05/06/2019
Thứ Tư tuần 7 Phục Sinh
Thánh Bôniphát, giám mục, tử đạo.
Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh tại
Anh quốc quãng năm 673. Người nhập đan viện I-xơ-te và được Đức Giáo Hoàng
Ghê-gô-ri-ô II đổi tên Uyn-phơ-rít thành Bô-ni-pha-xi-ô.
Người là tông
đồ của nước Đức và là người tổ chức lại Hội Thánh nhiều miền. Sau khi được
Đức Giáo Hoàng tấn phong giám mục (năm 722), người rảo khắp nước Đức, thành lập
các giáo phận và các đan viện trong đó có đan viện Phun-đa. Người bị sát hại ở
Đốc-cum (Hà Lan) cùng với năm mươi hai đồng bạn năm 754.
Bài Ðọc I: Cv 20, 28-38
"Tôi xin ký thác các ông cho Thiên Chúa, Ðấng có
quyền năng kiến tạo và ban cho các ông được dự phần gia nghiệp".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô nói với các trưởng giáo đoàn Êphêxô rằng:
"Các ông hãy thận trọng, và săn sóc đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt các
ông làm giám quản điều khiển giáo đoàn của Chúa đã được Người cứu chuộc bằng
máu. Phần tôi, tôi biết rằng sau khi tôi đi rồi, sẽ có những sói dữ đột nhập giữa
các ông, chúng không dung tha đoàn chiên; và ngay giữa các ông sẽ có những kẻ
ăn nói xảo trá nổi dậy để lôi kéo các môn đồ theo họ. Vì thế, các ông hãy tỉnh
thức, và nhớ rằng trong ba năm trời, đêm ngày tôi không ngừng sa lệ mà khuyên bảo
từng người. Và bây giờ, tôi xin ký thác các ông cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng
của Người, Người là Ðấng có quyền năng kiến tạo và ban cho các ông được dự phần
gia nghiệp làm một với tất cả mọi người đã được thánh hoá. Tôi đã không ham muốn
bạc, vàng, hay y phục của ai hết, như chính các ông đã biết. Những đồ gì tôi và
những kẻ ở với tôi cần dùng, thì chính hai bàn tay này đã làm ra. Bằng mọi
cách, tôi đã chỉ bảo cho các ông rằng phải làm việc như vậy, để nâng đỡ những
người yếu đuối, và ghi nhớ lời Chúa Giêsu đã phán: "Cho thì có phúc hơn là
nhận"."
Nói xong, ngài quỳ xuống cầu nguyện với mọi người. Ai nấy đều khóc lớn
tiếng, và ôm cổ Phaolô mà hôn, họ đau buồn nhất là vì lời ngài vừa nói rằng họ
sẽ không còn thấy mặt ngài nữa. Rồi họ tiễn đưa ngài xuống tàu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 67, 29-30. 33-35a. 35b-36c
Ðáp: Chư quốc trần ai, hãy ca khen Thiên Chúa (c.
33a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, xin tỏ ra quyền năng của Chúa. Ôi Thiên Chúa,
xin củng cố sự việc Chúa đã làm cho chúng con! Vì thánh đài của Chúa ở
Giêrusalem, các vua sẽ tiến dâng Ngài lễ vật. - Ðáp.
2) Chư quốc trần ai, hãy ca khen Thiên Chúa, hãy xướng lên bài ca mừng
Chúa, mừng Ðấng ngự giá qua cõi trời, cõi trời ngàn thu! Kìa Ngài lên tiếng, tiếng
nói quyền năng: "Các ngươi hãy nhìn biết quyền năng Thiên Chúa". -
Ðáp.
3) Oai nghiêm Ngài chiếu giãi trên Israel, và quyền năng Ngài trên cõi
nước mây. Từ thánh điện của Ngài, Thiên Chúa đáng tôn sợ. Thiên Chúa của
Israel, chính Ngài ban cho dân Ngài được quyền năng và mãnh lực. - Ðáp.
Alleluia: Mt 28, 19 và 20
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các con hãy đi giảng dạy muôn
dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 17, 11b-19
"Ðể chúng được nên một như Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: "Lạy Cha chí
thánh, xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được
nên một như Ta. Khi Con còn ở với chúng, Con đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã
gìn giữ những kẻ Cha đã giao phó cho Con, không một ai trong chúng bị mất, trừ
ra con người hư vong, để lời Kinh Thánh được nên trọn. Bây giờ Con về cùng Cha,
và Con nói những điều này khi Con còn dưới thế, để chúng được đầy sự vui mừng của
Con trong lòng.
"Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng
không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Con không xin
Cha đem chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ. Chúng
không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin hãy thánh
hoá chúng trong chân lý: lời Cha là chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế
gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để
cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Thánh Trong Chân Lý
Khi đọc đoạn Phúc Âm trên, chúng ta thấy Chúa Giêsu cầu nguyện nhiều lần
và có lần như thánh Luca kể lại "Chúa Giêsu đã cầu nguyện suốt đêm".
Phúc âm đã kể lại một vài câu kinh ngắn mà Chúa Giêsu cầu nguyện, chỉ có lần
này thánh Gioan kể lại câu kinh rất dài và tỉ mỉ của Chúa Giêsu. Ðiều đặc biệt
hơn nữa là khi nói đến cầu nguyện, chúng ta nghĩ là mình cùng cầu nguyện với
Chúa Giêsu và cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha qua Chúa Giêsu. Còn ở đây, chính
Chúa Giêsu cầu nguyện và cầu nguyện vơí Chúa Cha cho chúng ta, cho các tông đồ
và những người theo Chúa sau này. Phải! Chúa Giêsu cầu nguyện cho các tông đồ
lúc bấy giờ, đồng thời Ngài còn cầu nguyện cho các môn đệ của Ngài trong tương
lai. Ngài cũng cầu nguyện cho chúng ta khi chúng ta nghe những lời dạy của các
tông đồ và các Ðấng kế vị các tông đồ và Ngài cũng cầu nguyện cho tất cả những
người theo đạo Chúa Giêsu. Người nói: "Con không chỉ cầu cho những người
này, nhưng còn cho những ai nhờ họ mà tin vào Con".
Tại sao Người cầu nguyện cho các Tông đồ? Vì Người sắp về cùng Cha Người,
các tông đồ còn ở lại, các ông đã được Ngài sống ở bên và gìn giữ. Bây giờ Người
ra đi, nhưng họ còn ở lại trên trần gian để tiếp tục sứ mệnh của Người. Người
lo cho họ là phải, vì Người nói rằng: "Bởi họ không thuộc về thế gian này
nên thế gian ghét họ" (Ga 15,18); các tông đồ còn phải bị bắt bớ, nhất là
Người e ngại họ phải sa ngã.
Vậy Người xin điều gì với Chúa Cha? Ðiều gì làm Ngài bận tâm hơn hết cho
các Tông đồ lúc đó và cho ta sau này? Thì đây Người đã cầu nguyện ba lần:
* Cầu cho họ được hiệp nhất trong tình thương.
* Cầu cho họ khỏi bị bách hại.
* Cầu cho họ được thánh hiến trong sự thật.
- Thứ nhất: Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các tông đồ được hiệp nhất
trong tình thương "Lạy Cha Chí Thánh, xin gìn giữ chúng nhờ danh Cha mà
Cha đã ban cho Con để chúng nên một như Chúng Ta" (Ga 17,11.21-23). Người
muốn cho họ hiệp nhất trong tình thương để khi nhìn họ, người ta biết được họ
là môn đệ của Người "cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy
là nếu các con yêu thương nhau" (Ga 13,35), đó là cách tín nhiệm Người hơn
hết.
Tình thương ấy phải vô điều kiện và cao thượng, tình thương mà Người đã
biểu lộ là yêu đến chết và dám chết cho người mình yêu "không có lòng mến
nào lớn hơn là thí mạng sống cho người mình yêu" (Ga 15,13). Và nếu biết rằng
yêu là dám chết cho người mình yêu, thì ở đây yêu là đưa người mình yêu được hiểu
biết và nhìn nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa, để nhờ đó được hạnh phúc trọn vẹn,
tức là được hưởng sự sống đời đời. Chúa Giêsu cũng nêu gương hiệp nhất để họ
noi theo, đó là gương hiệp nhất giữa Ngài và Thiên Chúa Cha: "Lạy Cha Chí
Thánh, xin hiệp nhất để họ nên một như Chúng Ta là một".
- Thứ đến: Chúa Giêsu cầu nguyện để gìn giữ cho các Tông đồ và chúng ta
sau này khỏi bị ác hại bởi thần dữ. Nói đến ác thần và sự dữ, Chúa Giêsu không
những nhớ đến chúng ta phải chịu những đau khổ thử thách hay kể cả bị bắt bớ,
vì Người đã biết và nói trước "thế gian ghét anh em, vì Thầy đã chọn anh
em và tách anh em ra khỏi thế gian, vì thế mà thế gian ghét anh em" (Ga
15,18-21). Sống trong tội lỗi là mất thân tình với Thiên Chúa, là xa rời Thiên
Chúa, như vậy là phá vỡ sự hiệp thông vơí Chúa và trong Chúa.
- Sau đó, Người cầu cho họ được thánh hiến trong sự thật: "Xin Cha
dùng Chân Lý Cha mà cho họ nên thánh, Lời Cha tức là Chân Lý, Cha đã sai Con xuống
thế làm sao, Con cũng sai họ đến cùng thế gian như vậy. Chính vì họ mà Con đã tự
thánh hiến, ngõ hầu họ cũng được thánh hiến trong Chân Lý" (Ga 17,17-19).
Chữ "thánh hiến" ở đây đa số các nhà bình giải Thánh Kinh hiểu là
thánh hóa và hiến tế Chính Chúa Giêsu hiến thánh chính mình làm lễ vật để kính
tiến lên Chúa Cha.
Người được thánh hiến, tức là được xức dầu để làm công việc Chúa Cha sai
đi là thánh hóa và cứu chuộc chúng ta, chúng ta cũng được thánh hóa và hiến tế,
cũng nhận ba chức vụ là thánh hóa, tư tế và vương quyền để làm nhiệm vụ thánh
hóa chính mình và thánh hóa tha nhân. Thánh hiến nhờ Sự Thật và trong Sự Thật.
Sự Thật đó là gì? Là Sự Thật của Thiên Chúa, là Cha nhân từ đầy yêu thương,
Ngài muốn cho con cái mình được cứu rỗi. Sự thật chúng ta rất yếu đuối vì bị ảnh
hưởng của tội lỗi, nhưng nếu chúng ta thật lòng nhìn nhận và tôn thờ Thiên Chúa
thì chúng ta sẽ lãnh nhận được ơn Chúa cứu chuộc.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa hứa sẽ gởi Chúa Thánh Thần là thần
Chân Lý và Sự Thật ở với chúng con luôn mãi, xin Chúa hãy sai Thánh Thần đến và
ở trong chúng con, ân ban cho chúng con ba điều mà Chúa Giêsu đã dạy là xin ban
cho con, cho tất cả mọi thành phần trong Giáo Hội được gìn giữ trong tình
thương, được hiệp nhất trong Thánh Thần và được thánh hiến trong Sự Thật. Amen.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần VII PS
Bài đọc: Acts 20:28-38: Jn
17:11-19.
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ: Nỗi quan tâm của mục tử khi phải rời bỏ đoàn chiên của mình.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã từng phân biệt người mục tử tốt lành khác với
người chăn chiên. Các Bài Đọc hôm nay đi xa hơn, khi nói lên mối quan tâm của
những người mục tử tốt lành lo lắng cho đoàn chiên khi ông phải xa cách đoàn
chiên mình. Người mục tử tốt lành không những lo chăm sóc, dạy dỗ, và bảo vệ
đoàn chiên khi còn sống; mà còn kiếm người bảo vệ và săn sóc chiên khi biết
mình sắp qua đời. Người chăn chiên có tốt lắm cũng chỉ săn sóc và bảo vệ chiên
khi còn sống, ông không quan tâm đến đoàn chiên khi phải từ giã cuộc đời.
Trong Bài Đọc I, Thánh Phaolô giao đoàn chiên mình cho những kỳ mục tại
Ephesô. Ngài muốn họ hãy chăm sóc đòan chiên một cách vui vẻ và vô vị lợi, bảo
vệ họ khỏi những nanh vuốt của quỉ dữ và của thế gian. Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu cầu nguyện và đặt đoàn chiên dưới sự che chở của Chúa Cha. Ngài cầu xin
Chúa cha thánh hiến các môn đệ của Ngài trong sự thật, và gìn giữ họ khỏi thế
gian và ác thần.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lời căn dặn của Phaolô cho các kỳ mục tại Ephesus trước khi về
Jerusalem.
1.1/ Họ phải ý thức bổn phận cao quí và quan trọng của họ: Đó là họ phải bảo vệ
món quà vô giá là đức tin của họ và của đoàn chiên. Phaolô khuyên nhủ họ:
"Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần
đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội
Thánh Người đã mua bằng máu của chính mình." Để bảo vệ đức
tin, Phaolô nêu bật hai điều quan trọng hơn cả:
(1) Họ phải bảo vệ sự thật giữa bao điều giả trá: Phaolô biết rõ tầm
quan trọng của việc biết sự thật, và sự nguy hiểm của bao điều giả trá, từ kinh
nghiệm mục vụ của mình. Ông cảnh giác giới lãnh đạo: "Phần tôi, tôi biết rằng
khi tôi đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không tha
đoàn chiên. Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những
điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng." Đoàn chiên còn ngây
thơ, non dại; chúng chưa biết tất cả sự thật. Vì thế, bổn phận của các mục tử
là không ngừng dạy dỗ đòan chiên để chúng biết nhận ra sự thật giữa bao sự gian
xảo.
(2) Họ phải canh thức và khuyên nhủ: Các con chiên không luôn nghe tiếng
chủ: có con ham chơi rồi đi lạc, có con cứng đầu chống lại cần phải sửa phạt;
nhưng người mục tử tốt lành không bao giờ bỏ rơi bất cứ con nào. Vì thế, việc
chăm sóc đòan chiên đòi người mục tử phải để ý tới từng cá nhân khi có thể, như
Phaolô trưng dẫn kinh nghiệm của mình: "Vì vậy anh em phải canh thức, và
nhớ rằng, suốt ba năm, ngày đêm tôi đã không ngừng khuyên bảo mỗi người trong
anh em, lắm khi phải rơi lệ."
1.2/ Những điều quan trọng khác:
(1) Sức mạnh của Lời Chúa: Nhận ra sự khẩn thiết của việc biết sự thật
như đã nêu trên, Phaolô chỉ cho họ biết kho tàng khôn ngoan của Lời Chúa:
"Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của
Người, lời có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất
cả những người đã được thánh hiến." Lãnh đạo khôn ngoan cần đặt căn bản
trên Lời Chúa, và xây dựng trên niềm tin vào Thiên Chúa.
(2) Phần thưởng của người mục tử không dựa trên những lợi lộc vật chất:
Khác với những nhà lãnh đạo thế gian, họ quan tâm đến địa vị, uy quyền, và những
lợi lộc vật chất; người lãnh đạo dân Chúa phải biết hy sinh cách vô vị lợi, và
cố gắng sinh sống bằng bàn tay của mình, như Phaolô đã làm: "Vàng bạc hay
quần áo của bất cứ ai, tôi đã chẳng ham. Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết
cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp." Dĩ
nhiên, đó là điều lý tưởng; nhưng như Chúa Giêsu dạy và Phaolô nói sau này:
"thợ làm vườn đáng được trả công." Hơn nữa, việc khai mở và nuôi dưỡng
đức tin phải được ưu tiên hơn việc kiếm kế sinh sống.
(3) Hãy lo lắng cho những người yếu kém: "Tôi luôn tỏ cho anh em thấy
rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải
nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận." Trong đoàn
chiên, sức mạnh và khả năng của mỗi con chiên khác nhau; người mục tử cần chú ý
hơn đến những con chiên yếu ớt, bệnh tật.
Khi đã khuyên bảo xong, ông Phaolô cùng với tất cả các anh em quỳ gối xuống
cầu nguyện. Ai nấy oà lên khóc và ôm cổ ông mà hôn. Họ đau đớn nhất vì lời ông
vừa nói là họ sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Rồi họ tiễn ông xuống tàu.
2/ Phúc Âm: Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.
2.1/ Chúa Giêsu biết sự nguy hiểm cho các môn đệ khi sống trong thế gian.
Chúa Giêsu biết đã đến giờ Ngài phải bỏ thế gian, nên Ngài tâm sự với Chúa
Cha: "Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian;
phần con, con đến cùng Cha." Giờ Chúa Giêsu phải rời bỏ các môn đệ, cũng
là giờ mà các ông phải đương đầu với quyền lực của thế gian một mình. Ngài biết
hậu quả sẽ nghiêm trọng chừng nào, như Ngài đã từng nói với các môn đệ: "Họ
sẽ tiêu diệt chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác." Nhìn lại kết quả việc
chăn chiên của mình, Chúa Giêsu hãnh diện nói với Chúa Cha: "Khi còn ở với
họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và
không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh
Thánh."
Thế gian sẽ ghét bỏ và truy tố các môn đệ như họ sắp ghét bỏ và truy tố
Chúa Giêsu. Lý do là vì cả Chúa Giêsu và các môn đệ không thuộc về thế gian.
Ngài muốn cho các ông biết rõ điều này; để các ông không ngạc nhiên khi điều đó
xảy đến.
2.2/ Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ: Biết những nguy hiểm sẽ xảy đến cho
các môn đệ như thế, Ngài cầu xin Chúa Cha ban cho các ông những điều quan trọng
sau:
(1) Xin Chúa Cha bảo vệ các môn đệ khỏi ác thần: "Con không xin Cha
cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về
thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian." Chúa Giêsu không xin
"cất các môn đệ khỏi thế gian;" nhưng Ngài xin "gìn giữ họ khỏi
ác thần." Các ông phải ở lại thế gian để tiếp tục sứ vụ rao giảng của
Ngài.
(2) Xin Chúa Cha thánh hiến các môn đệ trong sự thật: Giống như Phaolô,
Chúa Giêsu biết nguy hiểm của sự sai lạc: "Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến
họ. Lời Cha là sự thật." Sự thật đây là Lời Kinh Thánh và những lời tâm
huyết Chúa Giêsu vừa dạy dỗ họ. Ngài biết mọi hành động sai bắt đầu từ sự hiểu
biết sai; vì thế, hiểu biết sự thật là điều không thể thiếu cho các môn đệ của
Chúa.
Cả hai điều cầu xin này đều được Chúa Cha ban cho các môn đệ qua việc
ban Thánh Thần. Ngài là thần sự thật, Ngài sẽ giúp các ông nhận ra sự thật và sẽ
hướng dẫn các ông tới tất cả sự thật. Ngài cũng là người bảo vệ và giúp các ông
có sức mạnh làm chứng nhân cho Chúa.
ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mỗi người chúng ta đều được kêu gọi để trở thành mục tử nhân lành: hoặc
một số người con như bậc làm cha mẹ, hoặc một số đông như bậc linh mục, giám mục.
Chúng ta phải lo cho đoàn chiên không chỉ lúc còn sống, mà còn cả khi chúng ta
phải rời bỏ họ.
- Người mục tử nhân lành phải xây dựng đời mình trên đức tin và Lời
Chúa. Họ phải làm hết cách sao cho đoàn chiên có một đức tin vững mạnh và hiểu
biết Lời Chúa cách sâu xa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
05/06/19 THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 7 PS
Th. Bô-ni-phát, giám mục, tử đạo
Ga 17,11a-19
Th. Bô-ni-phát, giám mục, tử đạo
Ga 17,11a-19
LỜI CẦU NGUYỆN CỦA CHÚA
“Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ
trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta.” (Ga 17,11)
Suy niệm: Trong
cuộc sống tại thế, dù là rất ngắn ngủi, Chúa Giê-su đã dùng rất nhiều thời gian
để cầu nguyện. Một trong những lời cầu nguyện thống thiết nhất của Ngài là lời
nguyện hiến tế trong bữa tiệc ly. Đó là lời cầu của cả con người Chúa Giê-su, lời
cầu thốt lên từ trái tim, một trái tim đầy ắp tình yêu. Ngài yêu Chúa Cha và,
trong Chúa Cha, Ngài yêu chúng ta. Chính Ngài đã nài xin cho chúng ta được nên
giống như Chúa: “Xin cho họ nên một như
chúng ta.” Ngài quan tâm chăm sóc, bảo vệ chúng ta: “Con đã canh giữ và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng”.
Ngài cầu nguyện như thế đó, lời cầu được thúc đẩy bởi tình yêu.
Mời Bạn: Chiêm
ngắm đời sống cầu nguyện của Chúa Giê-su, để chúng ta bắt chước Ngài cầu nguyện.
Khi cầu nguyện, bạn có để mình được thúc đẩy bởi tình yêu Chúa không? Trái tim
bạn có rung cùng nhịp với Thánh Tâm Chúa để ngợi khen, cảm tạ, để cầu xin Chúa
không? Bạn cầu cho chúng ta nên một với nhau trong Chúa không? Và nhất là bạn
có cầu xin để không một ai trong chúng ta phải hư mất không?
Sống Lời Chúa: Khi tôi hờn giận, ghen ghét một ai đó, tôi sẽ nghĩ đến
điều lớn hơn và cầu nguyện thầm rằng: Chúa
muốn chúng con nên một; Chúa không muốn hư mất một ai.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con biết dành thời gian
thinh lặng mỗi ngày, để cầu nguyện, nhìn ngắm Chúa, để mọi suy nghĩ và hành động
của chúng con được nên giống Chúa: xin cho mọi người nên một trong Chúa và
không một ai phải hư mất.
(5 phút Lời Chúa)
Xin
Cha gìn giữ họ
Đời
người Kitô hữu chẳng an toàn, vì họ được sai vào thế gian. Thế gian đầy bóng tối,
dối trá, hận thù, chính là nơi họ phải đến, phải đằm mình vào, để biến đổi nó
thành ánh sáng, sự thật, tình yêu.
Suy niệm:
Chúng ta đang sống trong một thế giới tự nhận là khoa học kỹ thuật,
trong đó dường như Thiên Chúa vắng mặt,
và Quỷ dữ, Ác thần, Satan cũng không có chỗ.
Thật ra, cả Thiên Chúa lẫn Satan đều có mặt trong thế giới này.
Con người sống trong thế giới là chịu sự lôi kéo của cả hai.
Khi dâng lời cầu nguyện lúc sắp trở về với Cha,
Đức Giêsu ý thức hơn khi nào hết quyền lực có thật của quỷ dữ
đang tác động trên các môn đệ còn sống ở trần gian.
Chính vì thế Ngài khẩn khoản xin Cha gìn giữ họ khỏi Ác thần (c. 15).
“Khi còn ở với họ, Con đã gìn giữ họ… Con đã canh giữ họ…” (c. 12).
Gìn giữ các môn đệ là việc Đức Giêsu đã làm trong suốt sứ vụ,
và Ngài đã không để ai trong họ phải hư mất, trừ Giuđa.
Những sói dữ bao giờ vẫn có, chúng khuấy phá đàn chiên.
Mục tử Giêsu đã không để ai cướp được chiên khỏi tay mình,
và trong cuộc chiến đấu này, Ngài đã dám hy sinh mạng sống (Ga 10, 11).
Bây giờ Ngài xin Cha tiếp tục gìn giữ các môn đệ (c. 11b),
là đoàn chiên của Cha mà Cha đã ban cho Ngài chăm sóc.
Vì Thiên Chúa là Cha chí thánh đối với Đức Giêsu (c. 11b),
nên Cha có khả năng làm cho các môn đệ nên thánh.
Thánh thiện là thuộc tính của Thiên Chúa Cha,
nhưng Đức Giêsu cũng được gọi là Đấng Thánh của Thiên Chúa (Ga 6, 69),
và Đấng Phù Trợ được gọi là Thánh Thần (Ga 14, 26).
Thánh thiện là nét chung của Ba Ngôi, tách biệt Ba Ngôi khỏi thế giới,
dù thế giới vẫn là đối tượng để Ba Ngôi luôn cùng nhau hướng về.
Ba Ngôi vẫn muốn chia sẻ sự thánh thiện của mình cho thế giới.
“Các ngươi phải nên thánh vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 11, 44).
Đức Giêsu xin Cha thánh hóa các môn đệ (c. 17),
nhờ Thánh Thần mà Cha sắp ban xuống trên họ.
Làm cho các môn đệ nên thánh chính là tách biệt họ ra khỏi thế gian,
với lối suy nghĩ và hành động, với những giá trị riêng của nó.
Thánh hóa môn đệ chính là làm cho họ không thuộc về thế gian nữa,
để như Đức Giêsu, họ thuộc về Cha trọn vẹn (c. 16).
Nhưng tách biệt khỏi thế gian lại không có nghĩa là cất họ khỏi đó (c.
15),
và giữ họ an toàn trong tháp ngà bảo đảm.
Đời người Kitô hữu chẳng an toàn, vì họ được sai vào thế gian (c.18).
Thế gian đầy bóng tối, dối trá, hận thù, chính là nơi họ phải đến,
phải đằm mình vào, để biến đổi nó thành ánh sáng, sự thật, tình yêu.
“Các con là muối của trái đất, là ánh sáng của thế gian” (Mt 5, 13).
Được thánh hóa, được tách khỏi thế gian, chính là để được sai vào đó.
Nếu không được thánh hóa, không thuộc về Chúa, thì khi được sai vào,
ta sẽ chẳng biến đổi được thế gian, và sẽ bị nó nuốt chửng.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Lm
Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Sáu
5 THÁNG SÁU
Mạc Khải Và Thuyết
Tiến Hóa
Trong thời hiện đại của
chúng ta, giáo thuyết mạc khải rằng con người được tạo dựng như một hữu thể gồm
cả hồn lẫn xác đã gặp một khó khăn đặc biệt do thuyết tiến hóa dấy lên. Nhiều
nhà khoa học nghiên cứu nguồn gốc con người chủ trương rằng không những có một
mối liên kết giữa con người và toàn bộ thế giới tự nhiên mà, hơn nữa, con người
đã tiến hóa từ các động vật thượng đẳng. Vấn đề nguồn gốc con người đã taọ ra sự
tranh luận công khai và rộng rãi. Nó đã trở thành mối quan tâm chủ yếu của nhiều
nhà khoa học trong hơn một thế kỷ nay.
Câu trả lời của huấn
quyền được tìm thấy trong Thông Điệp Humani generis(1950) của Đức Piô XII: “Huấn
quyền Giáo Hội không có gì chống lại học thuyết tiến hóa, trong mức độ mà thuyết
tiến hóa tìm kiếm nguồn gốc của thân xác con người nơi một chất thể sống động và
hiện hữu trước – vì đức tin Công Giáo khẳng định rằng linh hồn người ta do Thiên
Chúa trực tiếp tạo dựng…” (DS 3896).
Vì thế, từ quan điểm
giáo thuyết, không có gì trở ngại để tin rằng thân xác con người đã tiến hóa từ
các loài động vật thượng đẳng. Song cũng cần phải nhớ rằng thuyết tiến hóa cũng
chỉ là một giả thuyết. Nó nêu lên một khả tính rằng một điều gì đó có thể đúng.
Nó không phải là một sự chắc chắn về mặt khoa học. Đàng khác, giáo huấn đức tin
dạy chúng ta một cách chắc chắn rằng linh hồn thiêng liêng của con người được
Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng.
Nói vậy có nghĩa là thân
xác con người có thể đã được chuẩn bị từng bước cho con người, theo một thứ tự
do Đấng Tạo Hóa vạch định. Nhưng, linh hồn con người không thể phát xuất từ vật
chất, vì linh hồn có bản tính thiêng liêng. Và chính linh hồn là yếu tố quyết định
định mệnh cuối cùng của con người.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 05 - 6
Thánh Bôniphát,
giám mục, tử đạo
Cv 20, 28-38; Ga 17, 11b-19.
LỜI SUY NIỆM: “Lạy Cha chí Thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong
Danh Cha, mà Cha đã ban cho Con, để họ nên một như chúng ta”.
Chúa Giêsu đang cầu nguyện cùng Chúa Cha; Người xin chính Chúa Cha gìn
giữ mỗi người trong chúng ta, trong chính Danh của Ngài; đồng thời Người cũng
trình bày với Chúa Cha ước muốn của Người là: tất cả chúng ta là những người đã
được Chúa Cha ban cho Người, đều được nên một trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con cảm tạ Chúa. Xin Chúa ban cho mọi thành viên
trong gia đình chúng con luôn biết cọng tác với Chúa trong lời cầu xin này, để
chúng con được vui hưởng hạnh phúc đời đời trong Nước Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh nhân
Ngày 05-06
Thánh BÔNIFACIÔ
Giám Mục Tử Đạo (673 -
754)
Thánh Bônifaciô có tên
sơ khởi là Winfrid. Ngài là người Saxon miền nam, sinh ở Creditôn gần Exêter,
năm 673, thời đó, phong trào truyền giáo rất mạnh mẽ ở nước Anh. Gia đình Ngài
thường là nơi dừng chân của rất nhiều nhà truyền giáo. Winfrid rất thích gần
gũi ở những con người thánh thiện này và không bỏ mất một lời nào các Ngài kể lại
và năng hỏi thăm về những chân lý các Ngài rao giảng. Một ngày kia Winfrid hỏi
các Ngài phải làm gì để được cứu rỗi ? Các vị thừa sai trả lời: - Phải nỗ lực để
nên tốt lành với mọi người và đừng nghĩ đến mình.
Nghe những lời này,
Winfrid muốn lên đường ngay để rao giảng Tin Mừng cho lương dân. Ngài đã xin
cha đi tu nhưng cha Ngài đã từ chối. Ngài ngã bệnh khiến cha Ngài hốt hoảng và đã
chấp nhận.
Winfrid nhập dòng ở
Exeter và vì thiện chí học hỏi của Ngài, người ta gởi Ngài tới Nursling để học
kinh thánh, thơ văn và văn phạm, năm 717, Winfrid đã trở thành một giáo sĩ nổi
bật của miền nam Saxon và được đề nghị làm tu viện trưỏng tu viện Nursling. Nhưng
Ngài đã quyết định gia nhập nhóm truyền giáo. Angle-saxon lên đường tới Frisia.
Vẫn quan tâm đến các công việc của nước Anh cho đến hết đời, Ngài giữ liên lạc
thư từ rất thường xuyên nhưng không hề viếng nước Anh lần nào nữa.
Miền đất Winfrid muốn đến
rao giảng Tin Mừng là một vùng thuộc nước Đức và nằm giữa hai giòng sông Rhin và Danube.
Cả người Rôma lẫn người Pháp đã không thuần hoá được dân chúng hung dữ của miền
này. Nhưng một cuộc chiến bùng nổ giữa bá ước Ratborol và Charles Martel, khiến
Ngài không cập bến được. Ngài hướng về Roma với một nhóm hành hương và xin sự
chẩn nhận của Đức giáo hoàng. Đức Thánh cha Grêgoriô II đã chúc lành cho tu sĩ
này và ban cho mọi người quyền hạn để mang Nước Chúa đến cho dân Đức còn đang
thờ ngẫu tượng.
Rời Rôma, Người rảo
qua các miền Lombardie, Baviere và Thuringia học hiểu ngôn ngữ và giữ
các phong tục địa phương của đám dân. Ngài muốn truyền bá Tin Mừng. Ngài đã đến
Frisia, đến giữa nước Đức, và lập được nên một nhà nguyện, một tu viện ở
Hambourg. Thành quả này làm phấn khởi cũng như thúc đẩy tình yêu nơi vị tông đồ.
Những cuộc trở lại đạo này ngày một nhiều.
Năm 722 Đức giáo hoàng
gọi Winfrid về Roma và tấn phong Ngài làm giám mục. Đức Giáo hoàng nói : - Từ
nay con sẽ mang tên là Bônifaciô, nghĩa là "người thi ân". Đây là lần
đầu tiên một tòa giám mục ở xa đã theo thực hành địa phương của Italia và đã tỏ
bày sự tuân phục đối với Đức Giáo hoàng .
Bônifaciô lại lên đường
truyền giáo với tư cách giám mục. Ngài sẽ không ở Frisia dưới quyền Willibord,
nhưng muốn mở ra một lãnh địa mới ở Tây Đức. Ngài đã bắt đầu ở Hesse miền Thuringia là
nơi Ngài đã đến đốn một cây sồi cổ thụ. Dân chúng đặt tên cho cây sồi này là
"sức mạnh thần Jupiter". Thánh nhân đã triệt hạ cây cổ thụ cách dễ dàng
lạ lùng rồi dùng cây dựng nhà thờ kính thánh Phêrô. Dân chúng thờ ngẫu thần đã
giận dữ vì sợ bị thần minh oán phạt. Họ tuốn đến đe dọa thánh nhân. Nhưng khi
nghe Ngài nói rất hay và đầy tình đầy nghĩa, nhiều người đã trở lại đạo.
Charles Martel lúc ấy
sẵn sàng đem binh lực phục vụ Kitô giáo. Tuy nhiên Đức Giám mục Bônifacio đã không
muốn cậy dựa vào sức mạnh mà chỉ dùng tình thương để cải hóa các tâm hồn. Ngài đã
thiết lập nhiều tu viện và kêu gọi sự trợ giúp từ nước Anh gởi tới. Đã có nhiều
linh mục, nghệ sĩ, văn sĩ, tới góp công và nhiều người khác đóng góp của cải
cho việc truyền giáo. Cứ như thế mà thánh Bônifacio đã có thể trao phó cộng đoàn
nhỏ bé và mới mẻ cho các tu sĩ coi sóc rồi lại lên đường tiếp tục mở mang nước
Chúa.
Đức giáo hoàng Gregoriô
III phong đức Bônifacio lên chức Tổng giám mục và trao cho trách nhiệm thiết lập
các toà giám mục ở nước Đức. Sau cuộc viếng thăm Rôma lần thứ ba, Ngài nhận sứ
mệnh tổ chức Giáo hội ở hữu ngạn sông Rhin. Suốt 7 năm đi rao giảng Tin Mừng ở
Hesse, Ngài đi vào khu rừng phân cách Hesse và Thuringia. May mắn, nhà
truyền giáo được hứơng dẫn tiến về thung lũng Fuloda. Cùng với các tu sĩ, Ngài
phá rừng đào đất và xây dựng tu viện Fulda. Tu viện này sẽ trở nên thành
trì của đời sống tôn giáo trí thức của dân man rợ thời Trung Cổ.
Đức Tổng giám mục Bônifacio
chọn Mayence làm toà tổng giám mục. Carlôan con của Charles martel chọn đời sống
tu trì và nhường quyền kế vị cho Pépin. Ông này muốn được một đức giám mục lớn
phong vương. Trong một lễ nghi long trọng ở Soissons, vị tông đồ đã đặt vương
miện lên đầu Pépin le Brej. Sau đó không kể gì đến tuổi già, Ngài lại lên đường
truyền giáo.
Ngài xuống thuyền với
50 người tùy tùng gồm có các linh mục, tu sĩ và các sinh viên. Đoàn thuyền tới
giữa các cánh đồng lầy lội. Cư dân của vùng này còn sống rất hoang dại. Các nhà
truyền giáo rao giảng Tin Mừng cho họ. Đức cha Bônifacio hẹn các tân tòng ở
Dokum, gần bờ bể, ngày 5 tháng 6 năm 756, hôm ấy là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Lúc vừa cử hành thánh lễ thì một đoàn người mang khí giới xông tới, Bônifacio
quay về với các bạn và nói: - Can đảm lên, khí giới này không làmgì được linh hồn.
Các lương dân xông vào
sát hại các nhà truyền giáo. Một nhát búa bổ xuống Đức Tổng giám mục và cuốn Phúc
âm Ngài đang cầm trong tay.
Xác thánh nhân được đưa
về chôn cất ở nhà thờ chánh tòa Fulda. Thư viện còn lưu giữ được cuốn sách
bị chặt đứt của thánh nhân.
(daminhvn.net)
05 Tháng Sáu
Hãy Cho Một Nụ Cười
Một bệnh nhân nọ được
đưa vào một bệnh viện do các tu sĩ điều khiển. Người ta không để cho anh nằm điều
trị trong một căn phòng riêng rẽ mà lại đặt anh nằm chung với các bệnh nhân khác
trong một phòng lớn. Vừa mới được khiêng vào căn phòng, người đàn ông đã bị các
bệnh nhân khác tuôn đến bao xung quanh. Người thì kéo chăn, kẻ nắm áo, kẻ bứt tóc.
Không mấy chốc, anh bị quăng xuống khỏi giường giữa những tiếng cười đùa của các
bệnh nhân khác.
Không chịu đựng nổi
trò chơi quái ác của các bệnh nhân, người đàn ông mới la hét để kêu cầu vị phụ
trách. Anh trình như sau: "Tại sao ông lại đưa tôi vào đây. Tất cả các bệnh
nhân xung quanh tôi đều cười đùa, nghịch ngợm như một đám con nít. Hẳn họ không
đau yếu như tôi".
Vị phụ trách mỉm cười
đáp: "Họ còn đau yếu hơn cả anh. Nhưng tất cả đều khám phá ra một bí quyết,
một bí quyết mà ít người ngày nay biết đến hoặc có biết đến, họ cũng không
tin".
Người đàn ông muốn
biết bí quyết ấy. Vị phụ trách bệnh viện mới lấy một cái cân có hai đĩa ở hai đầu.
Ngài lấy một hòn đá đặt vào một đĩa cân, đĩa cân ở đầu bên kia liền được nhắc lên...
Ngài giải thích như sau: Tôi vừa trình bày cho ông một bí quyết của các bệnh nhân
ở đây. Chiếc cân này là biểu trưng của tình liên đới giữa con người với nhau. Hòn
đá biểu hiện cho nỗi đau khổ của ông. Khi đau khổ đè nặng trên ông, thì ở đầu cân
bên kia, niềm vui có thể đến với một người nào đó. Niềm vui và nỗi khổ thường sánh
vai với nhau. Nhưng nỗi khổ cần phải được đón nhận và dâng hiến, chứ không phải
để giữ riêng cho mình. Hãy làm cho những người khác trở thành trẻ thơ, hãy làm
cho nụ cười được chớm nở trên môi của người khác cho dẫu ta đang hấp hối".
Cái chết của Ðức Kitô
là cái chết của một người cho tất cả mọi người. Ðó là Tình Yêu được dâng hiến
cho tất cả mọi người. Ðó là Hy Sinh cho tất cả mọi người. Ðó là Lý Tưởng của một
người sống và chết cho mọi người.
Nhìn ngắm Ðức Kitô trên
thập giá, chúng ta thấy được định nghĩa đích thực về con người: con người chỉ có
thể thể hiện được trọn vẹn tính người khi sống cho người khác. Càng sống cho
tha nhân, con người càng tìm lại được chính bản thân. Càng chia sẻ với người khác,
con người càng trở nên phong phú...
Có của cải, có thì giờ,
có niềm vui để chia sẻ đã đành, nhưng con người còn có cả một kho tàng khác để
chia sẻ cho người khác: đó là nỗi đau khổ, sự bất hạnh, những hy sinh âm thầm của
mình.
Âm thầm đón nhận một đau
khổ mà không than trách, không phàn nàn, nhưng luôn để lộ trên khuôn mặt sự vui
tươi, tinh thần lạc quan: đó là một trong những chia sẻ cao độ nhất mà chúng ta
có thể dành cho người khác.
Vác lấy khổ đau để trở
thành gánh nặng cho người khác: đó là một trong những chia sẻ cao quý nhất mà
chúng ta có thể dành cho người khác.
Dâng từng khổ đau, hy
sinh và âm thầm phục vụ từng ngày để cầu nguyện cho tha nhân: đó là một trong
những chia sẻ cao đẹp nhất, bởi vì chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của sự
chia sẻ ấy.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét