05/05/2019
Chúa Nhật 3 PHỤC SINH năm C
(phần II)
Phụng
Vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 3 Phục Sinh năm C
(Cv 5,27b-32.40b-41; Kh 5,11-14; Ga 21,
1-19)
CHỨNG NHÂN TÌNH YÊU
“Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan
bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu”
(Cv 5,41)
CHỨNG NHÂN TÌNH YÊU
“Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan
bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu”
(Cv 5,41)
Biến
cố Đức Giêsu Phục sinh đã làm thay đổi cuộc sống của các Tông Đồ. Nếu trước kia
các vị sống hời hợt và run sợ thì nay lại nhiệt tình và mạnh dạn ra đi loan
truyền những gì đã nghe và làm chứng những gì đã thấy từ Đức Giêsu. Ngay cả bắt
bớ, tù đày, cái chết cũng không thể lay chuyển niềm tin và làm lung lạc sứ vụ của
các Tông Đồ. Giờ đây họ là những chứng nhân cho tình yêu của Đức Giêsu và cho
niềm hy vọng phục sinh.
I.
LỜI CHÚA
1.
BÀI ĐỌC I (Cv
5,27b-32.40b-41)
Cộng
đoàn Kitô giáo tiên khởi đang bị bách hại. Tông Đồ cả Phêrô và các Tông Đồ bị bắt
và bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, bởi vì các ông rao giảng và dấn thân làm
chứng về Đức Giêsu, người Nadarét, là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, đã chết mà nay
đã sống lại. Vì có nhiều người tin theo, nên các vị thượng tế ngăn cấm: “Chúng
tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông
đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn máu người ấy đổ
trên đầu chúng tôi”. Dù vậy, các Tông Đồ đã không tỏ chút sợ hãi gì trước những
lời cấm đoán và bắt bớ. Ngược lại các ông càng mạnh dạn làm chứng về Đức Giêsu
Kitô: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. Đức Giêsu đã bị các
ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của chúng ta đã làm cho Người
trỗi dậy... Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần,
Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người”.
Không
ai có thể bắt các Tông Đồ im lặng trước biến cố phục sinh vinh hiển của Đức
Giêsu, Đấng mà chính họ đã theo, ở với, cùng chia sẻ cuộc sống, và họ đã gặp lại
Người sau phục sinh. Các Tông Đồ đã biểu lộ niềm tin và tình yêu dành cho Đức
Giêsu bằng việc vui vẻ chấp nhận mọi đau khổ vì Người: “Các Tông Đồ ra khỏi Thượng
Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức
Giêsu”.
2.
BÀI ĐỌC II (Kh
5,11-14)
Bài đọc
trích sách Khải Huyền hôm nay nói về Con Chiên Vô Tì Tích là chính Chúa Giêsu
Kitô. Cần lưu ý: trong Kinh Thánh, danh từ “cừu/ πρόβατον” (sheep) được sử dụng
để ám chỉ “các tín hữu” nói chung (vd: Tv 78,52; 79,13; Ga 10,11.15; 21,16.17);
còn danh từ “chiên/ ἀρνίον” (lamb) chỉ một lần được áp dụng cho các Kitô hữu
(Ga 21,15), còn tất cả 28 lần còn lại được tìm thấy trong sách Khải Huyền là tước
hiệu ám chỉ về Đức Giêsu Kitô được tôn vinh (và thêm một lần ở Kh 13,11: Con
Thú,…có hai sừng giống như một con chiên).
Đức
Giêsu là Con Chiên đã chấp nhận trở nên của lễ dâng lên cho Thiên Chúa qua việc
hiến dâng cả mạng sống để cứu chuộc nhân loại. Sau đó, Người đã sống lại hiển
vinh và xứng đáng lãnh nhận mọi uy quyền, vinh quang trên toàn thể vũ trụ. “Con
Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức
mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc”.
Việc
đám đông thuộc mọi thành phần tung hô, cùng với bốn Sinh Vật thưa “Amen” và các
Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy Con Chiên là Đức Giêsu gợi lên sự liên tưởng đến
việc tôn kính dành cho các hoàng đế Rôma thời đó. Lúc này, đám đông dâng những
lời và thực hiện hành vi tôn kính này lên Thiên Chúa và Con Chiên thay cho các
hoàng đế Rôma. Điều này phản ánh viễn tượng của Gioan về cuộc xung đột giữa quyền
lực của Thiên Chúa với quyền lực của Xêda, là thế lực đang bách hại Kitô giáo.
Cuối cùng, vương quyền của Thiên Chúa sẽ chiến thắng qua cuộc phục sinh và tôn
vinh của Đức Giêsu. Tất cả vũ trụ đều ca ngợi Đức Giêsu, vì chính hiến tế của Đức
Giêsu trên thập giá đã thay đổi tình trạng của con người và vũ trụ, khi Người
giải thoát con người và thế giới khỏi quyền lực của ma quỷ, tội lỗi và thế lực
sự dữ.
3.
BÀI TIN MỪNG (Ga
21,1-19)
Bối cảnh
của bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Đức Giêsu Phục Sinh tỏ mình ra với các
Tông Đồ trong hoàn cảnh sinh hoạt thường ngày của họ. Các ông đi đánh cá suốt
đêm ở hồ Galilê, nhưng chẳng bắt được gì. Khi trời hừng sáng, Đức Giêsu đứng
trên bờ biển, nhưng các Tông Đồ không nhận ra Người. Đức Giêsu ra lệnh cho các
ông thả lưới và họ đã có một mẻ cá đầy. Đây là dấu lạ đầu tiên để tỏ lộ quyền
năng và vinh quang của Đức Giêsu kể từ khi Người sống lại. Thiên Chúa
cũng tỏ lộ vinh quang của Người trong điều kiện và hoàn cảnh bình thường của đời
sống thường ngày của chúng ta. Vấn đề quan trọng là chúng ta hãy biết mau mắn lắng
nghe lệnh truyền của Thiên Chúa, có đọc được dấu lạ để nhận ra Đức Giêsu Kitô
phục sinh đang hiện diện bên chúng ta trong cuộc sống hằng ngày hay không.
Có một
điểm đặc biệt trong đoạn Tin Mừng hôm nay, đó là trong lúc Đức Giêsu đang dùng
bữa với các Tông Đồ, Người đã hỏi Phêrô ba lần: “Này Simôn, con Gioan, anh có
yêu mến Thầy không?” (các động từ diễn tả cắc sác thái khác nhau của tình yêu).
Sau khi Phêrô đáp trả ba lần rằng ông thương mến Người, Đức Giêsu trao sứ vụ
chăn dắt đàn chiên cho Phêrô, dù trước kia ông đã chối Chúa ba lần. Tình yêu hiện
tại phủ lấp mọi lỗi lầm quá khứ. Điều mà Đức Giêsu mong đợi nơi các Tông Đồ đó
là tình yêu dành cho Người. Nếu có tình yêu này thì các Tông Đồ mới xứng đáng
lãnh nhận sứ vụ coi sóc đàn chiên, và chỉ nhờ tình yêu thì các ông mới vượt qua
được các khó khăn thử thách mà chu toàn sứ vụ. Không thể nào chăn dắt đàn chiên
bằng quyền lực, nhưng chỉ có tình yêu mới thúc đẩy các tông đồ dấn thân phục vụ
đoàn chiên, mới mang được mùi chiên vào mình.
II.
GỢI Ý MỤC VỤ
1.
“Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng
chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu”. Các Tông Đồ đã xem những đau khổ họ chịu vì danh Đức Giêsu
là niềm vinh dự lớn lao, nên họ đã xác tín và dấn thân cho việc rao giảng về Đức
Giêsu phục sinh. Tôi có can đảm và hăng say loan báo Đức Giêsu cho người khác?
Đời sống của tôi có là lời chứng về Đức Giêsu Phục sinh? Trong cuộc sống thường
nhật, giữa bao cám dỗ của tiền tài và danh vọng, giữa bao áp lực của xã hội và
người đời, tôi có dám sống theo các đòi hỏi của Tin Mừng, tôi có dám vâng lời
Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm?
2.
“Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan
cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc”. Đức Giêsu lãnh nhận tất cả mọi
vinh quang và danh dự, do hiến tế của Người trên thập giá vì yêu chúng ta. Tôi
có yêu mến và cảm nghiệm tình yêu của Đức Giêsu? Tôi có biết kết hiệp những vui
buồn của đời sống tôi với những đau khổ của Đức Giêsu để được hưởng vinh quang
với Người? Tôi có tôn kính Đức Giêsu, Con Chiên đã bị giết vì tôi, hơn mọi quyền
lực của thế gian?
3.
“Này Simôn, con Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” Đây cũng là câu hỏi mà Đức Giêsu
dành cho tôi: Con có yêu mến Thầy không? Tôi phải thể hiện lòng yêu mến Đức
Giêsu như thế nào trong đời sống? Đức Giêsu luôn yêu thương tôi và trên thập
giá, Người đã thốt lên: “Ta khát”. Tôi có nhận ra Người vẫn khát khao tình yêu
của tôi đối với Người và đối với anh chị em xung quanh? Tôi có động lòng trắc ẩn
trước những nổi khổ đau của người bất hạnh, trái tim tôi có rung cảm để thúc đẩy
đôi tay hành động một điều gì đó cụ thể trước những khó khăn của người nghèo
đang sống quanh tôi?
3.
Trước nhiều đau khổ của thời đại chúng ta, xin Thiên Chúa của sự sống đừng để
chúng ta thờ ơ và lạnh lùng. Xin Người làm cho chúng ta trở nên những người xây
những cây cầu, chứ không phải những bức tường. Đó huấn dụ của Đức Giáo Hoàng
Phanxicô trong Sứ điệp Phục Sinh 2019. Lãnh nhận ơn Phục sinh, chúng ta có nỗ lực
trở thành những cầu nối giữa Thiên Chúa và con người và giữa tha nhân với nhau?
Hay vô tình trở thành những bức tường ngăn cản mọi tương quan?
III.
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ
tế: Anh chị em
thân mến! Đức Kitô phục sinh luôn hiện diện và nâng đỡ con người trên hành
trình đức tin. Không có Chúa chúng ta không thể làm được gì, ngay cả làm chứng
cho Người. Tin tưởng vào tình thương và sự trợ giúp hữu hiệu của Chúa, cộng
đoàn chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1.
Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy.”
Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, các Giám mục và các Linh
mục là những người được Chúa trao trọng trách chăm sóc đoàn chiên Chúa; xin cho
các ngài được hồn an xác mạnh, luôn vững tay lèo lái con thuyền Hội Thánh giữa
những phong ba thử thách.
2.
“Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần.” Chúng ta cùng cầu
nguyện cho công cuộc truyền giáo tại nhiều nơi trên thế giới đang gặp khó khăn
và bách hại; xin Chúa luôn nâng đỡ các nhà truyền giáo để họ thêm tin tưởng và
trung thành trong sứ vụ, không ngừng trở nên công cụ tích cực và hữu hiệu của
Chúa Thánh Thần.
3.
Các Tông Ðồ ngày xưa đã hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức
Giêsu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các Kitô hữu đang gặp khó khăn thử thách
trong đời sống đức tin; xin cho họ tìm được nguồn an ủi nơi Chúa Kitô phục
sinh, luôn giữ vững đức tin, và biết sẵn lòng đón nhận mọi khổ cực vì Danh
Chúa.
4.
Thánh Phêrô thưa với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Chúng ta
cùng cầu nguyện cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta ngày càng thêm lòng yêu
mến Chúa, biết tuyên xưng và sống niềm tin vào Đấng Phục Sinh qua thái độ khiêm
tốn yêu thương và chân thành phục vụ đối với mọi người chung quanh.
Chủ
tế: Lạy Chúa Kitô,
Đấng Phục Sinh vinh hiển, Chúa biết rõ chúng con yếu đuối và tội lỗi. Xin Chúa
thương nhận lời chúng con cầu nguyện và ban ơn nâng đỡ, giúp chúng con luôn
hăng hái và can đảm làm chứng cho Chúa giữa thế giới hôm nay. Chúa hằng sống và
hiển trị muôn đời.
SCĐ CHÚA NHỰT III PHỤC SINH C
“Khi
trời đã sáng, Chúa Giêsu đứng trên bãi biển”
(Ga
21,7)
I. DẪN
VÀO THÁNH LỄ
Anh
chị em thân mến
Bài
Tin Mừng hôm nay kể chuyện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ trên Biển
Hồ. Chúa chỉ cho các môn đệ bắt được nhiều cá, Chúa còn nướng cá và bánh cho
các ông ăn. Khung cảnh thật ấm cúng.
Khung
cảnh Thánh lễ cũng ấm cúng như vậy : chúng ta đang ngồi quanh bàn tiệc của
Chúa. Chính Chúa dọn tiệc cho chúng ta và đang ở giữa chúng ta.
Xin
cho bữa tiệc thánh này giúp chúng ta tin Chúa vững vàng hơn và yêu mến Ngài nồng
nàn hơn.
II. GỢI
Ý SÁM HỐI
– Rất
nhiều lần chúng ta dự Thánh lễ mà không ý thức sự hiện diện thân mật gần gũi của
Chúa.
– Rất
nhiều lần chúng ta rước lễ mà không ý thức mình đang hưởng dùng lương thực do
chính Chúa dọn cho chúng ta.
– Rất
nhiều lần chúng ta họp nhau trong Thánh lễ mà không chút tâm tình liên kết với
những anh chị em cùng dự tiệc thánh với mình.
III. LỜI
CHÚA
- Bài đọc I(Cv 5,27b-32.40b-41)
Trích
đoạn này từ sách Công vụ nhấn mạnh đến Danh Chúa Giêsu phục sinh :
– Vì
rao giảng Danh Chúa Giêsu nên các tông đồ bị Thượng Hội Đồng do thái bắt.
– Dù
vậy, ngay giữa Thượng Hội Đồng, các ông lại rao giảng Danh Chúa Giêsu.
– Sau
khi được thả ra, các ông sung sướng vì đã có dịp chịu khổ vì Danh Chúa Giêsu,
và tiếp tục rao giảng Danh Ngài.
2.
Tin
Mừng(Ga 21,1-9)
Phần
cuối của Tin Mừng Gioan (có lẽ không do Gioan viết, mà do các đồ đệ của Gioan),
tường thuật cuộc hiện ra cho các tông đồ trên biển hồ Tibêria :
–
Theo gợi ý của Phêrô, người số tông đồ khác trở lại nghề cũ là đi đánh cá.
– Khi
đó xảy ra lại một tình huống giống y lần đầu tiên Phêrô gặp Chúa Giêsu và được
Ngài gọi : các ông không đánh được cá, nhưng nhờ Chúa Giêsu nên sau đó
đánh được rất nhiều cá (x. Lc 5,4-11)
– Các
tông đồ nhận ra Chúa Giêsu : đầu tiên là Gioan, kế đến là các ông khác.
– Bữa
ăn thân mật bên bờ hồ sau khi Thầy trò nhận ra nhau.
3.
Bài
đọc II(Kh 5,11-14)
Trong
một thị kiến, Thánh Gioan nhìn thấy Chúa Giêsu trong hình dáng của Con
Chiên :
– Con
Chiên đã bị giết, nhưng đã sống lại và xứng đáng được hưởng mọi quyền lực và
vinh quang.
– Tất
cả các thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất và ngoài biển khơi đều tôn
thờ và tung hô Con Chiên.
IV. GỢI
Ý GIẢNG
- Sức khám phá của
tình yêu
Một
giọt nước nếu nhìn bằng mắt thường thì cũng chỉ là một giọt nước, nhưng nếu
nhìn bằng kính hiển vi thì lại là cả một thế giới sống động. Một cái hồ nếu được
nhìn bởi một người nông dân thì cũng chỉ là một cái hồ, nhưng dưới mắt của một
nghệ sĩ thì lại là cả một cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt vời không thể nào tả xiết.
Như
thế nghĩa là gì ? Nghĩa là cùng một sự việc nhưng có thể mang nhiều ý
nghĩa khác nhau tùy những cách nhìn khác nhau. Sự việc đã xảy ra trên hồ
Tibêria cũng thế : lúc ấy trời còn tờ mờ tối, Chúa Giêsu phục sinh hiện đến
với các tông đồ đang lúc các ông thả lưới đánh cá. Các ông tưởng là ma nên run
sợ và định chạy trốn. Riêng có Gioan là nhận ngay ra ấy là Thầy. Do đâu mà
Gioan đã nhận định sắc sảo được như thế ? Thưa vì Gioan là tông đồ yêu mến
Chúa nhiều nhất. Chính Tình yêu đã mở mắt cho Gioan và giúp Gioan thấy được cái
mà người khác không thấy. Người ta nói rằng Tình yêu là một năng lực diệu kỳ, làm
cho người ta mạnh thêm, có thêm nhiều nghị lực để vượt qua những chướng ngại,
chịu đựng những hy sinh và cuộc sống thêm lạc quan.
Điều
này thật ra rất bình thường chẳng có gì khó hiểu. Chúng ta thử điểm lại một số
kinh nghiệm trong cuộc sống của mình xem. Tại sao khi yêu, người ta thích tặng
quà cho nhau ? thích chở nhau đi chơi ? thích lặn lội mưa nắng đến
tìm nhau ? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa
cho người khác thì quả là dại ! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người
ta đi chơi thì quả là ngu ! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người
ta thì quả là khờ ! Phải không ? Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi
khác : Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một sự sung sướng, lặn
lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha !
Cho nên Thánh Augustinô đã nói rất đúng : “Ubi amatur, non
laboratur” : khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.
Đối với
Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là
việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình.
Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì đương nhiên ta thích cầu nguyện, thì đương nhiên
ta ham đến nhà thờ, đương nhiên ta sẵn sàng vác những thánh giá hy sinh Chúa gởi
đến hàng ngày. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến
chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít
hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng,
làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.
2.
Thủ
lãnh giáo hội
Câu
chuyện truyền kỳ về những ngày sau cùng của một con người đã hết lòng yêu mến
Chúa, và đã cảm nghiệm sâu xa ơn thứ tha của Người, được kể lại như sau :
Ông đến
Rôma giữa lúc Nêrông đang bắt bớ đạo thánh. Một số người đã chịu tử đạo. Tình
thế nguy kịch, nên các tín hữu khuyên ông hãy chạy trốn ra khỏi thành, để còn
người duy trì và giữ vững đạo thánh.
Khi
ra khỏi cổng, ông gặp một người đang vác thập giá đi vào thành Rôma. Ông lên tiếng
hỏi : “Quo vadis ?” nghĩa là “Người đi đâu
đó ?” Người ấy trả lời : “Thầy đi vào Rôma để cho
người ta đóng đinh một lần nữa”. Ông chợt hiểu, vội vàng quay lại
Rôma. Ông nhập vào hàng ngũ các tín hữu sắp chịu cực hình để an ủi họ và giúp họ
giữ vững niềm tin. Sau khi chứng kiến các tín hữu bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt,
bị hoả thiêu trên một rừng thập giá, thì chính ông cũng bị đóng đinh ngược, đầu
quay xuống đất, theo lời ông xin, vì nghĩ mình không xứng đáng được đóng đinh
như Thầy.
Con
người ấy chính là Phêrô, và cái chết ấy đã được Chúa Giêsu tiên báo trong bài
Tin Mừng hôm nay : “Thầy bảo thật cho anh biết : lúc còn trẻ, anh tự
mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giương
tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy,
có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa” (Ga 21,18-19).
Vâng,
Phêrô một con người rất bộc trực, nóng nảy, hay sa ngã và sa ngã thậm tệ. Có lần
Chúa đã gọi ông là Satan, và mới đây nhất, ông đã chối Chúa tới ba lần. Nhưng
con người đầy khuyết điểm ấy Chúa đã chọn làm “Đá tảng”, thủ lãnh của
Giáo Hội. Vai trò lãnh đạo của Phêrô được tỏ rõ trong bài Tin Mừng hôm
nay :
Sau
biến cố Phục Sinh, các tông đồ trở về đời sống thuyền chài. Phêrô vẫn là người
quyết định : “Tôi đi đánh cá đây”. Các môn đệ khác cũng đồng tình : “Chúng
tôi cùng đi với anh”. Đêm ấy, không bắt được con cá nào. Trời sáng,
theo lời người khách lạ, thả lưới bên phải mạn thuyền, một mẻ cá bất ngờ. Khi vừa
nghe Gioan nói : “Chúa đó !” Phêrô liền nhảy xuống
biển, đến với Người. Ông rất nồng nhiệt, năng nổ, hăng hái.
Sau
khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong, Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để
trao cho ông sứ vụ mới : “Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến
Thầy hơn các anh em nầy không ?”. Thật tình, ông rất ngượng ngùng
vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người lại hỏi ông có yêu mến Thầy
không ? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả là rất khó khăn ;
hơn nữa, Người lại hỏi tới ba lần ! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại lời Chúa nói
trước đây : “Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn” (x.
Lc 7,47). Vâng, Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn Ông từ
trên dinh thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.
Ba lần
chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng
lại niềm tin. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội : “Thưa Thầy có, Thầy biết
rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Và cũng ba lần, Người trao cho
ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người : “Hãy chăn dắt chiên của
Thầy” (Ga 21,17).
Từ đấy,
Phêrô đích thực trở nên thủ lãnh của Giáo hội, chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và
cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Phêrô đã chịu đóng đinh trên thập
giá, để giữ vững niềm tin cho đoàn chiên, và để yêu thương đoàn chiên cho đến
cùng, yêu “Như Thầy Đã Yêu”.
*
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đã tha thứ cho thánh Phêrô thật nhiều, và thánh nhân cũng đã
yêu mến Người thiết tha.
Xin
cho chúng con luôn cảm nghiệm được ơn tha thứ của Chúa, cảm nghiệm được tình
Chúa yêu thương, để như thánh Phêrô, chúng con sẽ đi bất cứ nơi nào Chúa muốn
đưa chúng con đi, cho dù nơi đó là thập giá, là cái chết thương đau.
Như
thánh Phêrô, xin cho chúng con xác tín rằng : Hiến thân vì Chúa là lãnh nhận,
nô lệ cho Chúa là tự do, và chết với Chúa là sống mãi muôn đời Amen. (TP)
3.
Tình
yêu và lý luận
Bài
Tin Mừng tuần trước thuật lại cách mà Tôma đã nhận ra Chúa Giêsu phục
sinh : Tôma đã tuyên bố “nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở bàn tay Người,
nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn
Người, thì tôi không tin”. Đây là kiểu tin bằng lý luận, nghĩa là chỉ tin khi
nào đã có đủ bằng cứng rõ ràng hiển nhiên. Còn bài Tin Mừng tuần này thuật lại
cách mà Gioan đã nhận ra Chúa : một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi
người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình.
và Tin Mừng ghi chú “Gioan là người môn đệ Chúa yêu”. Chính Tình Yêu đã mở mắt
cho Gioan nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra.
Như
thế có hai con đường dẫn tới đức tin : Con đường thứ nhất là bằng lý luận
để chỉ tin sau khi có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên ; và con đường thứ
hai là bằng tình yêu, nghĩa là vì yêu thương nên tin ngay không cần thắc mắc lý
luận.
Trong
vở tuồng “Tiếng hò Sông Hậu” có hai anh em sinh đôi tên Chơn và Chất, giống hệt
nhau từ nét mặt, tướng đi đến giọng nói. Trong một cuộc tranh đấu với địa chủ,
Chơn bị bắt đày đi Côn Đảo. Nhưng một thời gian sau anh vượt ngục trở về thăm mẹ
già khi ấy đã mù lòa cả hai mắt. Trong lúc Chơn đang ở nhà thì tên Hương Quản đến,
Chơn nhanh trí giả làm Chất nên không bị lộ, nhưng ngay sau khi tên Hương Quản
đi thì bà mẹ mù lòa ấy nói ngay : “Phải mày là thằng Chơn đó không ?”
Chơn chưa muốn cho mẹ biết nên trả lời “Không, con là thằng Chất đây mà, anh
Chơn con còn đang ngồi tù mà”. Nhưng bà mẹ nói “thôi mà, con gạt ai được chứ gạt
mẹ làm sao được, con chính là thằng Chơn của mẹ mà”. Chính tình yêu đã giúp cho
người mẹ mù lòa ấy nhận ra con mình trong khi mọi người đều không nhận ra. Trường
hợp của Thánh Gioan cũng vậy : trong khi mọi người đều không nhận ra Chúa
Giê-su thì chỉ mình Gioan đã nhận ra, vì Gioan yêu thương Chúa nhiều.
Có lẽ
vì thường nghe những luận điệu bôi bác niềm tin tôn giáo cho nên chúng ta bị ảnh
hưởng và cũng nghĩ rằng chỉ có con đường nhận thức bằng lý luận, với những bằng
chứng rõ ràng hiển nhiên là con đường độc nhất đúng. Nhưng chúng ta hãy bình tĩnh
suy nghĩ lại xem, trong cuộc sống có bao nhiêu điều chúng ta tin tưởng mà đủ bằng
chứng rõ ràng hiển nhiên đâu ? Rất ít, hầu hết những điều ta tin tưởng là
do người khác dạy lại, nói lại cho ta biết, và vì yêu thương những người đó mà
ta tin. Chẳng hạn những gì cha mẹ dạy ta khi ta còn nhỏ, những gì thầy cô dạy
ta khi ta còn học ở trường. Vốn liếng kiến thức của chúng ta hầu hết là từ hai
nguồn đó. Nhưng xét xem những điều ấy ta có được thấy tận mắt, sờ tận tay hay
không, hay là khi được dạy thì ta tin ngay, vì ta yêu thương cha mẹ, yêu thương
thầy cô mà tin vào lời nói của các đấng ấy. Cho nên xét cho cùng, chỉ trích những
người có đạo đã tin không có đủ bằng chứng mà chỉ vì yêu thương mà tin thì là lời
chỉ trích không đứng vững. Tác giả vở tuồng “Tiếng hò Sông Hậu” nói trên cũng
đâu phải là người có đạo, thế mà tác giả đã đề cao cách nhận thức rất cảm động
của một người mẹ nhận ngay ra con mình nhờ vào tình mẫu tử thiêng liêng. Nghĩa
là : ai cũng vậy, dù có đạo hay không có đạo, ai cũng có những nhận thức,
những niềm tin không hẳn dựa vào những lý luận hiển nhiên mà chỉ dựa vào tình
yêu.
Mà
xem ra con đường tình yêu lại nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn.
Khi các Tông đồ nói cho Tôma hay là Chúa Giê-su đã sống lại, Tôma đã không tin
ngay, ông đòi phải thấy tận mắt, sờ tận tay, thậm chí còn đòi thọc cả bàn tay
vào vết thương cạnh sườn Chúa. và rồi đang khi các Tông đồ kia vui mừng vì Thầy
đã sống lại thì Tôma vẫn còn hoài nghi, ray rứt. Đến 8 ngày sau khi Chúa Giê-su
hiện đến một lần nữa thì Tôma mới tin và mới được vui mừng như các ông kia. Còn
đối với Gioan, vì yêu Chúa nhiều, nên chỉ vừa thấy bóng dáng lờ mờ của Chúa là
Gioan đã nhận ra ngay và đã tin, một niềm tin rất nhanh chóng, rất nhẹ nhàng mà
cũng không kém phần vững chắc.
Các bạn
trẻ còn ở lứa tuổi hay thắc mắc về đức tin và cũng dễ bị lung lạc bởi những luận
điệu bài bác đức tin. Hôm nay, chúng ta đã thấy có hai con đường dẫn tới đức
tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ
hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh
chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy cũng cố đức tin
của mình bằng cả hai con đường đó. Nghĩa là một mặt chúng ta phải có những suy
nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến
Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ
được mở mắt rộng thêm để nhận biết thêm được những gì mà người không yêu Chúa
không nhận biết được, như thánh Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay vậy !
4.
Sự
hiện diện của Đấng phục sinh
Các
bài tường thuật về việc Chúa Giêsu phục sinh hiện ra muốn giúp cho chúng ta hiểu
biết về cách thức hiện diện của Ngài :
–
Chúa đã hiện ra lúc các môn đệ đang làm công việc thường ngày là chài lưới à Người
không ở đâu xa nhưng vẫn hiện diện bên cạnh chúng ta và trong những công việc
bình thường của chúng ta.
– Người
đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu là Gioan, vị tông đồ yêu mến Chúa đặc biệt à Tuy
Chúa Giêsu luôn hiện diện bên cạnh chúng ta, nhưng thường thì chúng ta không nhận
ra Ngài. Muốn nhận ra Ngài thì cần có lòng yêu mến, như Thánh Gioan tông đồ.
–
Chúa Giêsu đã nướng cá và bánh cho các môn đệ và sau đó cùng ngồi với họ quanh
bếp lửa hồng để ăn bánh và cá nướng à Chúa Giêsu phục sinh không chỉ
hiện diện bên cạnh chúng ta, mà còn chăm sóc chúng ta.
– Mặc
dù Thánh Phêrô đã 3 lần chối Chúa, nhưng Chúa tha thứ cho ông và vẫn trao cho
ông nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên của Ngài à Chúa hiện diện bên cạnh
chúng ta không phải để bắt lỗi chúng ta, mà để trao cho chúng ta sứ mạng làm chứng
về Ngài.
5.
Đừng
xóa sổ người ta
Một
nhà độc tài kia không chấp nhận thuộc cấp của mình phạm sai lầm. Hễ lỡ phạm sai
lầm, dù chỉ một lần, thì lập tức bị “xóa sổ”. Đôi khi chúng ta cũng cư xử như
thế, nghĩa là xoá sổ người khác. Thế nhưng ai trong chúng ta lại muốn bị phán
xét chỉ vì một lần lầm lỡ trong đời ?
Sau
khi Phêrô chối Thầy, lẽ ra Chúa Giêsu có thể xóa sổ ông vì tội yếu đuối, hèn
nhát. Nhưng Ngài đã không làm như vậy. Ngài không giáng cấp ông. Thậm chí Ngài
còn không nhắc lại lỗi lầm của ông. Việc Giuđa phản Thầy là một việc có dự mưu
và được thi hành một cách lạnh lùng theo đúng tính toán. Còn việc Phêrô chối Thầy
không phải là có dự mưu. Nó là hậu quả của tính yếu đuối chứ không phải do tính
xấu. Chúa Giêsu hiểu điều đó, bởi Ngài là kẻ thấu suốt lòng mọi người.
Sau bữa
ăn sáng, Chúa Giêsu quay nhìn Phêrô và hỏi : “Phêrô, con có mến Thầy hơn
những người khác không ?” Một câu hỏi lạ. Phải chăng Ngài còn chưa biết rằng
ông rất yêu mến Ngài ? Dù vậy Chúa Giêsu vẫn hỏi. Và Phêrô thưa :
“Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Phêrô đã nói thật, vì thực sự ông rất
yêu mến Chúa Giêsu.
Mặc
dù Phêrô có lỗi, nhưng Chúa Giêsu biết nơi ông cũng còn một phương diện khác, tốt
hơn. Mạnh mẽ và yếu đuối cùng tồn tại trong cùng một con người. Chúa Giêsu khuyến
khích Phêrô tiến lên. Ngài muốn ông bày tỏ công khai lòng yêu mến của ông đối với
Ngài, bởi vì trước đó ông đã công khai chối Ngài.
Chúa
Giêsu không ghi sổ tội của Phêrô, nhưng Ngài muốn ông làm một cái gì đó vì
Ngài : chăm sóc đàn chiên của Ngài, nghĩa là yêu thương và phục vụ anh chị
em trong cộng đoàn. Có thể coi đây là việc đền tội cũng được, vì đây là cách đền
tội tốt nhất, như sau này Phêrô viết : “Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi”
(1 Pr 4,8).
Tôi
dám chắc rằng Phêrô không bao giờ quên tội ông đã chối Thầy. Nhưng tôi không chắc
rằng tội đó ám ảnh ông như cách nhiều người khác bị tội lỗi họ ám ảnh. Từ lần
sa ngã ấy Phêrô đã học được một bài học lớn. Ông đã biết rằng ông không mạnh mẽ
như ông nghĩ. Học được một điều gì từ kinh nghiệm thì tốt hơn rất nhiều so với
học bằng lý thuyết. Điều chúng ta học được từ một lần sa ngã, mỗi khi nhớ lại sẽ
khơi lên trong lòng chúng ta sự biết ơn hơn là sự dằn vật cắn rứt.
Phêrô
còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng mặc dù ông
đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang
ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và
tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của
mình thì là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là
sửng sốt. Chính đó là ân sủng.
Phêrô
có cơ sở để đứng dậy sau khi sa ngã. Chúng ta có thể hình dung rằng Phêrô trở
thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về
sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ
và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu
đuối của người khác. Đọc sách Công vụ Tông đồ, chúng ta thấy Phêrô đứng vững
trước Thượng Hội Đồng để làm chứng cho Chúa Giêsu.
Chuyện
của Phêrô là một an ủi lớn cho chúng ta. Xét cho cùng, chúng ta đều là những
người tội lỗi, không kiên trì sống theo những điều chúng ta tin tưởng. Nhìn
gương thánh Phêrô, chúng ta phải học biết tha thứ cho chính mình vì những yếu
đuối và sa ngã nhất thời. Chúng ta không nên xét đoán bản thân mình hay xét
đoán người khác dựa trên những sa ngã nhất thời ấy, mà phải xét đoán dựa trên
cam kết sống suốt đời theo những điều mình tin tưởng. (FM)
6.
Ơn
gọi thứ hai
Ngày
xưa có một người làm nghề đốt lửa. Một buổi chiều mùa đông khi anh đang trên đường
về nhà thì trời đổ tuyết. Muốn tới nhà sớm, anh đi tắt qua một cánh đồng. Bỗng
anh thấy một nhúm lửa, một nhúm lửa nhỏ thôi, chỉ cháy âm ỉ nhờ một vài que củi
nhỏ. Quanh nhúm lửa ấy có một nhóm người vừa run lập cập vừa cố đứng sát nhúm lửa
ấy để sưởi ấm. Nhưng nào có thấm tháp vào đâu. Anh dừng lại, nói vài lời ngắn
ngủi với họ về giá trị của lửa, rồi vội vã đi tiếp.
Nhưng
mới đi được một chút thì anh cảm thấy hối hận. Lẽ ra anh phải nán lại lâu hơn để
giúp đám người ấy khơi to ngọn lửa. Nhưng mà nếu làm thế thì phải mất thêm giờ,
có thể bị viêm phổi nữa. Vả lại chắc gì người ta sẽ biết ơn anh. Những suy nghĩ
trái ngược nhau ấy khiến anh chần chừ. Nhưng sau cùng anh quay lại. Vừa thấy
anh, mọi người đều vui mừng reo lên : “Tới đây, tới đây”. Không chờ mời lần
thứ hai, người thợ đốt lửa ngồi xuống và khơi ngọn lửa to lên. Thế là mọi người
đều được sưởi ấm. Ai nấy đều đồng thanh “Xin cám ơn anh đã dừng lại giúp chúng
tôi”.
Về đến
nhà, người thợ nhóm lửa lên giường ngủ ngay. Đêm đó anh mơ thấy Chúa hiện ra
nói : “Ta đã chọn con làm người thợ nhóm lửa, nhưng con đã làm Ta thất vọng”.
Anh giật mình thức dậy và không tài nào ngủ tiếp. Anh nhớ lại thời gian đầu làm
nghề nhóm lửa anh đã coi việc đem lửa sưởi ấm cho mọi người là một nhiệm vụ cao
đẹp thế nào ; khi đó anh đã nhiệt tình giúp đỡ mọi người thế nào. Vậy mà với
năm tháng dần trôi, anh trở nên lười biếng, tính toán, sợ mất giờ, sợ người ta
không biết ơn anh. Tình yêu của anh đối với lửa đã lạnh nhạt. Ơn gọi của anh đã
đông cứng.
Nhưng
đêm nay Chúa đã hiện ra với anh. Ngài đã gọi anh lần thứ hai. Từ đó trở đi người
thợ nhóm lửa hăng say trong nhiệm vụ, không sợ mất giờ, không ngại cực khổ nữa.
Trong
Tin Mừng, có hai lần Chúa gọi Phêrô. Lần thứ nhất là lúc Chúa Giêsu mới bắt đầu
sứ vụ (Mc 1,16-18). Lần thứ hai là sau khi Ngài sống lại, và được ghi lại trong
bài Tin Mừng hôm nay. Hai lần cách nhau 3 năm. Trong 3 năm ấy, nhiều sự việc đã
xảy ra, Phêrô đã khám phá thêm nhiều điều về Đấng đã kêu gọi mình, về nhiệm vụ
mà Ngài muốn ông làm, và nhất là về chính bản thân của ông. Khi Chúa gọi Phêrô
lần thứ hai, ông đã khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn. Vì thế, tiếng “Vâng” thứ
hai của ông chín chắn và sáng suốt hơn nhiều so với tiếng “vâng” lần thứ nhất.
Câu
chuyện của Phêrô là chuyện kêu gọi – sa ngã – và kêu gọi lại. Ơn gọi không phải
là một lần Chúa gọi, một lần con người đáp trả, rồi xong. Tiếng Chúa gọi phải
được ta nghe nhiều lần và đáp trả nhiều lần. Mỗi ngày Chúa mở ra một đoạn đường
mời ta tiến bước, ngày hôm sau Chúa mở thêm một đoạn khác nữa. Ta càng bước
theo, tiếng gọi của Ngài càng rõ hơn và lời đáp trả của ta càng sâu xa hơn và
xác tín hơn.
Mọi
ơn gọi đều là ơn gọi yêu thương : yêu thương Chúa, và yêu thương những
chiên con chiên mẹ của Ngài, tức là yêu thương các anh chị em trong cộng đoàn của
ta. (FM)
7.
Chịu
khổ vì Chúa
Bài
trích sách Công vụ kể chuyện các tông đồ gặp sự chống đối của các nhà cầm quyền
do thái. Nhưng khi các ông được thả ra, thì uy tín của các ông tăng thêm, đặc
biệt là Phêrô. Thật khó mà tin được rằng cùng một con người ấy chỉ trước đó
không bao lâu đã từng chối Chúa 3 lần. Bây giờ ông đứng giữa quãng trường mạnh
dạn lớn tiếng làm chứng cho Chúa. Hơn nữa ông còn chịu khổ vì đã làm chứng như
thế. Phêrô cùng các bạn đã bị nhốt vào tù, bị đánh đòn. Nhưng các ông lại hãnh
diện vì đã chịu khổ vì Chúa. Bởi đâu Phêrô có lại sự can đảm như thế ?
Thưa bởi Chúa Thánh Thần, Đấng phù trợ các tông đồ.
Từ thời
các tông đồ trở đi, vẫn luôn có nhiều kitô hữu, nhờ ơn Chúa giúp, đã vượt thắng
sự sợ hãi để luôn can đảm làm chứng cho Chúa dù giữa muôn vàn khó khăn.
Rất dễ
tin Chúa khi bạn quỳ gối nhắm mắt cầu nguyện trong nhà thờ. Rất dễ tin Chúa khi
bạn sống an toàn xa cách những xáo trộn khó khăn. Nhưng tin Chúa như thế đó là
một thứ tín ngưỡng quá nghèo nàn. Chúa mà bạn tin trong những lúc như thế đó là
một Thiên Chúa bị giam hãm trong một cái khung chật hẹp.
Chúng
ta là môn đệ Chúa Giêsu. Ngài cần chúng ta làm chứng cho Ngài trong thế giới
hôm nay. Mặc dù chúng ta không phải chịu nhiều gian truân bắt bớ như các tông đồ
xưa, nhưng chúng ta phải can đảm được đầu với những loại khó khăn khác, đó là
đương đầu với sự xấu, đương đầu với khuynh hướng thờ ơ tôn giáo của nhiều người
thời nay.
Chúng
ta không thể biết trước ơn gọi làm kitô hữu sẽ dẫn chúng ta đi đến đâu và sẽ
đòi hỏi chúng ta những gì. Nếu chúng ta mà biết trước những nơi đó và những khó
khăn đó thì có lẽ chúng ta rất sợ hãi. Về điều này thì chúng ta giống như
Phêrô. Lần đầu tiên Chúa gọi ông thì ông chưa biết rốt cuộc ông sẽ chịu tử đạo.
Nhưng chúng ta hãy cố gắng sống như Phêrô. Chúa dẫn ta đi đâu thì ta đi đấy.
Chúa muốn ta chịu gì thì chúng ta chịu nấy. Và chúng ta tin tưởng rằng những
gian truân chúng ta phải chịu vì Chúa sẽ được thưởng gấp trăm. (FM)
V. LỜI
NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế :
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã chết và sống lại vinh quang, đem niềm vui
cho toàn thế giới. Chúng ta hãy hân hoan ca tụng Người và dâng lời cầu
xin :
- Đức Thánh Cha
(Gioan Phaolô II) kế vị thánh Phêrô / để củng cố niềm tin của Dân
Chúa trên khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa gìn giữ Người
luôn được bình an / và ban choi Người được sức khỏe dồi dào.
- Vâng lệnh Chúa
Giêsu / các tông đồ đã thu được một mẻ cá lạ lùng / Chúng ta hiệp
lời cầu xin cho hoạt động rao giảng Tin mừng của các nhà truyền
giáo / cũng đạt được những kết quả như lòng ước mong.
- Không có Thầy /
anh em không làm gì được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu
hiểu rằng / với ơn Chúa trợ giúp / họ sẽ đạt được những kết quả
bất ngờ.
- Hãy đi theo Thầy /
Chúa Giêsu mời gọi thánh Phêrô / nhưng cũng mời gọi hết thảy những ai
tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng
ta / luôn dấn thân theo Chúa / bất chấp mọi hiểm nguy gian khổ
trong đời sống thường ngày.
Chủ tế :
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cũng biết noi gương thánh Phêrô mà xác nhận
lòng thương mến của chúng con đối với Chúa, không phải bằng những lời nói suông
mà bằng những việc làm cụ thể trong đời sống đức tin thường ngày. Chúa hằng sống
và hiển trị muôn đời.
VI. Trong
Thánh Lễ
– Trước
kinh Lạy Cha : Chúa Giêsu đã giao trách nhiệm cho Phêrô chăm sóc đàn
chiên của Ngài là Giáo Hội. Giờ đây, chúng ta hãy hợp ý với Đức Giáo Hoàng và
các Giám mục cầu nguyện cho Nước Cha trị đến.
– Sau
kinh Lạy Cha : Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin
Cha ban thêm cho chúng con lòng can đảm và trung thành dù phải sống giữa những
thử thách khó khăn, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống
được bình an…
VII. Giải
tán
Chúa
đã tha thứ cho Phêrô và trao cho ông sứ mạng phục vụ anh chị em mình. Chúa cũng
đã tha thứ tội lỗi chúng ta và khuyến khích chúng ta phục vụ anh chị em chúng
ta.
Anh
chị em hãy ghi nhớ và thực hiện Lời Chúa. Chúc anh chị em ra về bình an.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio:
Chúa Nhật III Phục Sinh (C)
Chủ
Nhật 5 Tháng Năm, 2019
Tình
yêu mặc khải sự hiện hữu của Chúa
Lời
mời đến bàn tiệc Thánh Thể của Chúa Phục Sinh
Ga
21: 1-19
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy
Cha, xin hãy ban Thánh Thần Chúa xuống để cuộc sống vô ích tăm tối của chúng
con có thể được biến đổi thành bình minh rạng rỡ, để cho chúng con có thể
nhận biết được Chúa Giêsu, con Cha, đang hiện diện ở giữa chúng
con. Xin Thần Khí Chúa hãy thổi hơi vào những vùng biển của chúng
con, như Người đã làm lúc tạo dựng trời đất, để mở lòng trí chúng con hầu chúng
con có thể đáp lại lời mời gọi tình yêu của Chúa và để chúng con có thể chung
phần trong bữa tiệc Thánh Thể và Lời Chúa. Lạy Cha, nguyện xin Chúa
Thánh Thần hãy đốt cháy lửa yêu mến trong lòng chúng con, để chúng con có thể
trở thành những nhân chứng cho Chúa Giêsu, như các ông Phêrô, Gioan, và các môn
đệ khác, và để chúng con cũng có thể ra đi mỗi ngày mà trở thành những người
chài lưới cho vương quốc của Chúa. Amen.
8.
Lời
của Chúa
a)
Bài trích Tin Mừng của Chúa:
1 Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển
Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến, và công việc đã xảy ra như sau: 2 Simon
Phêrô, Tôma cũng gọi là Điđymô, Nátha-na-en quê tại Cana xứ Galilêa, các con
ông Giêbêđê và hai môn đệ nữa đang ở với nhau. 3Simon Phêrô bảo: “
Tôi
đi đánh cá đây”. Các ông khác nói rằng: “Chúng tôi cùng
đi với ông”. Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy,
các ông không bắt được con cá nào. 4 Lúc rạng đông, Chúa
Giêsu hiện đến trên bờ, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. 5 Người
liền hỏi: “Này các con, có gì ăn không?” Và họ đồng thanh đáp: “Thưa
không”. 6 Chúa Giêsu bảo: “Hãy thả lưới bên hữu
thuyền thì sẽ được”. Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới
lên, vì đầy cá. 7Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với
Phêrô: ‘Chính Chúa đó”. Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền
khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. 8 Các
môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu;
chỉ độ chừng một trăm thước.
9 Ngay khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa
than, trên để cá và bánh. 10 Chúa Giêsu bảo: “Các
con hãy mang cá mới bắt được lại đây”. 11 Simon Phêrô xuống
thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm
năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. 12 Chúa
Giêsu bảo rằng: “Các con hãy lại ăn”. Không ai trong đám
ngồi ăn dám hỏi: “Ông là ai?” Vì mọi người đã biết là Chúa. 13 Chúa
Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ, và Người cũng cho cá như thế. 14 Đây
là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi Người từ cõi chết sống
lại.
15 Vậy khi các ông đã điểm tâm xong, Chúa
Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy
hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy
biết con yêu mến Thầy.” Chúa Giêsu bảo ông: “Con hãy chăn
dắt các chiên con của Thầy.” 16 Người lại hỏi ông lần thứ
hai: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy
không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Người
bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy.” 17 Rồi
Người hỏi ông lần thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy
không?” Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ
ba: “Con có yêu mến Thầy không?” Ông
đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến
Thầy.” Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của
Thầy. 18 Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi
con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ
giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn
đến.” 19 Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để
làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy, đoạn Người bảo
ông: “Hãy theo Thầy.”
b) Bối
cảnh của bài Tin Mừng
Sau
khi đọc qua bài Tin Mừng này lần đầu, bấy giờ tôi cảm thấy phải cần hiểu rõ hơn
về bối cảnh của nó. Tôi cầm quyển Kinh Thánh lên và không để cho các
cảm tưởng nông cạn đầu tiên chi phối tôi. Tôi cố gắng tra cứu và lắng
nghe. Tôi mở sách Phúc Âm của thánh Gioan, chương 21, ngay vào phần
cuối của quyển Tin Mừng. Sự kết thúc của bất cứ điều gì thường có chứa
tất cả những gì đã xảy ra trước đó, tất cả mọi thứ đã được xây lên từng chút một. Câu
chuyện đánh cá ở trên biển Tibêria nhắc nhở tôi một cách mạnh mẽ và rõ ràng về
đoạn đầu của quyển Phúc Âm nơi Chúa Giêsu thu nhận các môn đệ đầu tiên, cũng là
những người đang hiện diện với Người bây giờ: Phêrô, Giacôbê, Gioan,
và Nát-tha-na-en! Bữa điểm tâm với Chúa Giêsu, có bánh và cá, nhắc
nhớ tôi chương 6 nơi việc hóa bánh và cá ra nhiều đã xảy ra, sự mặc khải của
Bánh Hằng Sống. Cuộc truyện trò thân mật và gần gũi giữa Chúa Giêsu
và Phêrô, với câu hỏi của Người được lặp lại ba lần: “Con có yêu mến
Thầy không?” nhắc nhớ lần nữa đến việc trong đêm trước ngày Chúa bị hành hình
Phêrô đã chối Chúa ba lần.
Tiếp
theo, nếu tôi lật trở lại chỉ ít trang của quyển Phúc Âm, tôi sẽ tìm thấy đoạn
Tin Mừng tuyệt vời nói về việc Phục Sinh: khi trời chưa sáng, bà
Mađalêna và những phụ nữ khác hấp tấp chạy ra mộ, để khám phá ra việc ngôi mộ
trống, rồi việc ông Phêrô và Gioan chạy vội vã ra mộ, việc các ông nhìn vào
trong mộ, việc suy niệm và đức tin của các ông; tôi vẫn có thể trông thấy mười
một người môn đệ trốn ở đằng sau các cánh cửa đóng kín trong Nhà Tiệc Ly và rồi
Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến, món quà của Chúa Thánh Thần; việc vắng mặt và sự
thiếu lòng tin của ông Tôma, một đức tin đã được khôi phục lại với sự hiện ra lần
thứ hai của Chúa Giêsu; tôi nghe thấy lời công bố tuyệt vời của các mối phúc thật
mà còn ứng dụng cho tất cả chúng ta đến ngày hôm nay, đó là phúc cho những ai
không thấy mà tin.
Sau
đó, tôi cũng đi đến vùng biển đó, vào một đêm mà không bắt được một con cá nào,
tay không. Nhưng đây này, giờ đây tôi được viếng thăm, được chấp nhận
với sự biểu hiện, sự mặc khải của Chúa Giêsu. Tôi cũng đang ở đó,
lúc ấy, nhận ra Người, nhảy ùm xuống biển và bơi về phía Người để chung phần
tham dự bữa tiệc. Tôi để Chúa nhìn sâu thẳm vào tâm hồn tôi với những
câu hỏi của Người, Lời của Chúa, để rồi một lần nữa Người có thể sẽ lặp lại với
tôi câu nói: “Hãy theo Ta!”, và tôi, cuối cùng cũng sẽ
nói: “Này con đây!” một cách trọn vẹn hơn, chân thật hơn, mạnh dạn
hơn và vĩnh viễn.
c) Phân
đoạnbài Tin Mừng:
Câu
1: Với động
từ “hiện đến”, ngay lập tức thánh Gioan thu hút sự chú ý của chúng ta đến
một sự việc lớn sắp diễn ra. Sức mạnh sự Phục Sinh của Chúa Giêsu vẫn
chưa ngừng xâm chiếm đời sống của các môn đệ và do đó của cả Giáo Hội. Đây
chỉ là vấn đề của công việc chuẩn bị chấp nhận ánh sáng, ơn cứu độ được ban cho
bởi Đức Kitô. Khi Người tự mặc khải như đã ghi trong văn bản này bây
giờ, Người cũng sẽ tiếp tục mặc khải mình trong cuộc sống của những kẻ tin vào
Người, cũng như trong cuộc sống của chúng ta.
Câu
2-3: Phêrô
và sáu môn đệ khác rời Nhà Tiệc Ly khóa kín và ra biển đánh cá, nhưng sau một
đêm làm việc cực nhọc, các ông chẳng bắt được gì. Đó là cảnh tối
tăm, cô đơn, sự bất lực của các cố gắng loài người.
Các
câu 4-8: Cuối
cùng bình minh cũng đến, ánh sáng trở lại và Chúa Giêsu xuất hiện đứng trên bờ
biển. Nhưng các môn đệ không nhận ra Người; các ông cần phải tham dự
vào một hành trình đi sâu thẳm vào tâm hồn. Sự khởi xướng bắt đầu từ
Chúa Giêsu, Đấng mà qua lời Người, giúp các ông nhận ra được nhu cầu và tình cảnh
của các ông: các ông không có gì để ăn. Rồi Người bảo các
ông hãy thả lưới lần nữa. Việc vâng Lời Người đã tạo ra phép lạ và
các ông đã bắt được đầy cá. Gioan, người môn đệ Chúa yêu, đã nhận ra
được Chúa và hét lớn lên đức tin của ông cho các môn đệ khác. Phêrô
đã tin và lập tức nhảy xuống nước để bơi thật nhanh về hướng của Chúa và Thầy
mình. Trong khi đó, các môn đệ khác kéo thuyền và lưới cá theo sau.
Các
câu 9-14: Quang
cảnh trên đất liền bây giờ đã thay đổi, nơi Chúa Giêsu đang đứng chờ các môn đệ. Ở
đây một bữa ăn đã xảy ra: Bánh của Chúa Giêsu hợp cùng với cá lưới
được của các môn đệ, sự sống của Người và quà tặng của Người trở nên một với sự
sống và quà tặng của các ông. Đó là quyền năng của Lời Chúa đã tạo
nên xương thịt và sự hiện hữu.
Các
câu 15-18: Giờ
đây Chúa Giêsu tâm tình trực tiếp với Phêrô; đó là giờ khắc của tình yêu mãnh
liệt mà tự tôi không thể nào tự tách rời được, bởi vì cùng những Lời đó của
Chúa cũng đã được viết và lặp lại với tôi, hôm nay. Đó là lời tuyên
bố chung về tình yêu đã được lặp lại ba lần, có khả năng khắc phục được tất cả
những lúc bất trung và yếu đuối. Kể từ bây giờ, một đời sống mới bắt
đầu cho Phêrô và cả cho tôi, nếu tôi muốn.
Câu
19: Câu cuối
của bài Phúc Âm quả là khá bất thường bởi vì nó là một lời dẫn giải của Thánh Sử
được tiếp ngay theo sau lời phán bảo mạnh mẽ và dứt khoát của Chúa Giêsu với
Phêrô: “”Hãy theo Thầy!” Câu nói mà không có một câu trả lời nào
khác hơn là chính bản thân cuộc sống.
3.
Giây phút cầu nguyện trong thinh lặng
Tại
đây, tôi xin tạm dừng một chút để gom lại trong tâm hồn tôi những Lời Chúa tôi
đã đọc và nghe. Tôi cố gắng làm như Mẹ Maria đã làm, người đã lắng
nghe Lời Chúa và suy gẫm những lời ấy, cân nhắc chúng và để cho Lời Chúa tự nói
lên ý nghĩa mà không cần diễn giải, thay đổi hay thêm thắt điều
gì. Trong thinh lặng, tôi tạm dừng một chút ở đoạn Phúc Âm này và ôn
lại ở trong lòng.
4.
Một vài câu hỏi gợi ý:
a) “Mọi người ra đi xuống thuyền”
(câu 3). Tôi đã sẵn sàng xuống thuyền để đi vào cuộc hành trình của
hoán cải chưa? Tôi có sẽ để cho mình được đánh thức bởi lời mời gọi
của Chúa Giêsu không? Hay là tôi sẽ ưa trốn mình sau các cánh cửa
khóa kín của tôi vì sợ hãi như các môn đệ trong phòng Tiệc Ly xưa
kia? Tôi có muốn ra đi, để đi theo Chúa Giêsu, và để cho Người hướng
dẫn tôi không? Có một chiếc thuyền đã sẵn sàng chờ tôi, có một ơn gọi
tình yêu được Chúa Giêsu trao cho tôi; đến bao giờ thì tôi sẽ có một quyết định
dứt khoát cho câu trả lời thật sự?
b) “Nhưng đêm ấy, các ông không bắt được
con cá nào” (cùng câu
3). Tôi có đủ can đảm để nghe Chúa nói với tôi rằng có sự trống vắng
trong lòng tôi, rằng đó là đêm tối, rằng tôi chỉ có hai bàn tay trắng
không? Tôi có đủ can đảm để thừa nhận rằng tôi cần đến Người, đến sự
hiện diện của Người không? Tôi có muốn mở lòng mình ra với Người, từ
tận thâm tâm tôi, rằng tôi không ngừng cố gắng từ chối, để trốn chạy
không? Người biết tất cả mọi sự, Người biết cả những sâu kín trong
lòng tôi; Người biết rằng tôi không có gì để ăn, nhưng phải chính tôi là người
nhận biết được điều này, để sau cùng tôi phải chạy đến cùng Người với hai bàn
tay không, thậm chí phải thổn thức, với một tâm hồn tràn ngập buồn rầu và đau
khổ. Nếu tôi không dùng phương cách này, sự sáng đích thực, bình
minh của đời tôi sẽ không bao giờ ló dạng.
c) “Hãy thả lưới bên hữu thuyền” (câu 6). Chúa cũng nói
với tôi một cách rõ ràng trong nhiều lúc, nhờ một người nào đó hoặc một lời cầu
nguyện chung hoặc lúc lời Chúa được đọc lên, là khi tôi hiểu một cách cặn kẽ
tôi phải làm những gì. Lời Chúa dạy rất rõ ràng; tôi chỉ cần phải lắng
nghe và tuân phục. “Hãy thả lưới bên hữu thuyền”, Chúa bảo tôi như vậy. Rồi
cuối cùng liệu tôi có đủ can đảm để tin tưởng vào Người, hay là tôi chỉ muốn tiếp
tục đi trên con đường tôi đang đi, theo ý mình không? Tôi có muốn đi
thả lưới cho Chúa không?
d) “Simon Phêrô … nhảy xuống biển” (câu 7). Tôi không chắc
rằng có một câu nào đẹp hơn câu Tin Mừng này. Phêrô nhảy ùm xuống biển,
giống như bà góa ở đền thờ đã bỏ vào giỏ tiền tất cả những gì bà có, giống như
người bị quỷ ám được chữa lành (Mc 5:6), giống như ông Giairô, giống như người
đàn bà bị bệnh hoại huyết, giống như người bị phong cùi, tất cả đều đã thủ phục
dưới chân Chúa Giêsu, trao gửi cuộc đời họ nơi Người. Hoặc giống như
Chúa Giêsu, chính Người cũng đã thủ phục dưới đất mà cầu nguyện cùng Đức Chúa
Cha (Mc 14:35). Bây giờ thì đến lượt tôi. Liệu tôi có muốn
dâng đời mình vào trong biển thương xót, của tình yêu Chúa Cha
không? Tôi có muốn quy phục cả cuộc đời tôi cho Chúa, tất cả thân
xác tôi, những đau khổ của tôi, những hy vọng, những ước mơ, những lỗi phạm, những
khao khát của tôi để bắt đầu lại không? Cánh tay của Chúa đã sẵn
sàng để chào đón tôi, thay vào đó, tôi biết chắc rằng chính Chúa sẽ dang tay ôm
choàng lấy tôi, như có lời đã chép rằng … “Trong khi người con còn ở đàng
xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy
cổ nó và hôn nó hồi lâu”.
e) “Các con hãy mang cá mới bắt được lại
đây” (câu
10). Chúa kêu gọi tôi đóng góp phần thực thẩm của mình với Người, cuộc
sống của tôi với Người. Trong khi Thánh Sử đang nói về cá, nhưng dường
như ông lại đang nói về người ta, những người mà Chúa muốn cứu rỗi qua các nỗ lực
thả lưới của tôi. Đó là lý do tại sao Người sai tôi đi. Tại
bàn tiệc của Người, Người kỳ vọng vào tôi, và tất cả các anh chị em là những
người vì tình yêu của Chúa, Người đã đặt để trong đời tôi. Tôi không
thể nào đến với Chúa Giêsu một mình. Sau đó, Ngôi Lời hỏi tôi rằng
tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để đến cùng Chúa chưa, để ngồi cùng bàn với Người, để
cử hành mầu nhiệm Thánh Thể với Người và hỏi tôi đã sẵn sàng để tận hiến cuộc đời
mình và năng lực của mình để tôi có thể đem đến cho Người cùng với tôi thật nhiều
những anh chị em khác. Tôi phải xét lại lòng mình một cách chân
thành và để thấy sự chối từ, sự lãnh đạm của tôi đối với Người và đối với những
người chung quanh.
f) “Con có yêu mến Thầy không?” (câu 15) Làm thế nào mà tôi
có thể trả lời được câu hỏi này? Làm thế nào mà tôi có thể xưng tụng
được tình yêu của tôi dành cho Thiên Chúa khi mà tất cả những bất trung, những
chối từ của tôi đang hiển hiện? Những gì đã xảy ra với ông Phêrô
cũng là một phần câu chuyện của tôi. Nhưng tôi không muốn nỗi lo sợ
này ngăn cản tôi và làm cho tôi thoái lui; không! Tôi đến với Chúa
Giêsu, tôi muốn ở lại cùng Người, tôi muốn lại gần Người và nói với Người rằng
tôi yêu Người. Tôi muốn mượn lời của Phêrô và biến thành lời của
tôi, tôi ghi khắc chúng vào trong tâm khảm, tôi lặp đi lặp lại những lời ấy,
tôi thổi hơi vào chúng và sự sống trong đời tôi, rồi tôi thu hết mọi can đảm và
nói với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự; Chúa biết con yêu mến
Chúa”. Giống như con người tôi, tôi yêu mến Người. Lạy
Chúa, con xin cảm tạ Chúa, vì Chúa đã gọi con để yêu thương và kỳ vọng nơi con,
Chúa cần con; xin cảm tạ Chúa vì Chúa vui với tình yêu đơn sơ của con.
g) “Hãy chăn dắt các con chiên của Thầy…
Hãy theo Thầy” (các câu 15, 19). Bài Tin Mừng đã được kết
thúc như vậy. Nó là một kết thúc mở và vẫn còn tiếp tục nói với
tôi. Đây là những Lời mà Chúa giao phó cho tôi để tôi có thể thực
hành nó trong cuộc đời tôi kể từ ngày hôm nay. Tôi muốn nhận lãnh sứ
vụ mà Chúa giao phó cho tôi; tôi muốn đáp trả lời mời gọi của Người và theo Người
đến bất cứ nơi nào Người dẫn dắt tôi, mỗi ngày và trong mọi việc dù nhỏ bé đến
đâu.
5.
Ý chính của bài đọc
Phêrô là người đầu tiên đưa ra ý kiến và
nói với các anh em về quyết định đi đánh cá của mình. Phêrô ra biển,
có nghĩa là, đến với thế gian, ông đã đến với các anh chị em mình vì ông biết rằng
ông là ngư phủ đi lưới cá người (Lc 5:10); cũng giống như Chúa Giêsu, Người đã
rời khỏi nhà Chúa Cha để đến và dựng lều của Người sống ở giữa chúng
ta. Phêrô cũng là người đầu tiên phản ứng với những lời của ông
Gioan là người đã nhận ra Chúa Giêsu trên bờ biển. Ông liền khoác áo
vào và nhảy xuống biển. Những hành động này với tôi có những sự ám
chỉ mạnh mẽ về bí tích rửa tội. Nó có vẻ giống như ông Phêrô muốn
chôn vùi hoàn toàn quá khứ của mình ở trong nước, giống như một người dự tòng
bước vào giếng rửa tội. Phêrô tự dấn thân vào dòng nước thanh tẩy
này, ông đã để cho mình được chữa lành: ông tự nhảy xuống nước, mang theo mình
những tự cao tự đại, những lỗi lầm, nặng nề của những lần chối Chúa, những giọt
nước mắt, để khi trồi lên từ mặt nước thì trở thành một con người mới để gặp gỡ
Chúa của ông. Trước khi nhảy xuống nước, Phêrô đã cột áo ngang lưng,
giống như Chúa Giêsu đã làm trước đó, khi Chúa thắt lưng để rửa chân cho các
môn đệ của Người tại bữa tiệc ly. Đó là thứ y phục của người tôi tớ, của người
quên chính bản thân vì anh chị em mình. Và đây cũng là thứ y phục để
che sự trần truồng của ông. Đó là loại y phục của Chúa, Đấng đã che
chở ông trong tình yêu và sự tha thứ của Người. Nhờ vào tình yêu
này, Phêrô sẽ có thể trổi lên từ mặt nước và bắt đầu lại lần nữa. Trong
một đoạn Tin Mừng khác cũng viết rằng Chúa Giêsu đã bước ra khỏi nước sau khi
chịu phép rửa; Thầy và môn đệ cùng chia sẻ một việc làm, cùng trải qua một kinh
nghiệm giống nhau. Phêrô bây giờ là một con người mới! Đó
là lý do tại sao ông có thể khẳng định ba lần rằng ông yêu mến
Chúa. Mặc dù việc chối Chúa ba lần của ông vẫn còn là vết thương
chưa lành, đó không phải là lời nói cuối cùng của ông. Điều mà Phêrô
cảm nghiệm được ở đây là sự tha thứ của Chúa và nhận ra rằng sự yếu đuối của
ông đã mặc khải cho ông đến nơi có một tình yêu to lớn hơn. Phêrô nhận
lãnh tình yêu, một tình yêu mà vượt xa hẳn sự phản bội và vấp ngã của ông, một
tình yêu dư tràn đã giúp ông có thể phục vụ anh chị em mình, để chăn dắt họ đến
những đồng cỏ xanh tươi của Chúa Giêsu. Không chỉ riêng điều này, mà
còn trong sự phục vụ của yêu thương, Phêrô sẽ trở thành một người Mục Tử nhân
lành, giống như Chúa Giêsu. Thật vậy, Phêrô cũng sẽ dâng hiến cuộc đời
của ông cho đoàn chiên mình, ông sẽ bị căng tay đóng đinh trên thập giá, như
chúng ta biết qua lịch sử. Ông đã bị đóng đinh ngược đầu xuống đất, ông sẽ bị lộn
ngược. Nhưng trong sự mầu nhiệm của tình yêu, ông sẽ từ đó thật sự đứng
thẳng lên và hoàn thành việc phép thanh tẩy đã bắt đầu từ lúc ông nhảy xuống biển
với chiếc áo buộc ngang người. Phêrô lúc đó trở thành con chiên đã
đi theo gót Đấng Chăn Chiên để nhận lãnh sự tử đạo.
6.
Giây phút cầu nguyện
Thánh
Vịnh 23 (22)
Linh hồn con khát khao Chúa.
Chúa
là mục tử chăn dắt con,
Con
chẳng thiếu thốn chi.
Trong
đồng cỏ xanh rì, Người cho con nằm nghỉ.
Người dẫn con tới dòng nước trong lành
Người dẫn con tới dòng nước trong lành
Để bổ
sức cho con.
Người
dẫn con trên đường ngay nẻo chính như theo danh dự của Người.
Lạy
Chúa, dù qua thung lũng âm u
Con
không lo sợ chi,
Vì có
Chúa ở cùng.
Côn
trượng Chúa bảo vệ con, con vững dạ yên tâm.
Chúa
dọn sẵn bữa tiệc cho con ngay trước mặt quân thù;
Đầu
con, Chúa xức đượm dầu thơm,
Ly rượu
con đầy tràn chan chứa.
Lòng
nhân hậu và tình yêu bền vững của Chúa ấp ủ con suốt cả cuộc đời.
Và
con được ở trong đền thánh Người hết trọn cả những năm tháng dài sắp tới.
6.
Lời nguyện kết
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa vì Lời Chúa đã giúp chúng con có thể hiểu
cặn kẽ hơn về thánh ý của Chúa Cha. Nguyện xin Chúa Thánh Thần soi
sáng chúng con trong các công việc chúng con làm và ban cho chúng con sức mạnh
để thực thi những điều Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con. Xin cho
chúng con, nên giống như Đức Mẹ Maria, mẹ Chúa, không những chỉ biết lắng nghe
mà còn thực hành Lời Chúa. Chúng con cầu xin điều này vì Chúa là đấng hằng sống,
hằng trị với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở
muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét