01/05/2019
Thứ Tư tuần 2 Phục Sinh
Thánh Giuse thợ
* Là một người
thợ ở làng Galilê, thánh Giuse là mẫu gương người Kitô hữu phải noi theo để chu
toàn các bổn phận nghề nghiệp, vì thánh Giuse đã làm việc trong tâm tình liên kết
với Đức Giêsu. Lao động thì vất vả nhưng cũng đem lại niềm vui. Lao động phục vụ
con người nhưng cũng giúp đưa tới gần Thiên Chúa: đó là điều ta học được nơi
trường học Nagiarét.
BÀI ĐỌC I: St 1, 26 –
2, 3
“Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều
đầy mặt đất, và thống trị nó”.
Trích sách Sáng Thế.
Thiên Chúa phán:
“Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ
cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất, và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt
đất”. Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa. Người tạo
thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ.
Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: “Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều đầy mặt
đất, và thống thị nó, hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di
chuyển trên mặt đất”.
Thiên Chúa phán: “Đây
Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất, và
toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh
tươi làm thức ăn cho mọi dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di
chuyển trên mặt đất”. Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm
rất tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu. Thế là trời
đất và mọi vật trang điểm của chúng đã hoàn thành.
Ngày thứ bảy, Thiên
Chúa đã hoàn tất công việc Người đã làm. Và sau khi hoàn tất công việc Người đã
làm, thì ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi. Người chúc phúc và thánh hoá ngày thứ bảy,
vì trong ngày đó Người nghỉ việc tạo thành. Đó là lời Chúa.
Hoặc: Cl 3, 14-15. 17.
23-24
“Tất cả những gì anh em thực hiện,
anh em hãy thành tâm thực hiện như cho Thiên Chúa, chớ không phải cho người đời”.
Trích thư của Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, trên
hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện.
Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em, sự bình an mà anh
em đã được kêu gọi tới để làm nên một thân thể. Anh em hãy cảm tạ Thiên Chúa.
Và tất cả những gì anh
em làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy
làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.
Tất cả những gì anh em
thực hiện, anh em hãy thành tâm thực hiện như cho Thiên Chúa, chứ không phải
cho người đời; vì anh em biết rằng anh em sẽ lãnh nhận phần thưởng gia nghiệp
do Thiên Chúa trao ban, nên anh em hãy phục vụ Chúa Kitô. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 89, 2. 3-4.
12-13. 14 và 16
Đáp: Lạy Chúa, xin
củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra (c. 17c).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Ôi Thiên
Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở này
qua thuở kia, vẫn có Ngài. – Đáp.
2) Thực ngàn năm ở trước
thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh.
Chúa khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán: “Hãy trở về gốc, hỡi con người”.
– Đáp.
3) Xin dạy chúng con
biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin
trở lại, chứ còn để tới bao giờ? Xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài! – Đáp.
4) Xin cho chúng con sớm
được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con được mừng rỡ hân hoan trọn đời sống
chúng con. Xin cho các bầy tôi nhìn thấy sự nghiệp của Chúa, và cho con cháu họ
được thấy vinh quang Ngài. – Đáp.
ALLELUIA: Tv 67, 20
Alleluia, alleluia!
– Chúc tụng Chúa trong mọi ngày, Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ chúng ta, Người vác
lấy gánh nặng của chúng ta. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 13, 54-58
“Ông ta không phải là con bác
phó mộc sao?”
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở
về quê nhà, giảng dạy dân chúng trong hội đường, họ bỡ ngỡ và nói rằng: “Bởi
đâu ông này khôn ngoan và tài giỏi như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc
ư? Mẹ ông không phải là bà Maria? và Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa không phải
là anh em của ông sao? Và tất cả chị em của ông không phải ở nơi chúng ta đó
sao? Vậy bởi đâu ông được mọi điều ấy như thế?” Và họ lấy làm gai chướng về Người.
Nhưng Chúa Giêsu nói với họ: “Không có tiên tri nào được vinh dự nơi quê hương
và nơi nhà mình”. Và Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ cứng lòng tin.
Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Thánh Giuse
Gương thánh nhân: Năm
1955, Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII đã lập lễ thánh Giuse thợ. Mỗi năm kính nhớ vào
ngày 1 tháng 5, ngày mà hầu hết các nước trên thế giới chọn làm ngày lễ lao động,
tán dương khích lệ công lao con người đã dùng tài năng sức lực của mình để phục
vụ đồng loại. Đức Giáo Hoàng đã nói rõ ý nghĩa ngày lễ thánh Giuse thợ như sau:
"Chắc chắn chúng
ta phải hân hoan, vì người thợ vô danh ở Na-da-rét chẳng những là hiện thân cho
giá trị chân tay trước mặt Chúa và Hội thánh mà còn là vị Giám hộ mẫn tiệp của
mọi người và của các gia đình và các bạn lao động."
Như chúng ta biết,
thánh Giuse được Chúa chọn làm cha nuôi Chúa Giêsu, khi Người sinh ra làm người
để cứu độ nhân loại. Thánh nhân là người công chính, luôn tuân hành thánh ý
Chúa, sẵn sàng vâng nghe và làm theo lời Chúa dạy. Ngài tận tâm bảo vệ Đức Mẹ,
nhiệt thành cộng tác với Mẹ nuôi dưỡng, chăm sóc Chúa Giêsu. Để chu toàn sứ mệnh
đó. Ngài làm nghề thợ mộc vất vả hằng ngày. Ngài lấy sức lao động của mình bảo
đảm cuộc sống hằng ngày của Thánh gia .
Ngài là gương mẫu cho
mọi người sống nghề lao động chân tay và cách riêng cho các Kitô hữu: lương thiện,
cần mẫn, siêng năng làm việc lo cho gia đình. Chẳng những lo cho gia đình mà
còn phát triển xã hội và tôn vinh Chúa, vì theo thánh công đồng Vaticanô II:
"Đối với các tín hữu, chỉ có một điều chắc chắn là: hoạt động cá nhân cũng
như tập thể của nhân loại, các nỗ lực vĩ đại của con người vất vả qua các thế kỷ
là nhằm cải thiện hoàn cảnh sinh sống. Việc này tự nó phù hợp với ý định của
Thiên Chúa.
Thật vậy, được tạo dựng
giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận mệnh lệnh chinh phục trái đất cùng
tất cả những gì chứa đựng trong đó. Họ phải cai quản vũ trụ trong công bình và
thánh thiện. Nhận diện Thiên Chúa là Đấng sáng tạo mọi loài, họ phải quy hướng
cả bản thân mình cũng như muôn vật về Người: để khi con người chinh phục được tất
cả, thì danh Chúa được tôn vinh khắp địa cầu.
Điều đó cũng ứng dụng
cho những công việc rất thường nhật. Khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, những
người đàn ông, đàn bà hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu, đều có lý
để coi lao động của mình tiếp nối công trình của Đấng Tạo hóa, phục vụ đời sống
của anh em và đóng góp công lao vào việc hoàn thành chương trình của Thiên Chúa
trong lịch sử." 1
Thánh Giuse là gương mẫu
của người lao động. Ngài còn là vị Giám hộ của những người làm việc chân tay.
Và Ngài là vị Giám hộ đắc lực nhất, như lời Đức Thánh Cha Pi-ô XII nói:
"Không có vị Giám hộ nào có đủ khả năng linh nghiệm truyền thông Phúc Âm
cho đời sống thợ thuyền bằng thánh Giuse thợ."
Quyết tâm: Hằng ngày,
tôi siêng năng làm việc, để giúp ích cho gia đình, xã hội, theo gương thánh
Giuse, và chuyên cần kêu xin thánh nhân cầu thay nguyện giúp cho những người
lao động nghèo khổ, bất hạnh.
Lời nguyện: Lạy Thiên
Chúa tạo thành trời đất, Chúa đã muốn cho con người lao động để tiếp tục công
trình của Chúa.Xin nhận lời thánh cả Giuse chuyển cầu, mà cho chúng con biết
noi gương người để lại, là chu toàn nhiệm vụ Chúa đã giao phó, hầu được hưởng
niềm vui Chúa đã hứa cho tôi tớ trung thành.
(giaophanvinhlong.net)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần II PS
Bài đọc: Acts
5:17-26; Jn 3:16-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người
ghét ánh sáng vì các việc làm của họ mờ ám.
Thiên Chúa dựng nên
con người có khả năng tìm ra sự thật. Sở dĩ con người không chịu nhìn nhận sự
thật là vì họ muốn ở trong sự tăm tối để người ta đừng nhận ra những việc làm mờ
ám của họ.
Các Bài Đọc hôm nay muốn
nêu bật sự tối tăm này nơi con người. Trong Bài Đọc I, vì ghen tức, vị Thượng Tế
và những người thuộc Nhóm Sadducees cho bỏ tù các tông đồ. Họ ghen tức vì dân
chúng trước đây nghe theo họ, giờ chạy theo để nghe lời giảng dạy của các tông
đồ. Họ nhân danh bảo vệ Lề Luật để bỏ tù các tông đồ, nhưng thực ra chỉ là để
che đậy ý đồ đen tối của họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu, sau khi tuyên bố tình
yêu Thiên Chúa dành cho con người, đã cắt nghĩa lý do tại sao con người ngoan cố
không chịu ra ánh sáng: họ muốn che dấu những việc làm mờ ám của họ. Nếu họ phải
ra ánh sáng, người khác sẽ nhìn thấy những việc mờ ám này; và vì vậy, tông tích
họ bị lộ tẩy.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Vì ghen tức, họ bắt các Tông Đồ và nhốt vào nhà tù công cộng.
1.1/ Xung đột giữa uy quyền
của Thiên Chúa và sức mạnh của con người:
Thiên Chúa, Đấng dựng nên và đang điều khiển muôn vật, trao trái đất cho con
người quản lý; nhưng nhiều người đã sai lầm khi nghĩ: chính con người làm chủ
trái đất này. Vì thế, luôn hiện diện một sự xung đột giữa Thiên Chúa và con người
trong thế giới: Con người muốn thay Thiên Chúa quyết định mọi sự. Một ví dụ xảy
ra trong Bài Đọc hôm nay:
(1) Con người đàn áp
và bưng bít sự thật: “Bấy giờ, vị Thượng Tế cùng tất cả những người theo ông –
tức là phái Sadducees – ra tay hành động. Đầy lòng ghen tức, họ bắt các Tông Đồ
và nhốt vào nhà tù công cộng.”
(2) Thiên Chúa giải
thóat và truyền cho các tông đồ phải rao giảng sự thật: “Nhưng ban đêm thiên sứ
của Đức Chúa mở cửa ngục, đưa các ông ra mà nói: “Các ông hãy đi, vào đứng
trong Đền Thờ mà nói cho dân những lời ban sự sống.”
1.2/ Lựa chọn của con người:
theo Thiên Chúa hay theo thế gian?
(1) Các tông đồ chọn để
làm theo những gì Thiên Chúa truyền: Các ông khinh thường roi đòn và ngục tù của
quyền lực thế gian để rao giảng Tin Mừng như thiên sứ truyền dạy. Tại sao các
ông có thể làm được những điều này trong khi bao con người sợ hãi và trốn
tránh? Thưa vì các ông đã nhìn thấy rõ uy quyền của Thiên Chúa hơn hẳn mọi quyền
lực của con người: Thiên sứ của Đức Chúa đã đưa các ông ra khỏi ngục khi lính vẫn
canh và cửa tù vẫn đóng. Hơn nữa, các ông đã nhìn thấy rõ sự thật của Đức Kitô
và sự sai trái của Thượng Hội Đồng. Các ông chắc cũng đã tự hỏi: Tại sao lại cứ
phải tiếp tục làm nô lệ cho sự sai trái, mà không để cho sự thật giải phóng các
ông. Vì thế, khi có cơ hội là các ông loan báo sự thật và vạch trần sự sai
trái.
Dân chúng cũng chọn
theo sự thật của các tông đồ giảng dạy. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, “chẳng
có gì giấu kín mà không được tiết lộ.” Sự thật sẽ có lúc được tiết lộ, con người
không thể bưng bít mãi sự thật. Tuy là “dân đen ít học,” nhưng họ vẫn còn có
khôn ngoan Thiên Chúa ban để nhận ra sự thật. Họ không ngu dốt đến độ cứ bị
đánh lừa để xỏ mũi kéo đi mãi. Họ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai đích
thực Thiên Chúa gởi đến để cứu chuộc con người; họ cũng nhận ra sự mờ ám của những
người trong Thượng Hội Đồng, họ thủ tiêu Chúa Giêsu chỉ vì ghen tức mà thôi. Một
khi dân chúng đã nhận ra sự thực, những kẻ làm điều sai sẽ mất uy quyền cai trị
và phải coi chừng kẻo bị dân chúng ném đá.
(2) Các người thuộc
Thượng Hội Đồng tiếp tục ở trong bóng tối: Sách CVTĐ viết: “Nhưng khi thuộc hạ
đến, họ không thấy các ông trong ngục. Họ trở về báo cáo rằng: “Chúng tôi thấy
ngục đóng kỹ lưỡng và những người lính canh đứng ở cửa; nhưng khi mở cửa ra, chúng
tôi không thấy ai ở bên trong.” Nghe những lời ấy, viên lãnh binh Đền Thờ và
các thượng tế phân vân về các ông, không biết chuyện gì xảy ra.” Họ phân vân về
những chuyện xảy ra, “ngục vẫn đóng, làm sao các ông có thể thoát ra?” Nếu họ
chịu khó để sự thật hướng dẫn, họ sẽ hiểu chính uy quyền của Thiên Chúa đã giải
thoát các tông đồ, và họ sẽ không tiếp tục chống lại Ngài nữa.
Nhưng họ vẫn cứng lòng
và không thay đổi thái độ đối với các tông đồ: “Viên lãnh binh bèn đi với bọn
thuộc hạ và điệu các ông về, nhưng không dùng bạo lực vì sợ bị dân ném đá.” Có
một sự khôi hài xảy ra ở đây: Lẽ ra các tông đồ là những người phải sợ họ;
nhưng giờ đây họ trở thành những người sợ dân chúng ném đá. Có lẽ họ biết có gì
khác thường xảy ra, nhưng vẫn không quan tâm để ý tới, vì đã quá quen thói dùng
sức mạnh để đàn áp người vô tội.
2/ Phúc Âm: Ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh
sáng.
2.1/ Thiên Chúa yêu
thương con người: Chúa Giêsu xác tín tình
yêu Thiên Chúa dành cho con người khi Ngài nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi
đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống
muôn đời.”
Mục đích của Thiên
Chúa khi sai Người Con đến thế gian, không phải là để lên án thế gian; nhưng là
để cứu độ thế gian. Một Thiên Chúa đã yêu thương nhân lọai đến độ hy sinh Người
Con Một của mình, điều này chứng tỏ Ngài không nghĩ đến việc lên án, mà chỉ
nghĩ đến việc cứu chuộc. Nếu Thiên Chúa không lên án, tại sao vẫn có người phải
hư mất? Thực tế, con người lên án chính mình khi quay lưng lại với tình yêu
Thiên Chúa và không tin vào Đức Kitô.
2.2/ Xung đột giữa ánh
sáng và bóng tối: là sự xung đột thể lý, những
gì mà con người thấy được. Chúa Giêsu được ví như ánh sáng đến để xua tan bóng
tối đang bao trùm thế gian. Con người có quyền tự do lựa chọn: hoặc chấp nhận
ra ngòai ánh sáng: tin vào Chúa Kitô, hoặc chấp nhận ở trong bóng tối: không
tin vào Chúa Kitô. Chính sự lựa chọn này mà con người được cứu độ hay bị lên
án.
Đàng sau sự xung đột
thể lý là sự xung đột luân lý: giữa sự thiện và sự ác, như Chúa Giêsu nói: “Quả
thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc
họ làm khỏi bị chê trách.” Chúa Giêsu muốn nói lý do tại sao con người không chấp
nhận ánh sáng không phải vì họ không biết ánh sáng tốt lành và lợi ích, nhưng
vì có những điều ác (tội lỗi) họ đã quá quen thuộc và không muốn từ bỏ. Nếu chọn
ra ngòai ánh sáng hay tin vào Chúa Kitô, họ phải chấp nhận bỏ những điều này.
Sau cùng, đây là sự xung đột tâm linh: giữa Thiên Chúa và thế gian. Thiên Chúa
muốn cứu độ con người trong khi ma quỉ và các quyền lực thế gian muốn lôi kéo
con người về phía chúng. Để thuộc về Thiên Chúa, con người phải “đến cùng ánh
sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên
Chúa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta luôn bị đặt
trong tình trạng xung đột giữa ánh sáng và bóng tối, giữa uy quyền Thiên Chúa
và sức mạnh của ma quỉ và thế gian, cho đến ngày chúng ta từ giã cuộc đời này.
– Chúng ta luôn bị đặt
phải lựa chọn để sống theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa hay tiêu chuẩn của thế
gian. Chúa Giêsu báo trước đau khổ nếu chúng ta chọn sống theo tiêu chuẩn của
Thiên Chúa: Họ sẽ ghét anh em vì anh em không thuộc về họ.
– Ngài cũng báo trước
cho chúng ta sự toàn thắng của lối sống theo Thiên Chúa: “Trong thế gian, anh
em sẽ bị người đời ghét bỏ; nhưng đừng sợ vì Thầy đã thắng thế gian.”
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
01/05/2019 – THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 2 PS
Th. Giu-se thợ
Mt 13,54-58
MỘT BÁC THỢ CAO QUÝ
“Ông không phải là
con bác thợ sao?” (Mt 13,54)
Suy niệm: Bộ bách khoa Wikipedia cho
biết: trên thế giới hiện nay có 56 thể loại nghề nghiệp, chia thành năm nhóm. Số
lượng nghề nghiệp thật phong phú, phải không bạn? Không hiểu sao Chúa Cha không
chọn cho Con mình một người cha nuôi có một nghề sáng giá hoặc thuộc hàng đẳng
cấp trong xã hội, mà chọn một người thợ mộc! Chắc chắn Đức Giê-su sau này làm
nghề thợ mộc do cha nuôi của mình cũng làm nghề này. Trước mặt Thiên Chúa, nghề
thợ mộc có giá trị không kém gì các nghề xã hội thời ấy cho là cao quý như luật
sĩ, thượng tế. Đối với Ngài, làm nghề nào không quan trọng, quan trọng là cung
cách ta làm. Thánh Giu-se là mẫu gương lao động cho ta qua cung cách siêng năng
làm việc để nuôi sống gia đình, để chia sẻ với tha nhân, và góp phần vào công
trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Mời Bạn: “Con người đã luôn cố gắng
phát triển thêm mãi đời sống mình bằng việc làm và tài năng” (Vatican II, Vui Mừng
và Hy Vọng). Hãy phát triển đời sống mình và những người lân cận qua công ăn việc
làm và trau dồi tài năng. Đó là những “nén bạc” mà bạn không được phép dành
riêng cho mình!
Chia sẻ: Lao động của bạn có những đặc tính như của thánh Giu-se
không?
Sống Lời Chúa: Tôi ghi nhớ và sống câu Lời
Chúa sau đây: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng
để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6,27).
Cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin
nhận lời thánh Cả Giu-se chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương Người để lại
là chu toàn nhiệm vụ Chúa đã giao phó, hầu được hưởng niềm vui Chúa đã hứa cho
tôi tớ trung thành” (Lời nguyện ngày lễ).
(5 Phút Lời Chúa)
Đức Giêsu về quê (01.5.2019 – Thứ
Tư – Thánh Giuse Thợ)
Suy niệm:
Sau khi đã chịu phép Rửa, vào hoang địa để cầu nguyện, ăn chay,
có một ngày nào đó, Đức Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên đường.
Lên đường là bỏ lại ngôi làng Nazareth dấu yêu với bao kỷ niệm.
Chính tại đây Ngài đã sống hơn ba mươi năm trong bầu khí gia đình.
Chính tại nơi này, Ngài đã lớn lên quân bình về thân xác, trí tuệ, tâm linh.
Nazareth như một ngôi trường lớn, chuẩn bị cho Ngài chững chạc đi sứ vụ.
có một ngày nào đó, Đức Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên đường.
Lên đường là bỏ lại ngôi làng Nazareth dấu yêu với bao kỷ niệm.
Chính tại đây Ngài đã sống hơn ba mươi năm trong bầu khí gia đình.
Chính tại nơi này, Ngài đã lớn lên quân bình về thân xác, trí tuệ, tâm linh.
Nazareth như một ngôi trường lớn, chuẩn bị cho Ngài chững chạc đi sứ vụ.
Tại đây, Đức Giêsu đã là con bác thợ Giuse (c.
55),
và đã trở thành thợ theo truyền thống cha truyền con nối.
Ngài đã được dạy nghề và hành nghề để kiếm sống cho bản thân và gia đình.
Đức Giêsu là một người thợ tại Nazareth, phục vụ cho nhu cầu dân làng.
Ngài biết đến cái vất vả của công việc chân tay nặng nhọc.
Đức Giêsu không thuộc giới trí thức, thượng lưu, quyền quý.
Lao động làm Ngài gần với người nghèo và thấy sự đơn sơ của tâm hồn họ.
Cũng tại Nazareth, đời sống cầu nguyện của Đức Giêsu được nuôi dưỡng.
Ngài học được lối cầu nguyện một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức Giêsu có khả năng thấy sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự,
nơi một bông hoa, nơi chim trời, nơi ánh nắng và cơn mưa.
Tình thân của Con đối với Cha ngày càng trở nên sâu đậm.
Ngài tìm ý Cha mỗi lúc và để Cha chi phối trọn vẹn đời mình.
và đã trở thành thợ theo truyền thống cha truyền con nối.
Ngài đã được dạy nghề và hành nghề để kiếm sống cho bản thân và gia đình.
Đức Giêsu là một người thợ tại Nazareth, phục vụ cho nhu cầu dân làng.
Ngài biết đến cái vất vả của công việc chân tay nặng nhọc.
Đức Giêsu không thuộc giới trí thức, thượng lưu, quyền quý.
Lao động làm Ngài gần với người nghèo và thấy sự đơn sơ của tâm hồn họ.
Cũng tại Nazareth, đời sống cầu nguyện của Đức Giêsu được nuôi dưỡng.
Ngài học được lối cầu nguyện một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức Giêsu có khả năng thấy sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự,
nơi một bông hoa, nơi chim trời, nơi ánh nắng và cơn mưa.
Tình thân của Con đối với Cha ngày càng trở nên sâu đậm.
Ngài tìm ý Cha mỗi lúc và để Cha chi phối trọn vẹn đời mình.
Hôm nay Đức Giêsu trở về làng cũ sau một thời gian đi sứ vụ.
Ngài vào lại hội đường quen thuộc, gặp lại những khuôn mặt đồng hương.
Không rõ trước đây có lần nào bác thợ Giêsu được mời giảng ở đây chưa.
Nhưng lần này, khi trở về với tiếng tăm từ những phép lạ làm ở nơi khác,
Đức Giêsu đã khiến dân làng sửng sốt vì sự khôn ngoan trong lời giảng dạy.
Hai lần họ đặt câu hỏi: Bởi đâu ông ta được như thế? (cc. 54. 56).
Một câu hỏi rất hay, nếu được tìm hiểu một cách nghiêm túc.
Câu hỏi này có thể đưa họ đi rất xa, để gặp được căn tính của Đức Giêsu.
Ngài vào lại hội đường quen thuộc, gặp lại những khuôn mặt đồng hương.
Không rõ trước đây có lần nào bác thợ Giêsu được mời giảng ở đây chưa.
Nhưng lần này, khi trở về với tiếng tăm từ những phép lạ làm ở nơi khác,
Đức Giêsu đã khiến dân làng sửng sốt vì sự khôn ngoan trong lời giảng dạy.
Hai lần họ đặt câu hỏi: Bởi đâu ông ta được như thế? (cc. 54. 56).
Một câu hỏi rất hay, nếu được tìm hiểu một cách nghiêm túc.
Câu hỏi này có thể đưa họ đi rất xa, để gặp được căn tính của Đức Giêsu.
Tiếc thay, dân làng Nazareth lại không quên được nghề nghiệp của cha
Ngài.
Họ nhớ rất rõ họ hàng gần xa của Ngài là mẹ và các anh chị.
Họ có thể kể tên từng anh chị em của Ngài, vì đều là bà con lối xóm (c. 55).
Đức Giêsu là người mà họ biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm sao con người bình thường, ít học đó lại có thể là một vị ngôn sứ?
Làm sao từ ngôi làng Nazareth vô danh này lại xuất hiện ngôn sứ được?
Và họ vấp ngã vì Đức Giêsu, nghĩa là họ đã không tin vào Ngài.
Cái biết gần gũi của họ về Ngài lại trở nên thành kiến
khiến họ không thể tiến sâu hơn vào mầu nhiệm con người Đức Giêsu.
Người đồng hương của Ngài đã không trả lời được câu hỏi: Bởi đâu…?
Họ nhớ rất rõ họ hàng gần xa của Ngài là mẹ và các anh chị.
Họ có thể kể tên từng anh chị em của Ngài, vì đều là bà con lối xóm (c. 55).
Đức Giêsu là người mà họ biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm sao con người bình thường, ít học đó lại có thể là một vị ngôn sứ?
Làm sao từ ngôi làng Nazareth vô danh này lại xuất hiện ngôn sứ được?
Và họ vấp ngã vì Đức Giêsu, nghĩa là họ đã không tin vào Ngài.
Cái biết gần gũi của họ về Ngài lại trở nên thành kiến
khiến họ không thể tiến sâu hơn vào mầu nhiệm con người Đức Giêsu.
Người đồng hương của Ngài đã không trả lời được câu hỏi: Bởi đâu…?
Mỗi con người là một mầu nhiệm mà ta phải khám phá mãi.
Có những mầu nhiệm lớn ẩn trong lớp áo tầm thường.
Dân làng Nazareth đã không nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng.
Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi,
để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.
Có những mầu nhiệm lớn ẩn trong lớp áo tầm thường.
Dân làng Nazareth đã không nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng.
Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi,
để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
1 THÁNG NĂM
Sự Đảm Bảo Của
Thiên Chúa
Để hiểu dụ ngôn về Người
Mục Tử Tốt Lành, chúng ta cần xác tín khả năng quán thông trước mọi sự của
Thiên Chúa và giá trị vô hạn của chúng ta trước mặt Ngài: “Chúng sẽ không bao
giờ hư mất. Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi … Không ai cướp được chúng khỏi
tay Chúa Cha” (Ga 10, 28 – 29). Lời khẳng định thật mạnh mẽ. Có thể nói, toàn bộ
tấn kịch cứu độ được phản ảnh trong những lời này.
Đức Kitô nói rõ: “Cha
tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì cao trọng hơn tất cả … Tôi và Chúa Cha là một”
(Ga 10, 29 – 30). Xuyên qua Thập Giá và Phục Sinh, mối hiệp nhất thần linh của
Chúa Cha và Chúa Con được bày tỏ trọn vẹn. Mối hiệp nhất này được diễn tả trong
công cuộc sáng tạo con người, trong sự quan phòng cứu độ của Thiên Chúa, và
trong hành động cứu chuộc của Ngài.
Trong hành động cứu
chuộc, một cách nào đó, Thiên Chúa dấn mình trọn vẹn để đảm bảo rằng những gì
mà Ngài đã tạo nên theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài sẽ không bị tước mất khỏi
Ngài. Thiên Chúa đảm bảo rằng hành động cứu độ của tình yêu vĩnh cửu ấy sẽ được
hoàn tất nơi con người.
Giáo Hội là chứng nhân
của tình yêu ấy. Giáo Hội là chứng nhân của công cuộc cứu độ con người được thực
hiện nơi Đức Kitô. Giáo Hội là chứng nhân của Mầu Nhiệm Phục Sinh – qua cuộc phục
sinh này, sứ mạng của Đấng Mục Tử Tốt Lành đã được thực hiện với tầm mức sâu xa
nhất. Trong Sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta nhận được cùng một lời chứng ấy khi
Phao-lô và Barnaba nhắc lại những lời trong Sách Ngôn Sứ Isaia: “Ta sẽ đặt
ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất” (Cv
13, 47).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 01/5
LỄ THÁNH GIUSE THỢ
Cv 5, 17-26; Ga 3,
16-21.
LỜI SUY NIỆM: “Thiên Chúa
yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào con của Người thì khỏi phải
chết.”
Trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo ở số 219 cho chúng ta biết về Tình
yêu của Thiên Chúa đối với Ítraen được so sánh với tình yêu của một người cha đối
với con mình. Tình yêu đó còn mạnh hơn tình yêu của một người mẹ dành cho con
cái mình. Thiên Chúa yêu dân Ngài hơn người chồng yêu người vợ yêu dấu của
mình. Tình yêu đó cũng sẽ chiến thắng những bất trung, thâm chí tồi tệ nhất.
Lạy Chúa Giêsu, chính Chúa là Hồng Ân của Chúa Cha ban tặng cho chúng con, để
chúng con nhờ Danh Chúa mà được sự sống đời đời dời. Xin cho chúng con luôn yêu
mến Chúa, và vâng phục những điều Chúa dạy để chúng con được sống đẹp lòng Chúa
Cha.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 01-05: Thánh GIUSE THỢ
Thánh Giuse. Cả hai bản
của thánh Mathêu và thánh Luca, đều nói rằng: Ngài thuộc giòng họ David. Nhưng
vào thời khởi đầu công nguyên, miêu duệ cùng giòng giống vương giả này chẳng
còn danh giá và giàu có gì. Vài điều chúng ta biết được về thánh Giuse qua việc
dâng Chúa Giêsu vào đền thờ (Lc 2,24), cho biết rằng Ngài là một người nghèo
khó, không có đặc quyền nào. Gia đình Ngài vốn thuộc về Belem đất Giudêa, nhưng
đã dời về Nazareth đất Galilea nơi Ngài sinh sống bằng nghề thợ mộc (Mt 13,55).
Con người bình thường
được nhắc tới với một chút khinh thường như “bác thợ mộc” ấy lại là gương mẫu
cho mọi Kitô hữu và cách riêng cho những Kitô hữu sống nghề lao động tay chân.
Ngài thật là người công chính như một dụng cụ nhẫn nại của Thiên Chúa, thực hiện
mọi điều Chúa đòi hỏi với một đức tin không nghi nan. Ngài sốt sắng tuân giữ luật
Do thái, trung thành bảo vệ gia đình, Ngài có trách nhiệm, chấp nhận mọi khó
khăn mau mắn vâng theo lệnh truyền, vững chí dưới cơn thử thách, luôn lặng lẽ
đáng kính phục. Nhân tính hấp dẫn của Chúa Kitô với tính cương trực, lòng can dảm
và đức bác ái sâu xa, chắc chắn đã được phát triển theo gương mẫu và sự nuôi dưỡng
Người nhận được từ Thánh cả Giuse.
Dầu vậy, sự cao cả của
thánh nhân ở một mức độ sâu xa hơn từ ngữ vẫn áp dụng cho Người là “Cha nuôi
Chúa Giêsu”. Từ ngữ này gợi lên một liên hệ bóng gió nào đó với Chúa Kitô. Đúng
hơn có lẽ phải nói rằng thánh Giuse là Cha của Chúa Giêsu như các sách Tin Mừng
đã là ngần ngại nói như vậy, Chúa Giêsu thực là hoa quả của cuộc hôn nhân mà
thánh Giuse giữ vai trò thiết yếu. Nếu tình phụ tử của Ngài là trinh khiết thì
không phải vì thế mà mối tình ấy thấp hèn hơn tình phụ tử về thể xác. Liên hệ của
người cha trinh khiết với Chúa Giêsu cũng tương tự như mối liên hệ của Người Mẹ
Trinh khiết đối với Người. Cả Đức Mẹ và thánh Giuse đều góp phần hoàn hảo của
mình vào mầu nhiệm nhập thể. Phần đóng góp này còn mở rộng tới thân thể mầu nhiệm
của Ngôi Lời hoá thành nhục thể là Giáo hội. Thánh Giuse vẫn tiếp tục vai trò của
mình trong việc nuôi dưỡng bảo vệ và hướng dẫn Giáo hội.
Bởi đó năm 1870, Đức
Giáo Hoàng Piô IX tuyên xưng thánh Giuse là Đấng bảo trợ của cả Hội Thánh khắp
hoàn cầu. Và đặt lễ kính vào ngày 19 tháng 3 mỗi năm.
Từ vai trò đặc biệt của
thánh Giuse đối với toàn thể Hội Thánh, thánh nhân chắc chắn cũng liên hệ đến từng
người trong thân thể mầu nhiệm này. Thánh nhân đã thi hành sứ mạng của mình
trong cuộc sống lao động như người thợ. Do đó, Ngài có một mối liên hệ đặc biệt
với lớp người đông đảo sống bằng sức lao động chân tay của mình. Năm 1955, Đức
Piô XII đã lập nên lễ thánh Giuse và đặt ngày kính nhớ vào mồng 1 tháng 5, ngày
mà nhiều nước chọn cử hành lễ lao động. Niên biểu không hoàn toàn phổ quát nên
lễ thánh Giuse Thợ cũng được để tự do.
Tuy nhiên, chính Đức
Giáo Hoàng đã nói tới ý nghĩa của lễ này : – “Chắc hẳn chúng ta phải hân hoan
vì Người thợ vô danh ở Nazareth chẳng những là hiện thân cho giá trị lao động
tay chân trước mặt Chúa và Giáo hội mà còn là vị Giám hộ mẫn tiệp của mọi người
và của các gia đình các bạn lao động nữa”.
Để nói về quyền năng của
Đấng bảo trợ, Ngài tiếp : – “Không có Vị Giám hộ nào có đủ khả năng Linh nghiệm
truyền thông Phúc âm cho đời sống thợ thuyền hơn bằng thánh Giuse thợ”
Mừng lễ thánh Giuse thợ,
chúng ta hãy nhớ lời vị Cha chung, Đức Piô XII nhắn nhủ, trong bài diễn văn đọc
vào ngày lễ thánh Giuse thợ đầu tiên này : – “Nếu các con muốn được gần Chúa
Kitô, Cha nhắc nhớ các con hôm nay : Ite ad Joseph – Hãy đến với Giuse” (St
41,55)
(daminhvn.net)
01 Tháng Năm
Giuse Trong Xóm Nhỏ Ðiêu Tàn
“Giuse trong xóm nhỏ
điêu tàn…”
Có lẽ không một người
công giáo Việt Nam nào mà không thuộc nằm lòng bài thánh ca trên đây của cố
linh mục Ðạo Minh, dòng thánh Giuse… Tác giả đã sáng tác ca khúc trong giai đoạn
đau thương của đất nước giữa hai thập niên 40 – 50 và cũng như thánh Giuse, đã
ra đi âm thầm trong một cái chết vô cùng bí ẩn sau ngày thay đổi chế độ.
Lời ca đơn sơ xuất
phát từ cuộc sống lam lũ qua mọi thời đại của người Việt Nam. Nhưng tâm tình đó
lại càng hợp với hoàn cảnh sống của người Việt Nam hơn bao giờ hết. Với khẩu hiệu
lao động là vinh quang… dường như sau năm 1975, người Việt Nam nào cũng đã hơn
một lầm mồ hôi nhễ nhại với cây cuốc, cái cày hoặc còng lưng trên chiếc xích lô
đạp…
Trong cảnh sống đó,
có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy gần gũi với thánh Giuse, vị thánh được mệnh
danh là người công chính, nhưng đồng thời cũng là con người thinh lặng nhất
trong Phúc Âm. Có rất nhiều thứ thinh lặng. Thinh lặng của những người câm điếc,
bị trói buộc trong bất lực tự nhiên của mình. Thinh lặng trong cô đơn buồn
chán. Thinh lặng trong căm thù oán ghét. Thinh lặng trong khép kín ích kỷ.
Thinh lặng trong kiêu hãnh trước đe dọa, thử thách…
Thánh Giuse đã
thinh lặng trong tinh thần chấp nhận và chiêm niệm. Trong cuộc sống âm thầm tại
Nagiaréth, thánh Giuse đã thinh lặng để chiêm ngưỡng mầu nhiệm nhập thể kỳ diệu
trong con người của Chúa Giêsu. Cuộc đời của thánh Giuse đã bắt đầu bằng một giấc
mơ để rồi tiếp tục trong một giấc mơ triền miên. Nhưng đây không phải là một giấc
mơ của mộng ảo phù du, mà là một giấc mơ trong chiêm niệm về hiện thực…
Trong sự thinh lặng chiêm niệm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Trong sự thinh lặng chiêm niệm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Hôm nay là ngày lao động
Quốc tế. Ngày lao động Quốc tế này gợi lại cả một quá trình tranh đấu của giới
thợ thuyền của Âu Châu vào đầu thế kỷ vừa qua. Từ những bất công xã hội, cuộc đấu
tranh của giới thợ thuyền đã làm trồi dậy phẩm giá của con người và giá trị của
sự cần lao…
Ðối với người Kitô,
ngày Quốc tế lao động này gắn liền với con người của Thánh cả Giuse, quan thầy
và gương mẫu của giới cần lao. Do đó ngày hôm nay đối với chúng ta phải là một
ngày của suy tư và cầu nguyện. Suy tư về ý nghĩa và giá trị những công việc hằng
ngày của chúng ta. Cầu nguyện cho mọi người biết nhận ra sự hiện diện và tác động
và lời kêu mời của Chúa trong cuộc sống…
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét