế giới khép kín của một chủng tộc mà hướng về lãnh thổ phổ quát của nhân loại.  Đây cũng là cuộc hành trình của đời sống chúng ta.  Chúng ta có khả năng hoán đổi thập giá của cuộc sống thành một cuộc xuất hành giải phóng như thế không?

b) Lời bình luận về văn bản:
Lc 13:1:  Người ta thuật lại cho Chúa Giêsu về việc thảm sát mấy người Galilê
Giống như ngày nay, người ta phê bình về các sự kiện xảy ra và muốn nghe ý kiến từ những kẻ có thể ảnh hưởng đến ý kiến của quần chúng.  Đó là lý do tại sao có một số người đã tìm đến Chúa Giêsu và thuật lại cho Chúa nghe về vụ thảm sát một số người Galilê mà quan Philatô đã làm cho máu của những người ấy hòa lẫn với máu các con vật họ tế sinh.  Đó có thể là vụ thảm sát đã xảy ra trên núi Giêrazim, nơi đã là địa điểm hành hương và người ta quen đến để dâng của lễ.  Sự kiện này nhấn mạnh đến sự tàn bạo và ngu xuẩn của một số kẻ cai trị La Mã tại miền Paléstine là những kẻ đã gây ra sự nhạy cảm về tôn giáo của người Do Thái qua các hành động vô lý như thế này.

Lc 13:2-3:  Chúa Giêsu nhận xét về việc thảm sát và từ đó rút ra một bài học cho người ta  
Khi được yêu cầu cho biết ý kiến, Chúa Giêsu hỏi lại:  “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê này bị ngược đãi như vậy là vì họ tội lỗi hơn tất những người khác ở xứ Galilê ư?”  Câu hỏi của Chúa Giêsu phản ảnh lối suy nghĩ phổ biến của người ta thời bấy giờ:  sự đau khổ và cái chết thảm thương là một sự trừng phạt từ Thiên Chúa vì những tội lỗi mà người ấy đã phạm.  Phản ứng của Chúa Giêsu thì minh bạch rõ ràng:  “Ta bảo các ngươi: không phải thế!”  Người bác bỏ lối suy luận thông thường và biến đổi sự kiện thành cơ hội để tự vấn lương tâm:  “nhưng nếu các ngươi không ăn năn, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy”.  Nói cách khác, ngoại trừ có một sự thay đổi thực sự và thích đáng, việc tàn sát tương tự cũng sẽ xảy ra cho tất cả mọi người.  Họ đã không thay đổi và bốn mươi năm sau, vào năm 70, thành Giêrusalem đã bị tàn phá bởi người La Mã.  Nhiều người đã bị giết chết.  Đức Giêsu đã trông thấy tính nghiêm trọng tình hình chính trị của đất nước Người.  Một mặt, sự thống trị của người La Mã đã trở nên nặng nề và không thể chịu nổi hơn bao giờ hết.  Mặt khác, tôn giáo chính thức, càng ngày càng trở nên xa lạ mà không có sự hiểu biết tầm quan trọng về niềm tin vào Đức Gia-Vê trong đời sống người dân.

Lc 13:4-5:  Để chứng minh cho ý nghĩ của mình, Chúa Giêsu nhận xét về một sự kiện khác
Chúa Giêsu chủ động việc nhận xét về một sự kiện khác.  Một trận bão tuyết khiến cho tháp Silôê sụp đổ và khiến cho các tảng đá đè chết mười tám người.  Người ta nghĩ rằng đó là “sự trừng phạt của Thiên Chúa!”  Lời nhận xét của Chúa Giêsu là:  “Ta bảo các ngươi: không phải thế! Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy”.  Mối quan tâm của Người là giải thích các sự kiện theo cách mà lời kêu gọi của Thiên Chúa để thay đổi và hoán cải trở nên rõ ràng.  Chúa Giêsu là một mầu nhiệm, một sự chiêm niệm.  Người nhìn các sự kiện theo cách khác.  Người có thể đọc và giải thích các dấu chỉ thời đại.  Đối với Người, thế gian thì rõ ràng, mặc khải sự hiện diện và lời mời gọi của Thiên Chúa.

Lc 13:6-9:  Dụ ngôn cây vả không sinh hoa trái
Sau đó Chúa Giêsu kể dụ ngôn cây vả không mang lại hoa trái.  Có người đã trồng một cây vả trong vườn nho nhà mình.  Trong ba năm, nó không sinh được một trái nào.  Vì vậy ông liền bảo người làm vườn rằng:  “Hãy đốn nó đi”.  Nhưng người làm vườn thưa lại rằng:  “Thưa ông, xin hãy để cho nó thêm một năm nữa… may ra nó có trái vào năm tới; nếu không, sang năm ông sẽ chặt nó đi”.  Chúng ta không biết có phải Chúa Giêsu kể dụ ngôn này ngay sau khi Người đưa ra nhận xét về việc thảm sát và chuyện tháp Silôê sụp đổ hay không.  Có lẽ thánh Luca là người muốn đặt dụ ngôn này ở đây, bởi vì Luca thấy có sự liên hệ giữa những lời nhận xét về các sự kiện và dụ ngôn cây vả.  Luca không nói mối tương quan này là gì.  Ông để cho chúng ta khám phá ra điều ấy.  Luca đã trông thấy ý nghĩa gì?  Tôi xin mạo muội đưa ra một ý kiến.  Bạn có thể khám phá ra một ý nghĩa khác.  Chủ của vườn nho và của cây vả là Thiên Chúa.  Cây vả đại diện cho người ta.  Chúa Giêsu là người làm vườn.  Chủ vườn nho đã mệt mỏi tìm quả của cây vả mà chẳng thấy trái nào.  Ông quyết định chặt bỏ nó.  Như vậy sẽ có chỗ cho một cây khác có thể sinh hoa kết trái.  Dân riêng được chọn đã không sinh hoa trái mà Thiên Chúa mong đợi.  Người muốn chuyển Tin Mừng sang cho dân ngoại.  Chúa Giêsu là người làm vườn nài xin cho cây vả được hoãn thêm một ít thời gian.  Người sẽ nỗ lực gấp đôi để đạt được một sự thay đổi và hoán cải.  Sau đó trong sách Tin Mừng, Chúa Giêsu nhận ra rằng những nỗ lực gấp đôi của Người đã không có kết quả gì.  Họ sẽ không hoán cải.  Chúa Giêsu đau buồn cho việc thiếu hoán cải và thương tiếc cho thành Giêrusalem (Lc 19:41-44).

c) Phần phụ chú:
Một bài sử ký ngắn gọn về cuộc kháng chiến nổi tiếng chống lại người La Mã vào thời Chúa Giêsu
Trong phần Tin Mừng Chúa Nhật tuần này, thánh Luca làm rõ ràng những lời ám chỉ đối với sự đàn áp của binh lính La Mã chống lại cuộc nổi dậy nổi tiếng của người Galilê.  Do đó, chúng tôi đưa ra một sơ đồ tổng quát về cuộc kháng chiến nổi tiếng của người dân miền Giuđêa chống lại sự thống trị của người La Mã.  Qua nhiều năm, cuộc kháng chiến này đã trở nên sâu rộng hơn và bắt rễ trong niềm tin của người dân.  Dưới đây là bản phác thảo song song với quãng đời Đức Giêsu:
i)Từ năm 63 đến năm 37 trước Công Nguyên:  Một cuộc tổng khởi dậy mà không có bất kỳ chủ đích rõ rệt nào.  Vào năm 63 trước Công Nguyên, đế chế La Mã xâm chiếm vùng đất Paléstine và áp đặt một sự cống nạp nông phẩm.  Từ năm 57 đến năm 37, chỉ trong vòng 20 năm, sáu cuộc nổi dậy đã bùng nổ trong xứ Galilê!  Người dân, không chủ đích, không ngheo theo bất cứ ai đã hứa hẹn sẽ giải phóng họ khỏi việc triều cống người La Mã.
ii)Từ năm 37 đến năm 4 trước Công Nguyên:  Thời kỳ đàn áp và xáo trộn.  Đây là thời kỳ trị vì của vua Hêrôđê, được gọi là Hêrôđê Cả.  Ông ta là người đã ra lệnh giết các hài nhi vô tội ở Bêlem (Mt 2:16).  Việc đàn áp tàn bạo đã ngăn chặn bất kỳ loại chống đối rộng lớn nào.  Do đó vua Hêrôđê thúc đẩy cái gọi là Thời đại thịnh trị La Mã (Pax Romana).  Thời kỳ thái bình này đã đem đến cho Đế Chế một ổn định kinh tế nhất định, nhưng đối với dân tộc bị áp bức thì đó là thời kỳ bình an của một nghĩa trang.
iii)  Từ năm 4 trước Công Nguyên đến năm 6 sau Công Nguyên:  Những cuộc cách mạng Thiên Sai.  Đây là thời kỳ trị vì của vua Archelaus tại xứ Giuđêa.  Vào ngày lên nắm quyền, ông ta đã tàn sát 3000 người tại quảng trường Đền Thờ.  Cuộc cách mạng bùng nổ trên khắp toàn đất nước, nhưng nó không có chủ đích.  Các nhà lãnh đạo nổi tiếng vào thời này đang tìm kiếm động cơ nối kết với truyền thống cổ xưa và tự nhận mình là vua thiên sai.  Sự đàn áp của người La Mã đã phá hủy thành Sephôris, thủ phủ của xứ Galilê.  Bạo lực là dấu hiệu cho thời thơ ấu của Chúa Giêsu.  Trong mười năm cai trị của chính quyền Archelaus, Người đã thấy miền đất Paléstine trải qua một trong những thời kỳ bạo lực nhất trong lịch sử của nó.
iv)Từ năm 6 đến năm 27 sau Công Nguyên:  Nhóm Nhiệt Thành với Lề Luật:  Thời gian chỉnh sửa.  Vào năm 6, Romolus đã lật đổ vua Archelaus và biến miền Giuđêa thành một tỉnh của đế quốc La Mã, ban chiếu chỉ kiểm tra dân số để chắc chắn rằng thuế triều cống phải được trả.  Việc kiểm tra dân số tạo đã nên một phản ứng mạnh mẽ chung được lấy cảm hứng bởi Lòng nhiệt thành với Lề Luật.  Nhóm Nhiệt Thành này (do đó có từ ngữ cuồng tín) kêu gọi mọi người tẩy chay và từ chối nộp triều cống.  Đây là một hình thức mới của việc phản kháng, một loại bất tuân dân sự được lây lan như ngọn lửa cháy âm ỉ dưới than hồng.  Tuy nhiên, Nhóm Nhiệt Thành có một viễn kiến hạn chế.  “Những kẻ cuồng tín” đã tạo nguy cơ làm giảm việc tuân giữ Lề Luật để đeo đuổi việc chống đối người La Mã.  Chính trong thời gian này, Chúa Giêsu đã lớn lên trong nhận thức về sứ vụ của mình.
v)Từ năm 27 đến năm 69 sau Công Nguyên:  Các tiên tri tái xuất hiện.  Sau 20 năm này, từ năm 6 đến năm 26, việc cải sửa mục tiêu của cuộc hành trình tái xuất hiện với lời rao giảng của các tiên tri là những kẻ đại diện cho bước tiến trong phong trào quần chúng.  Các tiên tri đã hô hào dân chúng ngồi lại với nhau và mời gọi họ thay đổi và hoán cải.  Họ muốn cải cách lịch sử từ nguồn gốc.  Họ tập họp dân chúng trong sa mạc (Mc 1:4), bắt đầu cuộc xuất hành mới, được công bố bởi tiên tri Isaia (Is 43:16-21).  Người đầu tiên là ông Gioan Tẩy Giả (Mt 11:9; 14:5; Lc 1:76), người đã thu hút được nhiều dân chúng (Mt 3:5-7).  Ngay sau đó, Chúa Giêsu đã xuất hiện và được người ta coi là một tiên tri (Mt 16:14; 21:11,46; Lc 7:16).  Chúa Giêsu, giống như ông Môisen, đã công bố Lề Luật Mới trên Núi (Mt 5:1) và nuôi dưỡng người ta trong sa mạc (Mc 6:30-44).  Giống như sự sụp đổ của tường thành Giêricô vào đoạn cuối của bốn mươi năm trong sa mạc (Is 6:20), Chúa Giêsu cũng tuyên bố về sự sụp đổ các bức tường của thành Giêrusalem (Lc 19:44; Mt 24:2).  Cũng giống như các tiên tri xưa kia, Chúa Giêsu công bố về việc giải phóng những kẻ bị áp bức và bắt đầu năm thánh (Lc 4:18-19), và yêu cầu một sự thay đổi trong cách sống (Mc 1:15; :c 13:3,5).
Có những tiên tri khác sau thời Chúa Giêsu.  Đó là lý do tại sao cuộc cách mạng, phái duy cầu nguyện và phái nhiệt thành tồn tại cùng lúc.  Các nhà cầm quyền đương cuộc, người La Mã và nhóm Hêrôđê, cũng như các thày cả, luật sĩ và Biệt Phái, tất cả đều lo lắng đến sự an toàn của Đền Thờ và Dân Tộc (Ga 11:48) và với việc tuân giữ Lề Luật (Mt 23:1-23), có thể thấy sự khác biệt giữa các tiên tri và những người lãnh đạo quần chúng khác.  Đối với họ, tất cả đều như nhau.  Họ lầm tưởng Chúa Giêsu với một vị vua thiên sai (Lc 23:2,5).  Ví dụ, Gamaliên, một vị tiến sĩ luật có tiếng, so sánh Chúa Giêsu với Giuđa, lãnh tụ của các người cách mạng(Cv 5:35-37).  Chính Flavius Josephus, một sử gia, đã nhầm lẫn các tiên tri với “những kẻ trộm và kẻ mạo danh”.  Ngày nay, chúng ta có lẽ sẽ nói rằng cả thảy họ “chẳng đáng giá gì”!

6. Thánh Vịnh 82 (81)
 Thiên Chúa cảnh báo các kẻ cầm quyền loài người
Thượng Đế chủ tọa triều đình thiên quốc,
Người xử án giữa chư thánh chư thần:
“Tới bao giờ các ngươi còn xử án bất công,
hay còn thiên vị phường gian ác?
Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn;
minh oan cho người khốn khổ, kẻ bần cùng,
giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng,
cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân.
“Vậy mà chúng chẳng hay chẳng hiểu,
cứ bước đi, giữa tăm tối mịt mù,
khiến nền tảng địa cầu phải lung lay nghiêng ngả.
Ta đã phán: Hết thảy các ngươi đây
đều là bậc thần thánh, là con Đấng Tối Cao,
thế nhưng rồi phải chết không khác kẻ phàm nhân,
và có ngày sụp đổ như mọi bậc quan quyền.”
Tâu Thượng Đế, xin Ngài đứng dậy mà xét xử địa cầu,
vì chính Ngài làm chủ muôn dân.

7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét