27/04/2019
Thứ bảy tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH
BÀI ĐỌC I: Cv 4, 13-21
“Chúng tôi không thể nào không
nói lên những điều mắt thấy tai nghe”.
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy,
các thủ lãnh, kỳ lão và luật sĩ nhận thấy Phêrô và Gioan kiên quyết, và biết
hai ngài là những kẻ thất học và dốt nát, nên lấy làm lạ; và còn biết rằng hai
ngài đã ở cùng Đức Giêsu; họ thấy kẻ được chữa lành đứng ở đó với hai ngài, nên
họ không thể nói gì nghịch lại được. Họ mới truyền lệnh cho hai ngài ra khỏi hội
nghị, rồi thảo luận với nhau rằng: “Chúng ta phải làm gì đối với những người
này? Vì toàn dân cư ngụ ở Giêrusalem đều hay biết, phép lạ hai ông đã làm rõ
ràng quá chúng ta không thể chối được. Nhưng để sự việc không còn loan truyền
trong dân nữa, chúng ta hãy đe doạ, cấm hai ông không được lấy danh ấy mà giảng
cho ai nữa”. Họ liền gọi hai ngài vào và cấm nhặt không được nhân danh Đức
Giêsu mà nói và giảng dạy nữa. Nhưng Phêrô và Gioan trả lời họ rằng: “Trước mặt
Chúa, các ngài hãy xét coi: nghe các ngài hơn nghe Chúa, có phải lẽ không? Vì
chúng tôi không thể nào không nói lên những điều mắt thấy tai nghe”. Nhưng họ lại
đe doạ hai ngài, rồi thả về, vì không tìm được cách nào trừng phạt hai ngài, họ
lại còn sợ dân chúng, vì mọi người đều ca tụng Thiên Chúa về việc đã xảy ra. Đó
là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 117, 1 và
14-15. 16ab-18. 19-21
Đáp: Tôi cảm tạ
Chúa vì Chúa đã nhậm lời tôi (c. 21a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Hãy cảm tạ Chúa, vì
Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Chúa là sức mạnh, là dũng lực của
tôi, và Người trở nên Đấng cứu độ tôi. Tiếng reo mừng và chiến thắng vang lên
trong cư xá những kẻ hiền nhân:Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt.- Đáp.
2) Tay hữu Chúa đã cất
nhắc tôi lên, tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ
sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. Chúa sửa trị, Chúa sửa trị tôi,
nhưng Người đã không nạp tôi cho tử thần. – Đáp.
3) Xin mở cho tôi các
cửa công minh, để tôi vào và cảm tạ ơn Chúa. Đây là ngọ môn của Chúa, những người
hiền đức qua đó tiến vào. Tôi cảm tạ Chúa vì Chúa đã nhậm lời tôi, và đã trở
nên Đấng cứu độ tôi. – Đáp.
ALLELUIA: Tv 117, 24
Alleluia, alleluia!
– Đây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. –
Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 16, 9-15
“Các con hãy đi khắp thế gian
rao giảng Tin Mừng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi Chúa Giêsu sống lại,
sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, thì trước hết Người hiện ra với Maria
Mađalêna, kẻ đã được Chúa đuổi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng ở với
Người và nay đang buồn thảm khóc lóc. Họ nghe bà nói Chúa sống lại và bà đã thấy
Người, nhưng họ không tin. Sau đó, Chúa lại hiện ra dưới hình thức khác với hai
môn đệ đang trên đường về miền quê. Hai ông trở về báo tin cho anh em, nhưng họ
cũng không tin các ông ấy. Sau hết, Chúa hiện ra với mười một tông đồ lúc đang
ngồi ăn. Chúa khiển trách các ông đã cứng lòng, vì các ông không tin những kẻ
đã thấy Người sống lại. Rồi Người phán: “Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng
Tin Mừng cho muôn loài”. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Những lần hiện
ra
Ðoạn Tin Mừng hôm nay
là một tóm kết về những lần hiện ra của Chúa Giêsu khi Ngài sống lại. Thánh
Marcô nhấn mạnh đến sự cứng lòng tin của các môn đệ để làm nổi bật chứng từ của
Chúa Giêsu hiện ra và mệnh lệnh phải ra đi làm chứng cho Ðấng Phục Sinh. Chúa
Giêsu Phục Sinh vẫn mãi mãi là một, nhưng khi hiện ra, Ngài luôn đến với hình dạng
của một người xa lạ. Với bà Maria Madalena, Ngài hiện ra như một người làm vườn;
với hai môn đệ đi về làng Emmaus, Ngài đồng hành như một lữ khách xa lạ; với
các môn đệ chài lưới, Ngài xuất hiện như một người mà họ cũng không nhận ra
ngay tức khắc. Niềm tin vào Ðấng Phục Sinh luôn đòi hỏi các môn đệ phải làm một
bước nhảy vọt để từ một người xa lạ, nhận ra dung mạo của Thầy mình. Từ hai
ngàn năm qua, chứng từ về Ðấng Phục Sinh cũng luôn diễn ra như thế, từ cuộc sống
của cộng đồng tín hữu tiên khởi, qua cái chết của các vị tông đồ đến cuộc tử đạo,
của không biết bao nhiêu các tín hữu ở mọi thời đại, cuộc sống tin cậy mến ở mọi
nơi là một chứng từ sống động và liên lỉ về Ðấng Phục Sinh.
Niềm tin vào Ðấng Phục
Sinh và chứng từ về Ngài luôn được diễn tả bằng một cách sống mới trong cộng đồng.
Sách Tông Ðồ Công Vụ ghi lại một bức tranh vô cùng sống động về cuộc sống mới
trong Ðấng Phục Sinh ấy. Sự bình an được Ðấng ban tặng đã tạo ra một cộng đồng
hòa giải, nghĩa là một nhóm tín hữu sống trong hài hòa hiệp nhất và chia sẻ của
cải cho nhau. Nét nổi bật của cộng đồng này không hẳn là nghèo khó, bởi vì
trong đó, không ai phải thiếu thốn điều gì, mà chính là tình yêu thương của mọi
người. Của cải vật chất, thay vì là đối tượng của sự chiếm hữu ích kỷ và do đó
là nguyên nhân của tranh chấp chia rẽ, đã trở thành bí tích của tình bạn và
huynh đệ. Tựu trung, mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu tuyên bố khi hiện ra với thánh
Tomas "Phúc cho những ai không thấy mà tin" không loại trừ đòi hỏi phải
được thấy một cách cụ thể chứng từ về Ðấng Phục Sinh trong Giáo Hội, và chứng từ
ấy thiết yếu là chứng từ về tình yêu huynh đệ.
Tình yêu huynh đệ là
cuộc sống bác ái trong và từ Giáo Hội, là dấu chỉ rõ ràng và có tính thuyết phục
nhất về dung mạo và sự hiện diện của Ðấng Phục Sinh. Trong những lần hiện ra của
Ngài, cử chỉ của Ngài đã thể hiện với hai người môn đệ đi về làng Emmaus mang một
ý nghĩa đặc biệt, Ngài chỉ được nhận diện khi cầm lấy bánh bẻ ra và trao cho
hai ông. Phải chăng nét nổi bật nhất trong dung mạo của Chúa Giêsu không là cử
chỉ cầm lấy bánh, bẻ ra và trao ban sao?
Giáo Hội là thân thể mầu
nhiệm của Ðấng Phục Sinh, Ngài chỉ thực sự được nhận diện trong thân thể ấy qua
cử chỉ trao ban mà thôi. Chính vì thế mà trọng tâm và cao điểm của Giáo Hội
chính là cử hành Thánh Thể. Giáo Hội lập lại cử chỉ trao ban của Chúa Giêsu,
nhưng cử chỉ ấy sẽ không diễn tả trọn vẹn dung mạo của Ðấng Phục Sinh, nếu nó
không được nối dài và diễn tả cùng cuộc sống trao ban cụ thể của Giáo Hội và của
các tín hữu Kitô. Cuộc đời của người tín hữu Kitô phải là một thánh lễ nối dài
để mãi mãi mô tả dung mạo của Ðấng Phục Sinh.
Nguyện xin Chúa Kitô
Phục Sinh mà chúng ta tiếp rước trong Thánh Lễ mỗi ngày biến chúng ta thành những
chứng nhân sống động của Ngài trước mặt mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần BNPS
Bài đọc: Acts
4:13-21; Mk 16:9-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người
không thể trốn tránh sự thật mãi.
Có một người hay có
tính “thêu dệt” và “thêm mắm thêm muối” mỗi khi nói chuyện với người khác về
quá khứ huy hoàng của mình. Các bạn anh muốn dạy anh một bài học, nên mỗi lần
anh nói, họ ghi chép cẩn thận những gì anh nói. Sau khi kể một hồi, các bạn anh
bắt đầu thắc mắc về thời gian và nơi chốn của những việc xảy ra, và chỉ cho anh
thấy sự không hợp lý của những gì anh kể. Từ đó, anh bắt đầu nói năng cẩn thận
hơn; vì chỉ có nói thật, anh mới có thể tránh được những mâu thuẫn của các sự
việc.
Các Bài Đọc hôm nay
xoay quanh việc con người không thể trốn tránh mãi sự thật. Trong Bài Đọc I, những
người trong Thượng Hội Đồng Do-thái nghĩ khi họ đóng đinh Chúa Giêsu trên Thập
Giá là từ nay dân chúng sẽ nghe theo họ; nhưng họ lại phải đương đầu với các
môn đệ của Ngài và hàng ngàn dân chúng đã tin vào Chúa Giêsu. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ sau khi chết. Ngài khiển trách họ
đã quá cứng lòng không chịu tin vào lời các nhân chứng thuật lại trong trình
thuật hôm nay.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nghe lời các ông hay là nghe lời Thiên Chúa?
1.1/ Phản ứng của những
người trong Thượng Hội Đồng: Trước tiên, họ
ngạc nhiên khi thấy ông Phêrô và ông Gioan mạnh dạn. Họ nghĩ không có một hay
hai cá nhân nào dám đứng ra đương đầu với quyền lực của Thượng Hội Đồng; vì nếu
làm như vậy, chắc chắn sẽ lãnh thiệt hại vào thân. Thứ đến, họ khám phá ra hai
ông là những người không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân. Họ nhận xét
đúng, cả hai, Phêrô và Gioan, đều làm nghề đánh cá; làm sao có cơ hội để học hỏi
và biết chữ nghĩa và Lề Luật như họ được. Cả hai nhận xét của họ đều đúng, và
câu hỏi họ đặt ra cho hai ông hôm qua rất chí lý: “Nhờ quyền lực nào và nhân
danh ai mà các ông làm chuyện đó.”
Câu trả lời của Phêrô
giúp họ tìm ra những gì họ muốn biết: chúng tôi chỉ lấy sức mạnh và quyền lực của
Đức Kitô, Đấng mà các ông đã đóng đinh vào Thập Giá. Họ cũng nhận ra hai ông là
những người đã từng theo Đức Giêsu; đồng thời họ lại thấy người đã được chữa
lành đứng đó với hai ông, nên họ không biết đối đáp thế nào. Họ mới truyền cho
hai ông ra khỏi Thượng Hội Đồng, để bàn tính với nhau. Họ chỉ có hai con đường
phải chọn:
(1) Phục thiện và tin
vào Chúa Giêsu: Đứng trước một phép lạ quá rõ ràng, đứng trước 3 nhân chứng, và
đứng trước đông đảo dân chúng; họ phải tin vào Chúa Giêsu là Người đến từ Thiên
Chúa, đã chết và sống lại. Chính họ đã nói với nhau về hai ông: “Họ đã làm một
dấu lạ rành rành: điều đó hiển nhiên đối với mọi người cư ngụ tại Jerusalem, và
ta không thể chối được.”
(2) Dùng bạo lực để
bưng bít sự thật: Có nhiều lý do để họ từ chối không tin: sợ mất thế giá, sợ mất
lợi lộc vật chất, sợ phải thay đổi niềm tin …
Sau khi bàn luận, họ
quyết định bưng bít sự thật bằng bạo lực. Họ quyết định: “Nhưng để cho việc đó
khỏi lan rộng thêm trong dân, ta hãy ngăm đe, nghiêm cấm họ từ nay không được
nói đến danh ấy với ai nữa. Họ cho gọi hai ông vào và tuyệt đối cấm hai ông
không được lên tiếng hay giảng dạy về danh Đức Giêsu nữa.”
1.2/ Phản ứng của Phêrô và
Gioan: Hai ông Phêrô và Gioan đáp lại: “Nghe
lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi: trước mặt Thiên Chúa, điều ấy
có phải lẽ không? Các ông thử xét xem! Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt
đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra.”
Thượng Hội Đồng là những
người có kiến thức và biết Lề Luật của Thiên Chúa. Họ phải công nhận điều Phêrô
nói là phải tuân hành những gì Thiên Chúa nói hơn con người; nhưng vì quá ngoan
cố trong việc tìm hiểu sự thật nên họ tiếp tục ở trong bóng tối tội lỗi. Trình
thuật kể thái độ cứng lòng của họ như sau: “Sau khi ngăm đe lần nữa, họ thả hai
ông về, vì không tìm được cách trừng trị hai ông. Lý do là vì họ sợ dân: ai nấy
đều tôn vinh Thiên Chúa vì việc đã xảy ra.”
2/ Phúc Âm: Các lần hiện ra của Chúa Giêsu theo thánh-sử Marcô
Không phải chỉ có những
người trong Thượng Hội Đồng cứng lòng, các môn đệ của Chúa Giêsu cũng mắc phải
lỗi lầm đó. Hơn những người trong Thượng Hội Đồng, các tông đồ đã từng được
nghe Chúa Giêsu giảng dạy, biến hình, và báo trước cuộc tử nạn và sống lại sẽ xảy
ra. Chúa Giêsu không chỉ hiện ra một lần để có cớ cho các tông đồ nói đó chỉ là
ảo ảnh hay bóng ma; nhưng Ngài hiện ra nhiều lần với các nhân chứng khác nhau.
Chúa Giêsu phải trách thái độ cứng lòng của các ông vì đã chối từ sự thật đến
không phải từ hai như Lề Luật đòi, nhưng nhiều nhân chứng khác nhau. Thánh
Marcô liệt kê ba lần Chúa hiện ra:
(1) Với một mình Mary
Magdala: “Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức
Giêsu hiện ra trước tiên với bà Mary Magdala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi
bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã
khóc lóc. Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không
tin.”
(2) Với hai môn đệ
trên đường về quê, Emmaus: “Sau đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác
cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. Họ trở về
báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này.”
(3) Với Nhóm Mười Một:
“Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa.
Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin
những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. Người nói với các ông: “Anh
em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.””
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải luôn học
để biết sự thật, vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta khỏi mọi gian trá.
– Không chỉ học biết sự
thật, chúng ta còn phải có can đảm để nói sự thật, sống theo sự thật, và làm chứng
cho sự thật.
– Khi có sự xung đột
giữa điều Thiên Chúa nói và điều người phàm nói; chúng ta phải luôn luôn vâng lời
Thiên Chúa.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
27/04/2019 – THỨ BẢY TUẦN BÁT NHẬT PS
Mc 16,9-15
MỪNG ĐẤNG PHỤC SINH
THÌ PHẢI LOAN BÁO TIN MỪNG
“Anh em hãy đi khắp
tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15)
Suy niệm: Bà Ma-ri-a Mác-đa-la là
người đầu tiên đi báo cho các tông đồ Tin Mừng Chúa sống lại. Tiếp đến là hai
người môn đệ trên đường về Em-mau ngay lập tức quay trở lại Giê-ru-sa-lem báo
tin vui cho các môn đệ khác. Rồi Chúa Phục sinh lại hiện ra với các môn đệ đang
dùng bữa, truyền lệnh cho các ông hãy “đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo
Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” Trong các biến cố vừa kể, qua các nhân vật liên
hệ, ta nhận thấy rõ một điều: Chúa mong muốn việc Ngài sống lại trở thành niềm-vui-được-loan-báo,
một niềm vui độc nhất vô nhị cần phải được loan truyền để mọi người đón nhận,
được ơn cứu độ. Sứ mệnh ấy chính là hơi thở, là sự sống, là sự tồn vong của Hội
Thánh ở trần gian. Hội Thánh được Chúa lập ra chủ yếu là để thi hành sứ mệnh
này.
Mời Bạn: Loan báo Tin Mừng Chúa sống
lại cũng phải là sứ mệnh của bạn và tôi, của mỗi người chúng ta một khi đã lãnh
nhận bí tích Thánh Tẩy và bí tích Thêm Sức. Sự vui mừng không dừng lại ở trạng
thái hân hoan, song còn phải hành động cụ thể để bày tỏ sự vui mừng ấy. Chính
việc tích cực loan báo Tin Mừng ấy là dấu chứng hùng hồn cho niềm tin phục sinh
nơi chúng ta.
Sống Lời Chúa: Tôi xác tín như Thánh
Phao-lô: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16), rồi tìm
một việc cụ thể để thực hiện lời này.
Cầu nguyện: Lạy Đấng Phục
Sinh, Chúa sống lại làm thay đổi hẳn ý nghĩa đời con. Xin ban cho con lòng hăng
say rao giảng Tin Mừng, coi đó là lẽ sống đời con. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Vẫn không tin (27.4.2019 – Thứ Bảy trong Tuần Bát nhật Phục sinh)
Suy niệm:
Theo các nhà chú giải, sách Tin Mừng Máccô kết thúc ở chương 16, câu
8,
với việc các phụ nữ sợ hãi, chạy trốn, không dám nói gì với các môn đệ.
Sách này cũng không nói đến việc Đức Giêsu phục sinh hiện ra gặp các ông.
Kết thúc khác thường này của Máccô làm chúng ta ngày nay chưng hửng.
Cả các Kitô hữu thế kỷ thứ hai cũng bị ngỡ ngàng,
vì vào thời đó họ đã có trong tay các sách Tin Mừng khác.
Các sách này đều kể chuyện các phụ nữ đã đi gặp các môn đệ,
chuyện Đức Giêsu phục sinh hiện ra gặp các bà trước tiên;
rồi sau đó, Ngài đã hiện ra với các môn đệ
và sai các ông đi loan báo Tin Mừng (Mt 28,19-20; Lc 24, 46-48; Ga 20, 21).
với việc các phụ nữ sợ hãi, chạy trốn, không dám nói gì với các môn đệ.
Sách này cũng không nói đến việc Đức Giêsu phục sinh hiện ra gặp các ông.
Kết thúc khác thường này của Máccô làm chúng ta ngày nay chưng hửng.
Cả các Kitô hữu thế kỷ thứ hai cũng bị ngỡ ngàng,
vì vào thời đó họ đã có trong tay các sách Tin Mừng khác.
Các sách này đều kể chuyện các phụ nữ đã đi gặp các môn đệ,
chuyện Đức Giêsu phục sinh hiện ra gặp các bà trước tiên;
rồi sau đó, Ngài đã hiện ra với các môn đệ
và sai các ông đi loan báo Tin Mừng (Mt 28,19-20; Lc 24, 46-48; Ga 20, 21).
Để giải quyết khó khăn do phần kết của sách Tin Mừng Máccô đặt ra,
một tác giả được ơn linh hứng đã viết thêm phần phụ lục (Mc 16, 9-20),
dựa trên các sách Tin Mừng khác và sách Công vụ Tông đồ.
Năm 1546, phần này đã được Công đồng Trentô nhìn nhận là Lời Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến thái độ không tin của các môn đệ.
một tác giả được ơn linh hứng đã viết thêm phần phụ lục (Mc 16, 9-20),
dựa trên các sách Tin Mừng khác và sách Công vụ Tông đồ.
Năm 1546, phần này đã được Công đồng Trentô nhìn nhận là Lời Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến thái độ không tin của các môn đệ.
Đức Giêsu phục sinh hiện ra trước tiên cho bà Maria Mácđala.
Bà đi báo tin Thầy sống lại cho những môn đệ đang buồn bã khóc lóc,
nhưng họ không tin (cc. 9-11).
Lần thứ hai, Đức Giêsu tỏ mình cho hai môn đệ khi họ trên đường về quê.
Khi hai ông này báo tin cho những môn đệ khác, thì họ cũng không tin (cc. 12-13).
Lần thứ ba, Đức Giêsu đích thân tỏ mình cho nhóm Mười Một.
Ngài khiển trách họ về tội không tin những kẻ đã thấy Ngài phục sinh (c. 14).
Bà đi báo tin Thầy sống lại cho những môn đệ đang buồn bã khóc lóc,
nhưng họ không tin (cc. 9-11).
Lần thứ hai, Đức Giêsu tỏ mình cho hai môn đệ khi họ trên đường về quê.
Khi hai ông này báo tin cho những môn đệ khác, thì họ cũng không tin (cc. 12-13).
Lần thứ ba, Đức Giêsu đích thân tỏ mình cho nhóm Mười Một.
Ngài khiển trách họ về tội không tin những kẻ đã thấy Ngài phục sinh (c. 14).
Xem ra tin Thầy Giêsu phục sinh không phải là chuyện dễ, ngay cả đối với
các môn đệ,
dù họ đã được nghe Thầy báo trước nhiều lần khi còn sống bên Thầy,
dù có những người trong nhóm làm chứng mình đã thấy Thầy sống lại.
Ở lại trong nỗi thất vọng, buồn phiền thì dễ hơn sống lạc quan vui tươi.
Các môn đệ không ra khỏi được nỗi đau do cái chết của Thầy.
Có những nỗi đau làm con người khép kín và khoanh tay bất động.
Nhưng Đức Giêsu phục sinh vẫn không bỏ rơi các học trò cứng cỏi của mình.
Ngài kiên trì chinh phục họ bằng cách đến với họ và dùng bữa.
Ngài đưa họ ra khỏi thế giới nhỏ bé của họ và giao cho họ một sứ mạng lớn lao.
“Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (c. 15).
dù họ đã được nghe Thầy báo trước nhiều lần khi còn sống bên Thầy,
dù có những người trong nhóm làm chứng mình đã thấy Thầy sống lại.
Ở lại trong nỗi thất vọng, buồn phiền thì dễ hơn sống lạc quan vui tươi.
Các môn đệ không ra khỏi được nỗi đau do cái chết của Thầy.
Có những nỗi đau làm con người khép kín và khoanh tay bất động.
Nhưng Đức Giêsu phục sinh vẫn không bỏ rơi các học trò cứng cỏi của mình.
Ngài kiên trì chinh phục họ bằng cách đến với họ và dùng bữa.
Ngài đưa họ ra khỏi thế giới nhỏ bé của họ và giao cho họ một sứ mạng lớn lao.
“Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (c. 15).
Tin Đức Giêsu phục sinh cũng không dễ đối với chúng ta hôm nay.
Nếu thực sự tin vào sự phục sinh ở đời sau, chắc chúng ta sẽ sống khác.
Thanh thoát hơn, nhẹ nhàng hơn, quảng đại hơn, vui tươi hơn…
Nhiều khi chúng ta vẫn loan báo Tin Mừng với vẻ mặt buồn bã,
vẫn nói về đời sau mà lòng còn quá nặng với vinh hoa đời này.
Chỉ mong chúng ta được thực sự phục sinh như Thầy Giêsu,
để làm tròn sứ mạng Thầy trao phó.
Nếu thực sự tin vào sự phục sinh ở đời sau, chắc chúng ta sẽ sống khác.
Thanh thoát hơn, nhẹ nhàng hơn, quảng đại hơn, vui tươi hơn…
Nhiều khi chúng ta vẫn loan báo Tin Mừng với vẻ mặt buồn bã,
vẫn nói về đời sau mà lòng còn quá nặng với vinh hoa đời này.
Chỉ mong chúng ta được thực sự phục sinh như Thầy Giêsu,
để làm tròn sứ mạng Thầy trao phó.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con được tự do bay cao,
không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
nên con được tự do bay cao,
không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu
là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu
là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi
mang một sức thu hút mãnh liệt
khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời :
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
mang một sức thu hút mãnh liệt
khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời :
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự Phục Sinh của Chúa
giúp con dám sống tận tình hơn
với Chúa và với mọi người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả.
giúp con dám sống tận tình hơn
với Chúa và với mọi người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
27 THÁNG TƯ
Mục Tử Tốt Lành Hy
Sinh Mạng Sống Vì Đàn Chiên
“Ta là mục tử tốt
lành” (Ga 10,11). Hình ảnh người Mục Tử Tốt Lành được nối kết với Mùa Vượt Qua.
Trong ánh sáng của Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô, Giáo Hội đọc lại một lần nữa về Đức
Giêsu trong tư cách là người Mục Tử Tốt Lành – truyền thống này đã có trong Giáo
Hội qua bao thế kỷ.
“Người mục tử tốt lành
thí mạng mình vì đàn chiên” (c.11). Đấy là ý tưởng nòng cốt của dụ ngôn về Người
Mục Tử Tốt Lành. Ý tưởng ấy giờ đây đã được hiện thực hoàn toàn qua hiến tế của
Đức Kitô trên Thập Giá. Người đã trao hiến mạng sống Người như hy lễ thay cho
con người. Đó là lý do tại sao Người là Mục Tử Tốt Lành.
Những hình ảnh nguyên
sơ nhất trong các hang toại đạo cho chúng ta thấy các Kitôhữu sơ khai trân trọng
sự thật về Người Mục Tử Tốt Lành biết bao. Sự thật này bắt nguồn từ Cựu Ước. Chẳng
hạn, ta đọc thấy trong Thánh Vịnh 100: “Đức Chúa là Thượng Đế; Ngài đã dựng nên
ta, ta thuộc về Ngài; ta là dân của Ngài, là đàn chiên do Ngài dẫn dắt” (c.3).
Đối với dân Chúa trong
Cựu Ước, hình ảnh người mục tử biết và săn sóc các con chiên của mình là một
hình ảnh rất quen thuộc ngay từ đầu lịch sử của họ. Và tất cả những gì xảy ra
giữa người mục tử và đàn chiên đã trở thành một hình ảnh, một ẩn dụ về mối quan
hệ giữa It-ra-en và Thiên Chúa.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 27/4
Thứ Bảy Trong Tuần
Bát Nhật Phục Sinh
Cv 4, 13-21; Mc 16,
9-15.
LỜI SUY NIỆM: “Sau khi sống lại vào lúc tảng
sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria
Mácđala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ.”
Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, một biến cố lịch sử có thể được xác nhận bằng dấu
chỉ là “Ngôi Mộ Trống” và bằng thực tại là những lần Người gặp gỡ các Tông Đồ.
Với Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn mãi mãi trong trung tâm của mầu nhiệm đức
tin, vì biến cố đó siêu việt vượt hẳn trên lịch sử. Chính vì vậy, Chúa Giêsu Phục
Sinh không tỏ mình ra cho thế gian, nhưng cho các môn đệ của Người.
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con tạ ơn Chúa đã ban ơn đức tin cho chúng con. Xin cho
chúng con nhiệt thành sống đức tin và làm chứng Chúa trước mặt mọi người để tất
cả cùng được hưởng ơn cứu độ của Chúa.
Mạnh Phương
27 Tháng Tư
Kẻ Không Biết Sám Hối
Ngày 03/4/1990, người
tử tù Robert Alton Harris 37 tuổi đã bị đưa vào phòng hơi ngạt tại nhà tù San
Quentin thuộc tiểu bang California bên Hoa Kỳ. Ðây là lần đầu tiên kể từ 23 năm
nay, tiểu bang California tái lập bản án tử hình. Hiện nay, kể từ năm 1976, sau
khi tối cao pháp viện Hoa Kỳ phán quyết án tử hình là hợp hiến, tiểu bang
California là một trong năm tiểu bang tại Hoa Kỳ vẫn còn giữ bản án tử hình.
Người ta tính có khoảng 2,200 người trên khắp nước Mỹ đang chờ sẽ được đưa lên
ghế điện hoặc vào phòng hơi ngạt.
Robert Harris là một
kẻ giết người không biết gớm tay. Ngày 05/7/1978, sau khi đã mãn hạn tù hai năm
vì đã đánh đập một người đến chết, Harris đã cùng với người em của mình định đến
cướp một nhà băng tại San Diego. Ðể có phương tiện di chuyển, Harris đã chiếm
chiếc xe của hai người thanh niên đang đậu trước một quán ăn. Anh ra lệnh cho
hai người thanh niên lái xe đến một nơi vắng vẻ vàtại đây, anh đã rút súng sát
hại họ một cách dã man. Sau khi đã hạ sát hai người thanh niên, Harris vẫn còn
đủ ung dung và bình tĩnh để ăn cho hết cái bánh mà hai người thanh niên đang ăn
dở… Bị bắt giữ sau đó, Harris đã không để lộ bất cứ một dấu hiệu nào của ăn năn
sám hối…
Theo thủ tục hiện
hành của Hoa Kỳ, từ lúc tuyên án cho đến lúc thi hành bản án, người tử tội thường
được bảy năm để kháng cáo hoặc xin ân xá. Robert Alton Harris vẫn chưa để lộ bất
cứ một dấu hiệu nào của sợ sệt hoặc hối cải… Anh đã được dẫn vào phòng đầy hơi
ngạt Cyanide. Chỉ trong vài phút đồng hồ, anh đã chết bằng đúng cái chết mà dường
như anh đã tự chọn và chuẩn bị cho mình.
Công lý và luật pháp của
con người được xây dựng trên nguyên tắc: mắt đền mắt răng thế răng, hoặc tôi
cho anh để tôi cho lại… Kẻ có tội luôn luôn phải bị trừng trị, nặng hay nhẹ tùy
theo tội ác của người đó đã gây ra… Thiên Chúa dường như chỉ có một công lý: đó
là công lý của Tình Thương. Thước đo duy nhất của Công Lý nơi Thiên Chúa chính
là Tình Thương vô bờ bến. Nói như thánh Phaolô, nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi
đó Thiên Chúa càng thi ân. Tội lỗi của con người, dù tày đình đến đâu, cũng
không thể ngăn cản được Tình Thương, sự Tha Thứ của Thiên Chúa.
Ðó phải là niềm xác
tín của chúng ta mỗi khi chúng ta nhìn thấy tội lỗi và suy niệm về Tình Yêu của
Thiên Chúa. Nếu có ai chết đời đời trong hỏa ngục, điều đó không phải do sự
Công Thẳng của Thiên Chúa, cho bằng chính sự Khước Từ của con người. Khi con
người không còn tin ở Tình Yêu của Thiên Chúa, khi con người tự chọn cho mình
cái chết, đó chính là lúc con người tự chuẩn bị cho mình sự trầm luân. Hỏa ngục
đồng nghĩa với quay mặt, với khước từ, với thất vọng… Chúng ta nhìn đến thân phận
tội lỗi của mình không phải để thất vọng về sự yếu hèn của chúng ta, mà chính
là để ngước nhìn lên ánh mắt từ nhân vô biên của Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina:
Máccô 16:9-15
Thứ Bảy 27 Tháng Tư,
2019
Thứ Bảy trong Tuần
Bát Nhật Phục Sinh
1. Lời nguyện mở
đầu
Lạy Chúa và là Cha của
chúng con,
Chúa Giêsu, Con Chúa,
đã sống giữa chúng con,
Xác thịt như xác thịt
chúng con, máu như máu chúng con.
Người đã chết vì chúng
con
Và Chúa đã cho Người sống
lại.
Nguyện xin cho chúng
con cảm nghiệm được tình yêu và sự hiện diện của Người
Đến mức mà chúng con
không bao giờ có thể ngừng loan báo
Và mọi người có thể
tôn vinh danh Chúa, Chúa chúng con.
Chúng con cầu xin nhờ
Chúa Giêsu Kitô.
2. Bài Đọc Tin Mừng
– Máccô 16:9-15
Khi Chúa Giêsu sống lại,
sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, thì trước hết Người hiện ra với Maria
Mađalêna, kẻ đã được Chúa đuổi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ từng ở
với Người và nay đang buồn thảm khóc lóc. Họ nghe bà nói Chúa sống lại và
bà đã thấy Người, nhưng họ không tin.
Sau đó, Chúa lại hiện
ra dưới hình thức khác với hai môn đệ đang trên đường về miền quê. Hai
ông trở về báo tin cho anh em, nhưng họ cũng không tin các ông ấy.
Sau hết, Chúa hiện ra
với Mười Một tông đồ lúc đang ngồi ăn. Chúa khiển trách các ông đã cứng
lòng, vì các ông không tin những kẻ đã thấy Người sống lại. Rồi Người
phán: “Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn
loài”.
3. Suy Niệm
– Bài Tin Mừng hôm nay là một phần của đoạn văn rộng
lớn hơn (Mc 16:9-20) đặt chúng ta trước một danh sách hay một bản tóm tắt các
cuộc hiện ra khác nhau của Chúa Giêsu: (a) Chúa Giêsu hiện ra với bà
Maria Mađalêna, nhưng các môn đệ đã không chấp nhận lời chứng của bà (Mc
16:9-11); (b) Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ, nhưng các người khác không chấp
nhận lời chứng của họ (Mc 16:12-13); (c) Chúa Giêsu hiện ra với nhóm Mười Một,
Chúa khiển trách việc cứng lòng của các ông và truyền cho các ông đi loan báo Tin
Mừng cho muôn dân (Mc 16:14-18); (d) Chúa lên Trời và tiếp tục cộng tác với các
môn đệ (Mc 16:19-20).
– Bên cạnh danh sách các lần hiện ra này trong Tin Mừng
của Máccô, còn có các danh sách khác về những lần Chúa hiện ra nhưng không phải
lúc nào cũng luôn ăn khớp với nhau. Lấy ví dụ, danh sách được lưu giữ bởi
thánh Phaolô trong Thư gửi các tín hữu Côrintô thì rất khác biệt (1Cr
15:3-8). Việc khác nhau này cho thấy rằng lúc đầu các Kitô hữu tiên khởi
đã không lo lắng chứng minh sự Phục Sinh của Chúa bằng cách nói về các lần hiện
ra. Đối với họ, niềm tin vào Chúa Phục Sinh đã quá rõ ràng và sống động đến
nỗi mà người ta không cần phải chứng minh điều đó. Một người phơi nắng
trên bờ biển thì không cần lo chứng minh rằng mặt trời hiện hữu, bởi vì chính bản
thân người ấy, bị rám nắng, đã là một bằng chứng hiển nhiên về sự hiện hữu của
mặt trời. Các cộng đoàn, hiện hữu trong một đế quốc to lớn, là một bằng
chứng sống của sự Phục Sinh. Danh sách các lần hiện ra đã bắt đầu xuất hiện
sau đó, trong thế hệ thứ hai để bác bỏ những lời chỉ trích của kẻ thù.
– Mc 16:9-11: Chúa Giêsu hiện ra với
bà Maria Mađalêna, nhưng các môn đệ không tin lời bà. Chúa Giêsu hiện
ra lần đầu tiên với bà Maria Mađalêna. Bà đi báo tin này với những người
khác. Để đến thế gian, Thiên Chúa đã muốn dùng cung lòng của một thiếu nữ
độ 15 hay 16 tuổi, tên là Maria thành Nagiarét (Lc 1:38). Để được công nhận
là còn sống ở giữa chúng ta, Người muốn dùng lời loan báo của người phụ nữ đã
được giải thoát khỏi bảy quỷ, còn được gọi là Maria thành Mađalêna! (Đây
là lý do tại sao bà có tên là Maria Mađalêna). Nhưng các môn đệ đã không
tin bà. Thánh Máccô nói rằng Chúa Giêsu đã hiện ra lần đầu tiên với bà
Maria Mađalêna. Trong danh sách các lần hiện ra, được lưu truyền trong
thư gửi tín hữu Côrintô (1Cr 15:3-8), các lần hiện ra của Chúa Giêsu với những
người phụ nữ đã không được đề cập đến. Các Kitô hữu tiên khởi đã gặp khó
khăn lúng túng để tin vào lời chứng của người phụ nữ. Đó là điều tội lỗi!
– Mc 16:12-13: Chúa Giêsu hiện ra với
hai môn đệ đang trên đường về miền quê, nhưng những môn đệ khác cũng không tin
họ. Không đi vào quá nhiều chi tiết, thánh Máccô đề cập đến lần hiện
ra của Chúa Giêsu với hai môn đệ, “đang trên đường về miền quê”. Có lẽ
đây là một lời tóm tắt về lần hiện ra của Chúa Giêsu với các môn đệ trên đường
đi Emmau, được thuật lại bởi thánh Luca (Lc 24:13-25). Máccô nhấn mạnh
khi nói rằng “những môn đệ khác cũng không tin các ông ấy”.
– Mc 16:14-15: Chúa Giêsu khiển trách
các ông đã cứng lòng và Người truyền cho các ông đi loan báo Tin Mừng cho mọi tạo
vật. Vì lý do này, Chúa Giêsu hiện ra với nhóm Mười Một môn đệ và khiển
trách các ông bởi vì họ đã không tin lời của những kẻ đã thấy Người sống lại.
Lần nữa, Máccô đề cập đến việc cứng lòng của các môn đệ trong việc tin vào lời
chứng của những kẻ đã có kinh qua với sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Tại
sao vậy? Có lẽ để giáo huấn ba điều. Trước nhất, đức tin vào Chúa
Giêsu thì đi qua lòng tin tưởng vào những người làm chứng. Thứ hai, không
ai phải nản lòng, khi mà có sự nghi ngại hoặc không tin tưởng dấy lên trong
lòng. Thứ ba, để bác bỏ lời chỉ trích của những kẻ nói rằng người Kitô hữu
thì ngây thơ và cả tin với bất kỳ điều gì, bởi vì nhóm Mười Một môn đệ đã rất
khó khăn để chấp nhận sự thật về Chúa Phục Sinh!
– Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc với lời sai
đi: “Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài!”
Chúa Giêsu trao cho các môn đệ sứ vụ đi loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật.
4. Một vài câu hỏi
gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
– Bà Maria Mađalêna, hai môn đệ trên đường Emmau và
nhóm Mười Một môn đệ: Ai là kẻ có khó khăn nhất để tin vào sự Phục
Sinh? Tại sao? Tôi nhận thấy mình giống như ai trong các người ấy?
– Những dấu chỉ để có thể thuyết phục người ta rằng
có sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa chúng ta là gì?
5. Lời nguyện kết
Nguyện Chúa Trời dủ
thương và chúc phúc,
xin tỏa ánh tôn nhan rạng
ngời trên chúng con,
cho cả hoàn cầu biết
đường lối Chúa,
và muôn nước biết ơn cứu
độ của Ngài
(Tv 67:1-2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét