16/06/2019
Chúa Nhật 11 Thường Niên năm C.
CHÚA BA NGÔI.
Lễ Trọng
(phần II)
Phụng Vụ Lời Chúa: Chúa nhật
Lễ Chúa Ba Ngôi
CÔNG TRÌNH CỨU ĐỘ CỦA BA NGÔI
(Cn 8,22-31; Rm 5,1-5; Ga 16,12-15)
“Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy
mà loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã
nói: Người lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16,14-15).
I. CÁC BÀI ĐỌC
Một cách tiệm tiến, từ Cựu Ước
bước sang Tân Ước, đạt tới tột đỉnh nơi cái chết, sự sống lại và lên trời của
Chúa Kitô nhưng chỉ có thể đạt tới sự thành toàn viên mãn nhờ Chúa Thánh Thần,
công trình cứu độ là kết quả của sự phối hợp chặt chẽ và nhịp nhàng của Ba Ngôi
Thiên Chúa.
1. Bài đọc 1
Đoạn sách Châm Ngôn là một
bài thơ nói về nguồn gốc, vị thế và vai trò của Đức Khôn Ngoan trong công trình
tạo dựng của Thiên Chúa.
Trước hết, về nguồn gốc, Đức
Khôn Ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, được sinh ra từ đời đời, trước khi có mọi
loài thọ tạo (x. Cn 8,22-26). Thật vậy, Đức Khôn Ngoan được kể như “tác phẩm đầu
tay” của Thiên Chúa, phát xuất từ chính Thiên Chúa; hằng hiện diện cùng Thiên
Chúa và tham gia vào công cuộc sáng tạo của Ngài như “tay thợ cả” (Cn 8,30a).
Sau này, tác giả Tin Mừng thứ tư như muốn đồng hoá Đức Khôn Ngoan với Ngôi Lời,
Đấng “vẫn hướng về Thiên Chúa” và là Đấng mà nhờ Người muôn vật được tạo thành
(x. Ga 1,2-3).
Sau nữa, về vị thế, Đức Khôn
Ngoan được sách Châm Ngôn mô tả như một ngôi vị. Đức Khôn Ngoan không còn là một
phẩm tính của Thiên Chúa, mà là một ngôi vị khác biệt và độc lập với Thiên
Chúa. Tuy phát xuất từ Thiên Chúa, nhưng Đức Khôn Ngoan lại được Thiên Chúa
sinh ra và có thể hành động độc lập như một ngôi vị với những phẩm tính riêng
biệt. Sau này, Tin Mừng thứ tư mô tả Ngôi Lời với các phẩm tính trổi vượt như
“ánh sáng” và “sự sống” (x. Ga 1,4.9), “ân sủng” và “sự thật” (x. Ga 1,14.17).
Cuối cùng, về vai trò, Đức
Khôn Ngoan là nguồn vui của Thiên Chúa; Người vui đùa bên Thiên Chúa và là niềm
vui của Ngài. Người cũng “vui chơi trên mặt đất và đùa vui với con cái loài người”
(Cn 8,31). Như vậy, Đức Khôn Ngoan vừa vui đùa với Thiên Chúa, vừa đùa vui với
con người; vừa là niềm vui của Thiên Chúa, vừa đem lại cho con người niềm vui.
Sau này, tác giả Tin Mừng thứ tư xác định Chúa Giêsu chính là Đấng đem lại niềm
vui trọn vẹn cho các môn đệ của Người (x. Ga 15,11; 16,22.24).
2. Bài đọc 2
Đoạn thư Rôma nói đến tình trạng
của người được công chính hoá nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô.
Nhờ tin vào Đức Giêsu mà con
người được công chính hoá, nghĩa là nhờ cái chết của Đức Giêsu mà được thanh tẩy
khỏi tội lỗi và nhờ sự phục sinh của Người mà được sống trong tình trạng ân sủng
của Thiên Chúa, được giao hoà cùng Thiên Chúa và được bình an với Ngài. Thật thế,
bao lâu người tín hữu sống trong tình trạng ân sủng, bấy lâu họ thoát khỏi sự
kìm toả của tội lỗi, được hưởng tự do của con cái Thiên Chúa và sống trong bình
an với Ngài.
Hơn nữa, khi được công chính
hoá nhờ đức tin, người tín hữu không những được hưởng ân sủng của Thiên Chúa
trong hiện tại mà còn có hy vọng được hưởng vinh quang của Ngài vào thời cánh
chung. Quả vậy, nhờ tin nên khi gặp gian truân thì biết chịu đựng và nhờ chịu đựng
mà sinh ra lòng trung kiên; đồng thời khi sống trung kiên, người tín hữu phát
triển lòng trông cậy. Như thế, nhờ đức tin, người tín hữu biết sống lòng cậy
trông.
Sau cùng, lòng trông cậy giúp
người tín hữu không thất vọng, vì Thánh Thần đổ tràn tình yêu vào lòng những ai
cậy trông vào Thiên Chúa. Hay nói cách khác, những ai trông cậy vào Thiên Chúa
đều được Thánh Thần đổ tràn tình yêu của Ngài vào lòng họ. Như thế, Thánh Thần
là bảo chứng tình yêu của Thiên Chúa cho những ai tin tưởng và cậy trông vào
Ngài.
Thiên Chúa ban cho con người
được công chính hoá, nghĩa là được sống trong ân sủng của Ngài, nhờ cái chết và
sự sống lại của Đức Giêsu. Đồng thời, Thiên Chúa lại tuôn đổ tình yêu của Ngài
xuống tâm hồn những ai tin tưởng, cậy trông vào Ngài nhờ ơn Thánh Thần. Như vậy,
Thiên Chúa thực hiện công việc thánh hoá con người nhờ Chúa Giêsu và trong Chúa
Thánh Thần.
3. Bài Tin Mừng
Chúa Giêsu hứa ban Thánh Thần
cho các môn đệ để giúp các ông hiểu và đón nhận tất cả mặc khải về công trình cứu
độ của Thiên Chúa, điều mà lúc này các ông chưa thể lãnh hội cách trọn vẹn được.
Thánh Thần là thần khí sự thật
có nhiệm vụ dẫn các môn đệ đến “sự thật toàn vẹn”. Trong mầu nhiệm nhập thể,
Chúa Kitô đã mặc khải cho các môn đệ về chương trình cứu độ của Thiên Chúa,
nhưng trong giới hạn của mình, các môn đệ vẫn chưa thể lãnh hội trọn vẹn. Vì thế,
Thánh Thần, Đấng thấu suốt ý định cứu độ của Thiên Chúa, sẽ tiếp tục hướng dẫn
các môn đệ đến “sự thật toàn vẹn”, nghĩa là giúp các ông hiểu toàn bộ công
trình cứu độ của Thiên Chúa như được hoàn tất nơi Chúa Kitô.
Như thế, Thánh Thần không tự
mình mặc khải thêm điều gì, nhưng chỉ làm sáng tỏ những gì đã được thực hiện nhờ
và qua Chúa Kitô. Thánh Thần không tự mình nói điều gì, nhưng chỉ truyền lại
cho các môn đệ những gì Ngài nghe được từ Chúa Giêsu. Khi làm như thế, Thánh Thần
tôn vinh Chúa Giêsu. Quả vậy, vai trò của Thánh Thần còn là tôn vinh Chúa Giêsu
bằng cách loan báo những gì phát xuất từ Chúa Giêsu, cũng có nghĩa là những gì
phát xuất từ chính Chúa Cha, vì “tất cả những gì Chúa Cha có đều là của Thầy”.
Cứu độ là công trình của
Thiên Chúa Ba Ngôi: Thiên Chúa đưa ra sáng kiến cứu độ. Chúa Giêsu nhập thể làm
người để thực hiện công trình cứu độ đó. Dù công trình cứu độ đã hoàn tất nơi
cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, nhưng con người vẫn chưa thể
hiểu thấu và lãnh hội được đầy đủ. Chúa Thánh Thần đến để tiếp tục hướng dẫn
con người đến chân lý toàn vẹn, nghĩa là hiểu biết và đón nhận ân sủng cứu độ của
Thiên Chúa được thực hiện qua và nhờ Chúa Kitô.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG
1/ Sách Châm Ngôn diễn tả Đức
Khôn Ngoan như một ngôi vị, tuy phát xuất từ Thiên Chúa và được Ngài sinh ra
trước mọi loài mọi vật, nhưng lại có vai trò như “người thợ cả” trong công
trình tạo dựng của Ngài. Như thế, bài thơ trong sách Châm Ngôn là một mặc khải
ban đầu về Ngôi Lời Thiên Chúa mà sau này tác giả Tin Mừng thứ tư sẽ trình bày
cách sống động và đầy đủ (x. Ga 1,1-5.9-14.16-18). Đối với các Kitô hữu, mầu
nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được mặc khải tiềm tàng trong Cựu Ước để dần dần được
sáng tỏ nơi mặc khải của chính Đức Giêsu trong Tân Ước.
2/ Thánh Phaolô cho thấy vai
trò của Ba Ngôi trong công trình cứu độ con người: Thiên Chúa ban cho con người
được công chính hoá, nghĩa là được sống trong ân sủng của Ngài, nhờ cái chết và
sự sống lại của Đức Giêsu. Đồng thời, Thiên Chúa lại tuôn đổ tình yêu của Ngài
xuống tâm hồn những ai tin tưởng, cậy trông vào Ngài nhờ ơn Thánh Thần. Như vậy,
Thiên Chúa thực hiện công việc thánh hoá con người nhờ Chúa Giêsu và trong Chúa
Thánh Thần. Các tín hữu cần xác tín về vai trò quan trọng của Ba Ngôi Thiên
Chúa trong đời sống hằng ngày của mình.
3/ Bài Tin Mừng làm nổi bật
giai đoạn chuyển giao từ Chúa Giêsu sang Chúa Thánh Thần, qua đó cho thấy, toàn
bộ chương trình cứu độ là công việc của Ba Ngôi Thiên Chúa: Thiên Chúa là khởi
phát của sáng kiến cứu độ; Chúa Giêsu thực hiện qua mầu nhiệm nhập thể; Chúa
Thánh Thần đưa công trình cứu độ đến mức thành toàn viên mãn cho con người. Người
Kitô hữu sống tâm tình cảm tạ Thiên Chúa Ba Ngôi về ơn cứu độ diệu kỳ mà Thiên
Chúa thực hiện nhờ Chúa Giêsu, trong Chúa Thánh Thần.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh
chị em thân mến! Qua Đức Giêsu Kitô, tất cả chúng ta được mời gọi thông dự vào
sự sống và vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi. Cộng đoàn chúng ta cùng thành tâm
cảm tạ Chúa và tha thiết dâng lời cầu xin.
1. Hội Thánh có sứ mạng giới
thiệu tình thương cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi cho mọi người. Xin cho các
thành phần trong Hội thánh luôn hiệp nhất yêu thương, và phản ánh trung thực
tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng
2. Thiên Chúa Cha là Đấng
giàu lòng thương xót. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những ai đang khát khao tìm
kiếm chân lý được ơn nhận biết một Thiên Chúa chân thật, và luôn sống quảng đại
trao ban trọn vẹn cho nhau theo gương yêu thương của Thiên Chúa.
3. Đức Kitô là Ðấng cứu độ
duy nhất của trần gian. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các Kitô hữu luôn xác tín
và kiên trì bước theo Chúa Kitô, trung thành thực thi mọi giáo huấn của Chúa,
cũng như can đảm làm chứng cho Người trong môi trường sống hằng ngày.
4. Chúa Thánh Thần là Ðấng
thánh hóa nhân loại. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn
chúng ta luôn ngoan ngoãn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nỗ lực
nên thánh mỗi ngày qua việc chu toàn mọi bổn phận mà Chúa trao phó.
Chủ tế: Lạy
Thiên Chúa là Cha rất nhân từ, Cha đã giao hòa thế gian với Cha trong Đức Kitô
và ban Thánh Thần thánh hóa nhân loại; xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và
giúp chúng con luôn ý thức sống mầu nhiệm hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi, hầu xứng
đáng với danh nghĩa là con cái Cha. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng
con.
LỄ KÍNH THIÊN CHÚA BA NGÔI
Chủ đề :
Vai trò Ba Ngôi Thiên Chúa
trong đời sống tín hữu
trong đời sống tín hữu
“Chúa Thánh Thần sẽ dẫn chúng con đến sự thật toàn vẹn”
(Ga 16,13)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I (Cn
8,22-31) : Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ.
– Đáp ca (Tv 8) : Thiên
Chúa đã đặt con người cai trị những công trình của Ngài.
– Tin Mừng (Ga
16,12-15) : Thánh Thần dạy chúng ta tất cả sự thật.
– Bài đọc II (Rm
5,1-5) : Nhờ Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần, chúng ta được thông
phần sự sống của Thiên Chúa.
I. Dẫn vào
Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi
là một trong ba mầu nhiệm căn bản của đức tin chúng ta, căn bản vì có ảnh hưởng
quan trọng trên cách sống đức tin của chúng ta. Nhưng hình như từ trước tới nay
chúng ta chưa ý thức bao nhiều về tầm quan trọng ấy.
Trong Thánh lễ này, chúng ta
xin cho Lời Chúa soi sáng cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng ấy, và xin ơn
Chúa giúp chúng ta sống đức tin của mình một cách tích cực hơn.
II. Gợi ý
sám hối
– Thiên Chúa là Cha yêu
thương. Nhưng chúng ta chưa mấy tin tưởng phó thác vào tình yêu Chúa.
– Chúa Con đã chịu chết để
Thiên Chúa tha thứ tội lỗi chúng ta. Nhưng chúng ta không biết tha thứ cho
nhau.
– Chúa Thánh Thần muốn mọi
người sống yêu thương nhau như anh em cùng một Cha trên trời. Nhưng chúng ta
thường nhìn người chung quanh như những kẻ xa lạ, thậm chí là những kẻ thù.
III. Lời
Chúa
- Bài đọc I (Cn
8,22-31)
Trích đoạn này trình bày Ngôi
Hai như là Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa.
– Ngài hiện hữu từ thuở đời đời.
– Ngài đóng vai trò chủ chốt
trong việc tạo dựng.
– Ngài vừa ở bên cạnh Thiên
Chúa, vừa gần gũi với loài người.
2.
Đáp
ca (Tv 8)
Đây là một bài ca tụng công
trình tạo dựng của Thiên Chúa, đặc biệt con người là thụ tạo cao quý nhất, chỉ
thua kém thiên thần một chút.
3.
Tin
Mừng (Ga 16,12-15)
Đoạn Tin Mừng này nói đến sự
liên hệ giữa Ba Ngôi, nhưng đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Chúa Thánh Thần :
– Tất cả những gì mà Chúa
Con mặc khải đều là do lãnh nhận từ Chúa Cha.
– Chúa Thánh Thần sẽ
dạy các môn đệ hiểu rõ tất cả những gì Chúa Con đã dạy, nhờ đó các môn đệ được
dẫn đến sự thật toàn vẹn.
4.
Bài
đọc II (Rm 5,1-5)
Đoạn thư Phaolô này cũng nói
đến vai trò của Ba Ngôi trong cuộc sống người tín hữu : Nhờ Chúa
Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần, chúng ta được thông
phần sự sống của Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
- Sự thật toàn vẹn
Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn
ta đến sự thật toàn vẹn. Sự thật toàn vẹn là gì ? Đó chính là điều Chúa
Giêsu ngụ ý trong câu đầu bài Tin Mừng hôm nay “Thầy còn nhiều điều muốn nói với
chúng con, nhưng bây giờ chúng con không có sức chịu nổi“.Trong khoảng
thời gian Chúa Giêsu sống cạnh các môn đệ, có nhiều điều Chúa Giêsu vừa mới nói
hé một chút thì các môn đệ đã không chịu nổi nên Chúa Giêsu thôi không nói nữa.
Thí dụ khi hai người con của bà Giêbêđê đến xin Chúa cho họ được ngồi hai bên tả
hữu Ngài, Chúa Giêsu hỏi lại “Nhưng chúng con có uống nổi chén đắng
của Thầy không ?” Hai ông tuy đáp liều là nổi nhưng sau đó không dám xin nữa
và Chúa Giêsu cũng không nói thêm gì nữa. Trong câu chuyện ấy, sự thật toàn vẹn
mà Chúa Giêsu chưa nói rõ chính là chén đắng. Một lần khác Chúa
Giêsu vừa mở miệng báo tin Ngài sẽ bị bắt bị hành hạ và bị giết chết, thì Phêrô
cũng không chịu nổi nên vội lên tiếng can ngăn. Trong chuyện này, sự thật toàn
vẹn mà Chúa Giêsu chưa thể nói rõ chính là mầu nhiệm đau khổ của Thập
giá. Trong đêm thứ năm trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu quỳ trước các
môn đệ và rửa chân cho họ, Phêrô lại một lần nữa không chịu nổi nên cự nự
“Không đời nào con để Thầy rửa chân cho con”. Ở đây sự thật toàn vẹn mà Chúa
Giêsu cũng chưa tiện nói hết là sự hạ mình của Ngài và của các
môn đệ. Tóm lại sự thật toàn vẹn là các môn đệ phải chấp nhận số phận của
Thầy mình, phải tự khiêm tự hạ, phải chịu đau khổ chịu bắt bớ và có thể chịu chết
giống như Thầy. Nhưng trong tất cả những lần kể trên Chúa Giêsu không nói hết
ý nghĩ của mình được vì các môn đệ đã không chịu nổi. Về sau khi Chúa Giêsu đã
sống lại và lên trời, Chúa Thánh Thần đã dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn ấy,
và khi đó, nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, các ông đã chịu nổi, chẳng những
chịu nổi mà còn vui lòng chịu : một lần kia vì đã rao giảng về Chúa Giêsu,
các tông đồ bị bắt giam trong tù hết một đêm, sau đó bị điệu ra Thượng Hội đồng,
bị đánh đòn một trận rồi mới được thả ra. Sách Công vụ viết khi ấy các ông lòng
đầy hân hoan vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Thánh
Phaolô cũng thế, sau biết bao gian truân nguy hiểm vì loan báo Tin Mừng, ngài
nói “Tôi sung sướng vì được thông phần cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô trong
thân xác tôi”. Ngài còn nói “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô“, cái
thập giá mà những người trí thức hy lạp coi là điên rồ và những người do thái
sùng đạo coi là cớ vấp phạm.
2.
“Khi tôi ngắm
cõi trời“
Một đêm nào đó trời thanh mây
tạnh, chúng ta hãy ra khỏi nhà, ngước mắt nhìn lên bầu trời. Chúng ta thấy gì ?
Chúng ta sẽ thấy các tinh tú hằng hà sa số, có cái sáng nhiều có cái sáng ít,
có cái nằm riêng rẻ có cái ở trong một chùm sao.
Trong hằng hà sa số các tinh
tú ấy, trái đất chúng ta chẳng đáng là gì cả. Một hành tinh nhỏ bé, rất nhỏ bé.
Thế mà Thiên Chúa lại quan
tâm đặc biệt đến hành tinh nhỏ bé này. Trong vô vàn tinh tú, chỉ có hành tinh
nhỏ bé này được hai vinh dự vô cùng to lớn :
– Vinh dự to lớn thứ nhất là
con người trên hành tinh nhỏ bé này được Thiên Chúa đặt làm chủ tể mọi loài
trong vũ trụ rộng lớn bao la.
– Vinh dự to lớn thứ hai là
không một hành tinh nào khác ngoài hành tinh này được Ngôi Hai Thiên Chúa đến
cư ngụ. Chẳng những thế, Ngài còn chịu chết ở cái hành tinh nhỏ bé này nữa.
Tác giả Thánh Vịnh 8 đã ngỡ
ngàng không hiểu nỗi tình yêu bao la của Thiên Chúa và hạnh phúc vô cùng của
con người : “Khi tôi nhìn ngắm cõi trời, công cuộc tay Chúa tạo ra, mặt
trăng và muôn tinh tú mà Chúa tôi gầy dựng, thì nhân loại là chi mà Chúa tôi nhớ
đến, con người là gì mà Chúa để ý chăm nom. Chúa dựng nên con người chỉ kém
thiên thần một chút. Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang. Chúa
đặt con người cai trị các công trình tay Chúa tác thành. Chúa đặt muôn vật dưới
chân con người.”
3.
Một cuộc sống
đáng mơ ước
Chúng ta không sống cô độc một
mình, nhưng cùng sống với những người khác : gia đình, vợ chồng, bạn bè, đồng
nghiệp, cộng đoàn giáo xứ v.v.
Trong những cộng đoàn sống
chung ấy, chúng ta thường mơ ước :
– Phải chi mọi người đều “trong
suốt” với nhau, nghĩa là ai nấy cũng hiểu nhau vì ai nấy đều chân thành tỏ
cho nhau hết mọi ý nghĩ của mình.
– Phải chi mọi người đều hết
lòng yêu thương nhau, nghĩa là chỉ có yêu thương chứ không hề có một
chút gì là ganh ghét, đố kỵ, e dè nhau…
– Phải chi mọi người đều hết
sức hợp tác giúp nhau trong mọi công việc.
– Phải chi mọi người đều chia
xẻ tất cả những gì của mình để tất cả đều là của chung.
Đó chính là cuộc sống của Ba
Ngôi Thiên Chúa.
Chúng ta mơ ước cuộc sống đó.
Mơ ước này không phải chỉ là ước mơ suông không bao giờ đạt được. Chúa Giêsu
nói Thiên Chúa sẵn sàng thông chia cho chúng ta cuộc sống ấy nếu chúng ta biết
thông hiệp với Ba Ngôi Thiên Chúa.
4.
Vài suy
nghĩ về Thiên Chúa là Cha
a/ Thế nào là một người
cha ?
– Cha là kẻ yêu thương con
mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại
. Ngay cả trước khi
đứa con sinh ra : vừa biết nó thụ thai thì đã yêu thương và nôn nóng chờ
ngày nó sinh ra.
. Ngay cả khi
chưa biết sau này nó sẽ ra sao : chưa biết sau này nó đẹp hay xấu, thông
minh hay ngu đần, khoẻ mạnh hay yếu ớt, tốt hay xấu, hiếu thảo hay ngỗ nghịch…
Chỉ vì nó là con cho nên mình yêu thương nó.
– Cha là kẻ muốn cho con mình
tất cả những gì mình có :
. Người cha nào
cũng muốn đứa con khoẻ như mình, thông minh như mình, giỏi như mình, khéo như
mình, có của cải địa vị như mình, hạnh phúc như mình… Thậm chí còn hơn mình… Và
làm tất cả để đứa con được như thế.
– Cha là kẻ không bao giờ
quên con và bỏ con :
. Chỉ có con
quên cha và bỏ cha, chứ không hề có cha quên con và bỏ con. Dù đứa con ấy xấu
xa và ngỗ nghịch đến đâu đi nữa, Cha vẫn yêu thương nó.
– Hạnh phúc và đau khổ của
người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ.
. Cha sung sướng khi thấy con
vui, con khoẻ, con thành đạt… Cha đau buồn khi thấy con bất hạnh, khổ sở…
– Cha là kẻ lệ thuộc
con :
. Yêu thương ai là lệ thuộc
người ấy, là để cho người ấy có quyền trên mình, mình ở thế yếu đối với người ấy.
. Trẻ con dù rất yếu ớt nhưng
lại có quyền lực rất lớn trên cha mẹ. Do đó chúng nhõng nhẽo, đòi cái này cái nọ,
giận không thèm ăn uống khi không được cho cái mà chúng đòi… Những yêu sách ấy
của chúng đã làm cho cha mẹ phải “điêu đứng” khổ sở.
b/ Thiên Chúa là Cha của
Chúa Giêsu và là Cha của chúng ta
Tất cả những gì ta đã nói về
người cha tự nhiên đều đúng với Thiên Chúa, và đúng một cách tuyệt đối, trọn vẹn :
– Cha là kẻ yêu thương con
mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại : “Từ muôn đời Chúa đã yêu con”
– Cha là kẻ muốn cho con mình
tất cả những gì mình có :
. Sách Sáng thế nói Thiên
Chúa dựng nên con người theo hình ảnh Ngài.
. Tin Mừng Ga
ghi lại lời Chúa Giêsu “Mọi sự của Cha là của Con” (Ga 17,10)
– Cha là kẻ không bao giờ
quên con và bỏ con :
. Điều này hoàn toàn và tuyệt
đối đúng với Thiên Chúa : “Con người có thể sống không Thiên Chúa, nhưng
Thiên Chúa không thể thôi làm Cha được” (Louis Evely).
. Dụ ngôn người
cha nhân hậu và đứa con hoang đàng minh họa điều này rất rõ.
– Hạnh phúc và đau khổ của
người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ.
. “Thiên Chúa là người táo bạo
nhất trong thiên hạ, bởi vì Ngài đã dám đặt tất cả hạnh phúc của mình trong
hành vi yêu thương. Ngài đã để hạnh phúc mình tuỳ thuộc vào một kẻ khác” (Louis
Evely)
– Cha là kẻ lệ thuộc
con :
. “Thiên Chúa là Cha, Cha
cách trọn vẹn, hoàn toàn. Chúng ta thì khác, chúng ta chỉ là cha một ít thôi. Đồng
ý rằng ta là cha của con cái chúng ta, nhưng chúng ta cũng còn lệ thuộc đủ mọi
thứ khác như là công việc, nghề nghiệp, cuộc sống hôn nhân, những sở thích
riêng tư, những thành công, những việc giải trí của mình, và chúng ta lại cũng
còn lệ thuộc về chính mình nữa. Chúng ta không là cha cho đủ… Chỉ một mình
Thiên Chúa mới là Cha mà thôi. Đối với Con của Ngài, Ngài đã hiến mình trọn vẹn.
Nơi Ngài không còn có một phần nhỏ nhoi nào là quay trở về mình, là tìm “cái
tôi” nữa” (Louis Evely)
* Tóm lại Thiên Chúa là Cha ở
chỗ “Thiên Chúa chỉ biết yêu thương và trao ban. Ngoài ra Ngài không là cái gì
khác nữa” (Louis Evely)
5.
Thiên Chúa
trổi vượt trên cha mẹ trần thế
Trong phòng xử án Toà án nhân
dân Thành phố Hồ chí Minh sáng ngày 16-8-1996, ngay ở hàng ghế đầu, suốt những
giờ xét xử của Hội đồng xử án, một người đàn bà với đôi mắt ướt đẫm nước mắt, cứ
nhìn đăm đăm vào chiếc lưng của bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa. Đó là
chiếc lưng của đứa con đầu lòng của bà trong chiếc áo tù, và có in ký hiệu
“AB”. Cho đến khi công tố viên đọc xong lời buộc tội và đề nghị mức án “hai mươi
năm tù vì tội giết người” bà bỗng nấc lên một tiếng rồi ngất xỉu. Bà ngất xỉu
có lẽ vì bà chịu đựng không nổi mức án dành cho con bà : 20 năm tù vì cái
tội giết người ; mà người nó định giết không ai khác hơn là chính bà. Bà
là mẹ của bị cáo và cũng chính là người bị hại !
Hơn một năm trước đây, vào
ngày 16 tháng 7, 1995, chính nó đã cầm một thanh gỗ tròn dài nửa mét đánh vào đầu
bà, rồi cầm một con dao đâm vào ngực bà. Người đầm đìa máu bà ngã xuống ngất xỉu
– vì con. Hôm nay bà lại ngã xuống, ngất xỉu… cũng vì con.
Con bà – Lương Quốc Tuấn,
sinh năm 1976, ở quận 11, làm thợ cửa sắt. Từ khi lên 5 tuổi, cha của Tuấn đã bỏ
mẹ con Tuấn đi sống với người khác. Mẹ của Tuấn lặn lội nuôi hai đứa con thơ lớn
lên. Thế mà… Sáng hôm đó, chúa nhật, Tuấn dậy trễ. Tuấn hỏi xin mẹ mấy ngàn ăn
hủ tiếu. Mẹ Tuấn không cho, bảo lấy mì ăn liền nấu ăn. Tuấn khai trước
toà : “Mẹ nói từ ngày quen con nhỏ đó thân ốm nhom ốm nhách, không tiền
không bạc… mẹ không cho tiền còn nói nọ nói kia…” Thế là Tuấn đã làm cái điều
mà có lẽ nghe đến, ai cũng phải thấy rợn cả người : đánh, giết mẹ ! Với
10 vết thương, chỉ có hai vết ở tay, còn lại toàn ở đầu và ngực nhưng khi từ bệnh
viện sau sáu ngày điều trị trở về, bà lại ráng sức để xách đồ ăn vào thăm con
đang bị giam trong tù ! Sợ con bị đưa ra toà, bà đã viết giấy bãi nại xin
xóa tội cho con. Và trước toà, bà cứ khóc nói : “Từ nhỏ đến khi lớn nó
ngoan lắm. Nó không uống rượu, không hút thuốc, xin toà giảm tội !” Rồi bà
nức nở tỏ ra ray rứt, ân hận, trách mình : “Tôi không nuôi nó ăn học đến
nơi đến chốn. Nó phải đi làm sớm, lúc học xong lớp 8.” Hoàn toàn bà không hề nhắc
gì đến cái tội tày trời mà đứa con của mình đã mắc phải.
Bên trong phòng xử án, khi bà
tỉnh lại, phóng viên Hoàng Chức Nguyên đến xin hỏi chuyện bà, bà lại khóc
nói : “Tôi không nói được gì đâu, đau đớn quá.” Khi có các phóng viên đến
chụp ảnh con bà đang bị một tay còng vào ghế, bà van nài : “Xin đừng chụp ảnh
con tôi…” Khi những người công an còng hai tay con bà giải đi, bà đã lao người
với theo, bà ngã trong vòng tay của người quen. Lúc ấy phóng viên lại thấy rất
rõ một vết thẹo trên trán bà. Vết thẹo do chính tay con bà cầm một thanh gỗ đập
vào để lại… (theo Tuổi Trẻ 17-8-1996, trang 2).
Chắc không ai lại không bị
đánh động do câu chuyện vừa kể. Một đàng là khối tình quá lớn nơi người mẹ,
đàng khác là điều gì đó hơn là sự vô ơn bạc nghĩa về phía người con, có khi những
con vật không xử sự với mẹ chúng cách tàn nhẫn đến như vậy ! Nhưng như vậy
lại càng làm nổi bật khối tình trước sau như một, vô điều kiện và cho không nơi
người mẹ. Thử hỏi do đâu mà người mẹ có được thứ tình yêu cao cả đến như thế ?
Ta nên để ý về lời cắt nghĩa của sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo về vấn đề
này liên quan tới Thiên Chúa Ba Ngôi như sau :
“Khi gọi Thiên Chúa là “Cha”,
ngôn ngữ đức tin chủ yếu muốn nêu lên hai khía cạnh : Thiên Chúa là nguồn
gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu
yêu thương chăm sóc mọi con cái. Nơi Thiên Chúa, tình cha con trìu mến này cũng
có thể diễn tả qua tình mẫu tử. Hình ảnh này làm rõ nét hơn tính nội tại của
Thiên Chúa, mối thâm tình giữa Thiên Chúa và thụ tạo. Như vậy, ngôn ngữ đức tin
được hình thành từ kinh nghiệm về cha mẹ trần thế, những người dưới một khía cạnh
nào đó, là đại diện đầu tiên của Thiên Chúa nơi con người. Nhưng kinh nghiệm đó
cũng cho thấy là cha mẹ trần thế có thể làm sai lệch và bóp méo hình ảnh làm
cha làm mẹ. Cho nên, cần phải nhắc lại là Thiên Chúa vượt trên sự phân biệt
phái tính của người phàm. Người không là nam mà cũng không là nữ. Người là
Thiên Chúa. Vì Người là nguồn gốc và là chuẩn mực cho chức năng làm cha làm mẹ,
nên Người luôn trổi vượt trên cha mẹ trần thế : không ai là cha một cách
trọn hảo như Thiên Chúa (GLGHCG,239).
Bạn có tin vui nào để nói
với gia đình này ?
Nhưng câu chuyện lại cho thấy
một hình ảnh của một gia đình bi đát. Chồng đã bỏ vợ và hai con nhỏ, nay đứa
con đầu lòng lớn lên dám đâm chém người mẹ đã sinh ra mình, để rồi lãnh 20 năm
tù ! Nếu Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền
siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái, Ngài có
kế hoạch nào hữu hiệu để cứu vãn gia đình này chăng ? Nếu bạn là người từng
tìm hiểu và chia sẻ đời sống Tin Mừng của Đức Kitô, Đấng cứu độ trần gian,
chính bạn có tin vui nào để nói với gia đình này, với người mẹ đáng kính, người
con ngồi tù, hoặc với người bố đi hoang cần được kêu gọi trở về ? Ở đây
không bàn về công tác xã hội nhưng chủ yếu bàn về niềm tin, khởi đi từ niềm tin
đối với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nhờ lý trí tự nhiên, con người
có thể nhận biết Thiên Chúa cách chắc chắn, dựa vào những công trình của Người.
Hãy coi người mẹ trong câu chuyện nói trên là công trình kỳ diệu biết bao về
yêu thương. Nhưng còn có một loại nhận biết khác, mà con người không thể đạt tới
bằng sức lực của chính mình, đó là loại nhận biết nhờ mạc khải của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã mạc khải cho ta
biết Thiên Chúa là CHA theo một nghĩa chưa từng có : Người không chỉ là
cha vì là Tạo Hoá, từ muôn thuở Người là Cha trong tương quan với Con duy nhất,
Ngôi Con từ muôn thuở cũng chỉ là Con trong tương quan với Ngôi Cha :
“Không ai biết Người Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha trừ Người
Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho.” (Mt 11,27) – GLGHCG, 240.
Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu
báo tin sẽ cử một Đấng Bào Chữa khác, đó là Chúa Thánh Thần. Người tác động từ
thuở khai thiên lập địa (x. St 1,2). Người đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy
(Kinh Tin Kính Nixêa Contantinôpôli). Nay Người sẽ ở lại với và trong các môn đệ
(x.Ga 14,17) để dạy bảo (Ga 14,26) và dẫn đưa họ đến sự thật trọn vẹn” (Ga
16,13). Chúa Thánh Thần được mạc khải như một Ngôi Vị Thiên Chúa, khác với Đức
Giêsu và với Chúa Cha (GLGHCG, 243).
Mọi người trong gia đình phạm
nhân Lương Quốc Tuấn trong câu chuyện, đều cần được vén màn cho thấy Thiên Chúa
là hạnh phúc trường cửu, sự sống bất diệt, ánh sáng không tàn lụi. Thiên Chúa
là tình thương tràn lan giữa Ba Ngôi vị tựa như sức nóng và ánh sáng tràn lan từ
mặt trời. Thiên Chúa tự ý muốn thông chia vinh quang sự sống hạnh phúc của Người.
Đó là “kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa từ thuở đời đời” (x.Ep 1,9). Người đã
cưu mang kế hoạch đó từ trước khi tạo dựng vũ trụ nơi Con yêu dấu của Người là
Đức Giêsu Kitô. “Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử trong Con của Người”
(Ep 1,4-5). Ta được mời gọi “trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Người” (Rm
8,29) nhờ “Thần Trí làm nên nghĩa tử” (Rm 8,15), kế hoạch này đúng là “ân sủng
được trao ban từ muôn thuở” (2Tm 1, 9-10) xuất phát trực tiếp từ tình thương Ba
Ngôi. Tình thương này được trải ra trong cuộc sáng tạo, trong toàn bộ lịch sử cứu
độ sau khi nguyên tổ sa ngã, trong sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần,
Thánh Thần mà sứ mạng Hội Thánh nối tiếp (Sắc lệnh Truyền Giáo AG 2-90).
Chính theo kế hoạch yêu
thương của Ba Ngôi mà mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn, kể cả
chính phạm nhân, người bố của phạm nhân và người mẹ đáng mến của anh, đều được
mời gọi đạt tới hạnh phúc bất diệt chính họ hằng ao ước. (Lm Augustine, sj.
Vietcatholic)
6.
Ba Ngôi
Thiên Chúa, một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương
Người ta kể rằng : Thánh
Augustin, một hôm đi bách bộ dọc bờ biển Địa Trung Hải, vừa đi vừa suy nghĩ về
mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng nhiên Thánh nhân gặp một em nhỏ lấy vỏ sò múc nước
đổ vào một cái lỗ. Đang còn ngạc nhiên về công việc luống công vô ích này, em
bé đã trả lời : việc em múc hết nước biển đổ vào lỗ nhỏ, còn dễ hơn điều
mà Thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Rồi em bé biến đi.
Nhớ lại lớp giáo lý xa xưa, ở
đó, Chúa Ba Ngôi được ví như một hình tam giác đều, có ba góc bằng nhau. Hay
chúng ta cũng được nghe so sánh Chúa Ba Ngôi với nước ở ba thể : khí, lỏng
và rắn… Tuy nhiên, tất cả những lối so sánh ấy dường như quá khô khan, vì không
phản ánh một cách trung thực và sống động hình ảnh thật sự của Ba Ngôi Thiên
Chúa.
Cách đây vài năm, vào ngày cuối
của khoá học về Chúa Ba Ngôi, cha giáo sư hỏi chúng tôi :
– Bây giờ các anh chị đã hiểu
mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chưa ?
Gần như cả lớp đồng
thanh :
– Thưa cha hiểu.
Cha bật cười :
– Vậy thì các anh chị giỏi
hơn tôi rồi !
Dĩ nhiên, con người giới hạn
của chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm quá siêu vượt này, nhưng để sống, lại
là điều hoàn toàn có thể. Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là hình ảnh rất thân quen, rất
gần gũi nếu nhìn Ba Ngôi dưới khía cạnh tình yêu. Vâng, Ba Ngôi Thiên Chúa
chính là một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Tình yêu ấy đã không giữ lại cho
mình, nhưng đổ tràn vào trần gian. Một tình yêu tràn ngập vũ trụ khi Thiên Chúa
Cha dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài ; là tình yêu cứu độ, thứ
tha qua cái chết nhục nhằn của Chúa Con chí thánh ; là tình yêu thánh hóa,
đổi mới trong Thánh Thần. Thánh Gioan đã định nghĩa : Thiên Chúa là tình
yêu. Một tình yêu chan hòa, chia sẻ giữa Ba Ngôi : Cha trao cho Con tất cả,
Con dâng tất cả cho Cha, tình yêu khắng khít giữa Cha-Con là Thánh Thần. Tình
yêu chân thực là tình yêu hiến trao, không phải chỉ là trao quà tặng hay cái gì
đó ở bên ngoài mình, nhưng là trao đi điều quý nhất : “Thiên Chúa yêu
thế gian, đến nỗi tặng ban cả Con Một…”
Thiết nghĩ không có hình ảnh
nào diễn tả đẹp hơn mầu nhiệm Ba Ngôi cho bằng hình ảnh một gia đình : vợ
chồng yêu thương nhau và con cái là kết tinh của tình yêu.” Mình với ta tuy hai
mà một… Ta thương nhau quá nên hai hóa ra thành một”. Dù là hai, bốn, mười hoặc
nhiều hơn đi nữa, nhưng gia đình, cộng đoàn chúng ta sẽ thực sự phản ánh sự hiện
diện của Thiên Chúa Ba Ngôi, nếu chúng ta chỉ có một trái tim để yêu thương, một
niềm vui để chia sẻ, một nỗi buồn để cảm thông nâng đỡ, một khát vọng nên
thánh… Tiếc rằng ngày nay, nhiều gia đình, cộng đoàn đã không còn là tổ ấm,
nhưng biến thành nhà trọ : khách đến rồi khách lại đi, chẳng cần biết những
người thân yêu của mình đang nghĩ gì, làm gì, cần gì và sống như thế nào !
Đời sống gia đình nặng nề, khó thở và tẻ nhạt, bởi vì nơi ấy đã không còn tình
yêu nữa.
Chợt nhớ lại câu chuyện khá
ngộ nghĩnh xảy ra tại một cộng đoàn các sư huynh ở Việt Nam. Cộng đoàn gồm ba vị,
người Việt mình thường quen gọi là các “phe” (frère). Lần kia, một nhân viên của
sở bưu điện đem thư đến, vừa giao thư vừa lẩm bẩm : “Nhà có ba người
thì ba phe, sống chó gì được !” (chỉ là vì trên bì thư, người gởi viết :
Kính gởi phe M., phe H., phe B.). Thật là một sự hiểu lầm tai hại !
Chúng ta sẽ mãi còn xa lạ với
mầu nhiệm Ba Ngôi, nếu chúng ta còn xa lạ với tình yêu được bắt đầu ngay trong
gia đình, cộng đoàn. Gia đình, cộng đoàn chúng ta hãy trở thành một bản nhạc du
dương hòa điệu, trong đó mỗi người là một nốt nhạc đã được Thiên Chúa đặt để.
Xin đừng tự ý thăng giáng, cũng đừng thay đổi vị trí, vai trò của mình. Hãy sống
đúng bổn phận Chúa trao, và như thế, mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn và quy
hướng về tình yêu, tình yêu của mầu nhiệm Ba Ngôi mà mỗi ngày chúng ta lặp lại
nhiều lần khi làm dấu thánh giá : Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần.(Sr Têrêsa, trích từ Vietcatholic)
7.
Nhìn thấy
Chúa
Một vị vua kia đến cuối cuộc
đời cảm thấy buồn chán. Ông nói : “Suốt đời ta, ta đã cảm thụ được tất cả
những gì mà một con người có thể cảm thụ được bằng các giác quan. Nhưng vẫn còn
một điều ta chưa được thấy, đó là ta chưa thấy Chúa. Bây giờ nếu ta chỉ được
nhìn thấy Chúa một thoáng thôi thì ta cũng sẽ mãn nguyện mà chết”. Nhà vua tham
khảo ý kiến những bậc khôn ngoan, hứa cho họ đủ thứ phần thưởng nếu họ giúp ông
thực hiện điều mơ ước ấy. Nhưng chẳng ai giúp được.
Thế rồi có một chàng chăn cừu
nghe chuyện trên và tìm đến gặp nhà vua. Chàng nói : “Có lẽ hạ thần có thể
giúp Bệ Hạ được”. Nhà vua rất sung sướng theo người chăn cừu leo lên nhiều ngọn
đồi. Khi đến đỉnh một ngọn đồi nọ, người chăn cừu đưa tay chỉ mặt trời và bảo :
“Hãy xem kìa”. Nhà vua ngước mắt nhìn lên nhưng liền nhắm lại ngay vì chói quá.
Ông bảo : “Nhà ngươi muốn cho ta mù sao !” Người chăn cừu đáp :
“Tâu Bệ Hạ, đây chỉ mới là một phần nhỏ của vinh quang Thiên Chúa mà Bệ Hạ còn
nhìn không nổi. Thế thì làm sao Bệ Hạ có thể nhìn được Thiên Chúa bằng cặp mắt
bất toàn của Bệ Hạ ? Bệ Hạ phải tìm cách nhìn Ngài bằng cặp mắt khác”.
Nhà vua rất thích ý tưởng ấy,
nói : “Ta cám ơn ngươi đã mở cắp mắt trí khôn của ta. Bây giờ hãy trả lời
cho câu hỏi khác của Ta : Thiên Chúa sống ở đâu ?” Người chăn cừu lại
đưa tay chỉ lên trời : “Bệ Hạ hãy nhìn những con chim đang bay kia. Chúng
sống trong bầu không khí bao quanh. Chúng ta cũng thế, chúng ta sống trong sự bảo
bọc của Thiên Chúa. Xin Bệ Hạ đừng tìm kiếm nữa, mà hãy mở rộng mắt ra để nhìn,
mở tai ra để nghe. Thế nào Bệ Hạ cũng thấy được Ngài. Thiên đàng ở ngay dưới
chân chúng ta cũng như ở ngay trên đầu chúng ta”.
Nhà vua dừng bước, cố gắng
nhìn, cố gắng lắng nghe. Thế là một cảm giác bình an lộ rõ trên khuôn mặt buồn
thảm của ông. Người chăn cừu nói tiếp : “Tâu Bệ Hạ, còn một điều nữa”. Rồi
chàng dẫn nhà vua đến một cái giếng. Nhà vua nhìn xuống mặt nước bằng phẳng, hỏi :
“Ai sống dưới đó thế ?” Người chăn cừu đáp : “Thiên Chúa”. “Ta có thể
nhìn thấy Ngài không ?” “Được chứ, Bệ Hạ chỉ cần nhìn”. Nhà vua chăm chú
nhìn xuống giếng, nhưng chỉ thấy gương mặt của mình phản chiếu trên mặt nước.
Ông nói : “Ta chỉ thấy mặt Ta thôi”. Người chăn cừu giải thích : “Bây
giờ thì Bệ Hạ đã biết Thiên Chúa sống ở đâu rồi. Ngài sống trong Bệ Hạ đó”.
Nhà vua nhận ra rằng người
chăn cừu khôn ngoan và giàu có hơn ông. Ông cám ơn chàng và trở về hoàng cung.
Chẳng ai biết ông có nhìn thấy Thiên Chúa không, nhưng ai cũng nói rằng có một
điều gì đó đã biến đổi trái tim ông, bởi vì từ đó trở đi ông đối xử rất nhân hậu
với mọi người, kể cả người đầy tớ hèn hạ nhất của ông.
Thiên Chúa ở khắp chung quanh
chúng ta. Nhưng chừng nào chúng ta chưa khám phá Ngài ở ngay trong lòng chúng
ta thì Ngài như vẫn còn ở xa, vẫn như một người lạ thờ ơ vô tình. Còn khi chúng
ta cảm nhận Ngài ở trong chúng ta thì không bao giờ chúng ta còn cảm thấy cô
đơn nữa, và khi đó chúng ta sẽ nhìn thấy thiên nhiên là một công trình của một
Đấng Nghệ Sĩ thân thiết của chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi vừa ở
trong chúng ta vừa siêu vượt chúng ta. Đúng là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu
nhiệm tình yêu. (FM)
8.
Những hình ảnh
của Thiên Chúa
Người Châu Phi có một câu
chuyện sau đây về Thiên Chúa :
Một hôm Thiên Chúa đi thăm
châu lục rộng lớn này và Ngài thấy có một bộ lạc bị mất đức tin. Thế là Ngài hiện
ra giữa một mảnh ruộng đang có 4 người làm việc, mỗi người một góc. 4 người này
thấy Chúa hiện ra giữa mảnh ruộng. Họ chăm chú nhìn Ngài rồi phục mình thờ lạy.
Sau đó Thiên Chúa biến hình rồi
xem sự việc sau dó diễn tiến thế nào. 4 người kia chạy vào làng và nói rằng :
đúng là có Thiên Chúa vì họ đã thấy Ngài hiện ra. Từ này về sau chúng ta đừng sống
vô thần nữa mà phải lo thờ phượng Chúa. Mọi người nghe đều tin là Thiên Chúa đã
hiện ra thật. Nhưng một người hỏi : “Thế thì Thiên Chúa mặc áo màu
gì ?”
– Ngài mặc áo đỏ. Người thứ
nhất trả lời.
– Không, Ngài mặc áo xanh.
Người thứ hai cãi lại.
– Hai đứa bây sai cả. Ngài mặc
áo màu lục. Người thứ ba nói thế.
– Tất cả đều điên hết rồi.
Người thứ tư la to. Ngài mặc áo vàng.
Thế là mọi người cãi nhau chí
choé, rồi ấu đả nhau. Cuối cùng bộ lạc chia thành 4 phe.
Qua câu chuyện trên, chúng ta
thấy mọi người dân bộ lạc ấy đều sai lầm. Thực ra mỗi người chỉ thấy một thoáng
về Thiên Chúa. Lẽ ra mỗi người phải biết rằng mình chỉ thấy được một phần thì họ
cho rằng họ thấy toàn vẹn. Nếu như họ biết lấy cái nhìn của người khác để bổ
sung cho cái nhìn của mình thì họ sẽ có một hình ảnh đầy đủ và phong phú hơn về
Thiên Chúa.
Thiên Chúa lớn hơn tất cả
chúng ta. Chúng ta không bao giờ hiểu biết trọn vẹn về Ngài. Để hiểu biết những
sự dưới thế chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều, thế thì làm sao chúng ta nắm bắt
được những sự trên trời. Chỉ có ơn ban khôn ngoan mới giúp chúng ta hiểu được
đường lối của Thiên Chúa. Con người có thể biết những chân lý đức tin, nhưng
không thể hiểu biết chính Thiên Chúa.
Cần phải có một hình ảnh đúng
đắn về Thiên Chúa, nếu không thì mọi sự sẽ lạc hướng cả. Làm sao chúng ta có thể
thờ phượng Ngài cho phải đạo hoặc có một liên hệ đúng đắn với Ngài nếu chúng ta
có một hình ảnh sai lạc về Ngài ?
Muốn biết Thiên Chúa là thế
nào, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, vì, như Thánh Phaolô nói, “Ngài là hình ảnh
Thiên Chúa vô hình”. Vậy, Chúa Giêsu ra sao ? Trong mọi hình ảnh Chúa
Giêsu, hình ảnh đẹp nhất là Mục Tử nhân lành. Chính Chúa Giêsu đã mô tả mình bằng
hình ảnh này. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành, hiến mạng sống mình cho đàn
chiên. Trong hình ảnh Chúa Giêsu, chúng ta thấy được tình thương Thiên Chúa
dành cho chúng ta.
Còn Chúa Thánh Thần thì thế
nào ? Chúa Thánh Thần chính là tình thương giữa Chúa Cha với Chúa Con, và
giữa các Đấng với chúng ta.
Mầu nhiệm Ba Ngôi không phải
là vấn đề để tranh luận, cũng không phải là vấn đề để học biết, mà là để cầu
nguyện và để sống. Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần. Thế giới này không phải là một thế giới ở đâu xa xôi, mà chính là
thế giới mà ta sống hằng ngày. Như câu chuyện của Châu Phi vừa kể phía trên, thế
giới ấy là thế giới mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta. (FM)
V. Lời nguyện
cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, chúng ta cùng dâng lên
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần lời khẩn cầu cho Hội thánh là Mẹ chúng ta
và cho toàn thể thế giới :
- Hội thánh là dấu chỉ tình yêu của Chúa dành cho
muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội thánh / luôn hiệp
nhất trong yêu thương và chân lý vẹn toàn.
- Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót /
Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi người / nhận biết Chúa là
Cha nhân hậu từ bi.
- Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu độ duy nhất của trần
gian / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai thành tâm đi tìm
Chúa / đều được hạnh phúc gặp Người.
- Chúa Thánh thần là Đấng Thánh hóa nhân loại /
Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban Thánh thần cho cộng đoàn giáo xứ chúng
ta / để Người giúp chúng ta nên thánh trong bổn phận thường ngày.
Chủ tế : Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi toàn năng hằng hữu, xin
nhậm lời chúng con cầu nguyện và ban cho chúng con luôn cố gắng sống xứng đáng
với tình thương hải hà của Chúa. Chúng con cầu xin
VI. Trong
Thánh Lễ
– Chủ tế chú ý nhấn mạnh tất
cả những đoạn kết của các lời cầu nguyện có công thức Ba Ngôi.
– Trước kinh Lạy Cha :
Lời kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy cố gắng đọc lên với cả tâm tình con thảo
như Chúa Giêsu và do Chúa Thánh Thần khơi lên trong lòng chúng ta.
VII. Giải
tán
Chúng ta đã dâng Thánh lễ tôn
kính Thiên Chúa Ba Ngôi đầy tình yêu thương. “Xin chúc anh chị em được đầy ân sủng
của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa
Thánh Thần”.
Lm.
Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Lễ Chúa Ba
Ngôi (C)
Sunday 16 June, 2019
Lời hứa về
Chúa Thánh Thần:
Nhân danh
Chúa Cha, Chúa Giêsu sẽ gửi Chúa Thánh Thần
Ga 16:12-15
1. Bài Đọc
a) Lời nguyện mở đầu:
Lạy Thiên Chúa, qua việc sai
Con Một của Ngài là Chúa Giêsu xuống thế gian đã mặc khải dồi dào tình yêu của
Chúa dành cho sự cứu rỗi của muôn người, xin Người luôn ở lại với chúng
con và tiếp tục mặc khải những căn tính của Chúa về lòng trắc ẩn, nhân từ,
khoan dung và chung thủy. Chúa Thánh Thần của Tình Yêu, xin hãy giúp
chúng con phát triển trong sự hiểu biết về Chúa Con để chúng con có thể có được
sự sống.
Cậy nhờ ơn Chúa và bằng cách
suy gẫm Lời Chúa trong ngày lễ này, xin cho chúng con được trở nên hiểu biết
hơn rằng mầu nhiệm của Chúa là một bài thánh ca về tình yêu chia sẻ. Chúa
là Thiên Chúa của chúng con và không phải là Thiên Chúa đơn độc. Chúa
là Chúa Cha, Đấng toàn năng. Chúa là Chúa Con, Ngôi Lời đã mặc lấy
xác loài người, gần gũi và yêu thương trong tình anh em. Chúa là
Chúa Thánh Thần, một tình yêu ôm trọn tất cả.
b) Bài Tin Mừng:
12 “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con nhưng
bây giờ các con không thể lĩnh hội được. 13 Tuy nhiên, khi
Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy cho các con biết tất cả sự thật, vì Người không
tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy; và Người sẽ bảo cho các con
biết việc tương lai. 14 Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì
Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con. 15 Tất
cả những gì Cha có, đều là của Thầy; vì thế Thầy đã nói: “Người sẽ
lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con.”
c) Giây phút thinh lặng cầu
nguyện:
Với lời của thánh Augustinô
chúng ta nguyện rằng: “Xin hãy ban cho con thời gian để suy niệm
về những mầu nhiệm của lề luật Chúa, xin Chúa đừng đóng chặt cửa với những kẻ
đã gõ cửa. Lạy Chúa, xin Chúa hãy thực hiện dự tính của Chúa trong
con và mở ra những trang đó. Xin Chúa ban cho con có thể tìm thấy ân
sủng Chúa và những mầu nhiệm sâu xa về Lời Chúa được mặc khải cho con khi con
gõ cửa”.
2. Suy Gẫm
a) Lời mở đầu:
Trước khi chúng ta bắt đầu phần
đọc Lời Chúa, điều quan trọng là chúng ta hãy tạm dừng lại một chút trên bối cảnh
của đoạn Tin Mừng phụng vụ của chúng ta. Theo những nhà chú giải
Kinh Thánh, Lời của Chúa Giêsu trong sách Tin Mừng Gioan đoạn 16:12-15 là một
phần của sách Khải Huyền (13:1-17:26). Trong bài giảng từ biệt của
mình, Chúa Giêsu đã bày tỏ sự thân mật của Người, Người gọi các môn đệ là bạn hữu
và hứa với các ông rằng Chúa Thánh Thần sẽ đồng hành cùng các ông khi các ông
thừa nhận mầu nhiệm Ngôi Vị nhập thể của Người. Sau đó, các môn đệ
được mời gọi góp phần vào việc tăng tiến trong tình yêu đối với Thầy mình là
người đã ban tặng hoàn toàn chính bản thân Người cho các ông.
Trong đoạn Tin Mừng này,
chúng ta có thể phân loại được ba phần hoặc ba tiến trình rõ rệt. Phần
thứ nhất gồm có các chương 13-14 và theo một chủ đề sau đây: một cộng
đoàn mới đã được thành lập trên giới răn mới của tình yêu
thương. Qua sự hướng dẫn của Chúa Giêsu, Người giải thích rằng việc
thực hành tình yêu thương là phương cách mà cộng đoàn phải đi qua trong hành
trình tiến về Chúa Cha. Trong phần thứ hai, Chúa Giêsu mô tả vị trí
của cộng đoàn ở giữa thế gian. Người nhắc nhở các ông rằng cộng đoàn
mà Người vừa thành lập phải thực hiện sứ vụ của mình ở giữa một thế giới thù địch
và họ chỉ có thể thu nhận được những thành viên mới nếu họ thực hành tình yêu
thương. Đây là ý nghĩa của việc “sinh hoa kết trái” theo phần vụ của
cộng đoàn. Điều kiện cho một tình yêu sinh hoa trái trong thế gian
là: ở lại trong hiệp nhất cùng Chúa Giêsu. Vì từ Người mà
sự sống tuôn chảy – Thần Khí Chúa (Ga 15:1-6); việc hiệp nhất với Chúa Giêsu với
một tình yêu như tình yêu thương của Người để thiết lập một mối quan hệ bằng hữu
giữa Chúa Giêsu và các môn đệ của Người (Ga 15:7-17)
Sứ vụ của cộng đoàn, giống
như sứ vụ của Chúa Giêsu, sẽ được thực hiện ở giữa thế gian đầy ghen ghét đố kỵ,
nhưng các môn đệ sẽ được giúp sức bởi Chúa Thánh Thần (Ga 15:26-16:25). Chúa
Giêsu bảo các ông rằng sứ vụ trong thế gian bao hàm sự đau khổ và vui mừng và
Người sẽ vắng mặt (Ga 16:16-23a). Chúa Giêsu đơn giản đoan chắc với
các ông về sự hỗ trợ của tình yêu Chúa Cha và việc chiến thắng thế gian của Người
(Ga 16:23b-33). Phần thứ ba của đoạn Tin Mừng này bao gồm lời cầu
nguyện của Chúa Giêsu: Người cầu nguyện cho cộng đoàn đương thời của
Người (Ga 17:6-19); cho cộng đoàn trong tương lai (Ga 17:20-23); và nói lên niềm
ước vọng của Người rằng Chúa Cha sẽ làm vinh hiển những kẻ đã biết Người và, cuối
cùng, sứ vụ của Người trong thế gian có thể được hoàn thành (Ga 17:24-26).
b) Suy Niệm:
– Tiếng
nói của Chúa Thánh Thần là tiếng nói của Chúa Giêsu
Trước đây, trong sách Tin Mừng
Gioan 15:15, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ về những gì Người nghe từ Chúa
Cha. Sứ điệp này đã hoặc không thể được hiểu thấu đáo bởi chính khả
năng của các ông. Lý do là các môn đệ, trong lúc ấy, đã lơ là với ý
nghĩa của cuộc tử nạn của Chúa Giêsu trên thập giá và việc thay thế phương cách
cứu độ cũ bằng phương cách mới. Với cái chết của Chúa Giêsu, một
dũng lực cứu chuộc mới và dứt khoát đã đi vào đời sống của nhân loại. Các
môn đệ sẽ hiểu Lời và các việc làm của Chúa Giêsu sau khi Người phục sinh (Ga
2:22) hoặc sau cái chết của Người (Ga 12:16).
Trong những lời giáo huấn của
Chúa Giêsu có nhiều việc và sứ điệp được hiểu bởi cộng đoàn môn đệ khi các ông
từ từ phải đối diện với những sự việc và tình huống mới; đó là trong đời sống hằng
ngày và trong ánh sáng sự Phục Sinh mà các ông sẽ hiểu được ý nghĩa cuộc tử nạn
thần thánh của Người.
Chính Chúa Thánh Thần, vị
ngôn sứ của Chúa Giêsu, Đấng sẽ thông tri với các môn đệ về những gì đã được
nghe từ Người. Sứ vụ mà cộng đoàn của Chúa Giêsu phải thi hành sẽ được
Chúa Thánh Thần thông tri với các ông một cách trung thực trong đó Người sẽ giải
thích và giúp các ông áp dụng rằng chính Chúa Giêsu là phương tiện để hoàn
thành sự biểu hiện tình yêu của Chúa Cha. Qua các sứ điệp tiên tri của
Người, cộng đoàn sẽ không truyền đạt một giáo điều mới nhưng thường xuyên nói về
con người thực sự của Chúa Giêsu, dưới sự chứng kiến và chỉ hướng về sứ vụ của
Người trong thế gian. Tiếng nói của Chúa Thánh Thần, mà cộng đoàn sẽ
nghe, là tiếng nói của chính Chúa Giêsu. Trong khi các tiên tri
trong Cựu Ước diễn nghĩa lịch sử trong ánh sáng của sự giao ước, thì Chúa Thánh
Thần trở thành một nhân tố quyết định trong việc loan báo về Chúa Giêsu, ban
cho cộng đoàn các tín hữu chìa khóa dẫn đến sự hiểu biết lịch sử như là một cuộc
đối đầu liên tục giữa những gì “thế gian” tin tưởng và kế hoạch của Thiên
Chúa. Điểm khởi đầu cho việc đọc về sự hiện diện của Người trong thế
gian là cuộc tử nạn đau thương của Chúa Giêsu, và khi các Kitô hữu trưởng thành
trong sự hiểu biết này họ sẽ khám phá ra trong đời sống hằng ngày “tội lỗi của
thế gian” và những tác hại của nó.
Vai trò của Chúa Thánh Thần
là một nhân tố quyết định cho việc diễn giải mầu nhiệm cuộc đời của Chúa Giêsu
trong đời sống của các môn đệ: Người là hướng dẫn viên của các ông
trong việc thay mặt cho nhân loại thực hiện một cam kết công lý. Để
thành công trong các công việc của mình cho nhân loại, một mặt khác, các môn đệ
đã phải lắng nghe những vấn nạn của đời sống và lịch sử, và lại còn phải chú
tâm tới tiếng nói của Chúa Thánh Thần, nguồn tin cậy duy nhất để có được ý nghĩa
đích thực của các sự kiện lịch sử trên thế gian.
– Tiếng nói của Chúa Thánh Thần: Đấng
diễn giải đích thật của lịch sử
Sau đó, Chúa Giêsu giải thích
bằng cách nào mà Chúa Thánh Thần diễn giải lịch sử và đời sống nhân loại. Trước
hết, bằng việc biểu hiện sự “vinh quang” của Người, đó là Người sẽ lãnh nhận “từ
nơi Thầy”. Một cách cụ thể hơn, “từ nơi Thầy” có nghĩa rằng Chúa
Thánh Thần truyền đi sứ điệp từ Chúa Giêsu, bất cứ những gì Chúa Giêsu đã
nói. Để thể hiện sự vinh hiển có nghĩa là biểu thị tình yêu mà Người
đã thể hiện bằng cái chết của minh. Những lời này của Chúa Giêsu rất
quan trọng bởi vì chúng tránh làm giảm vai trò của Chúa Thánh Thần thành một sự
chiếu sáng. Vai trò của Chúa Thánh Linh là để thông tri tình yêu của
Chúa Giêsu và đặt để Lời của Chúa Giêsu trong sự hài hòa với sứ điệp của Người
và cũng như với ý thức sâu sắc hơn về đời sống của Người: Tình yêu
được thể hiện bằng cách cho đi mạng sống của Người trên thập
giá. Đây là vai trò của Chúa Thánh Thần, Thần khí của sự thật. Hai
khía cạnh của vai trò Chúa Thánh Thần cho phép cộng đoàn tín hữu giải thích lịch
sử là: lắng nghe sứ điệp và hiểu thấu nó, và sống hài hòa với tình
yêu. Hơn nữa, Lời của Chúa Giêsu là để thông tri rằng chỉ có qua sự
truyền đạt tình yêu của Chúa Thánh Thần mới có thể biết rằng một người như thế
nào, để hiểu mục đích của đời sống, và để xây dựng một thế giới mới. Khuôn
mẫu luôn là tình yêu thương của Chúa Giêsu.
– Chúa
Giêsu, Chúa Cha, Chúa Thánh Thần và cộng đoàn tín hữu (câu 15)
Chúa Giêsu có ý gì khi Người
nói “tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy”? Trước hết, điều gì mà
Chúa Giêsu có đều đã được san xẻ với Chúa Cha. Món quà tặng đầu tiên
của Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu là sự vinh hiển của Người (Ga 1:14), hoặc nói một
cách chính xác hơn, tình yêu chung thủy, Chúa Thánh Thần (Ga 1:32;
17:10). Sự liên hệ này không thể được hiểu như có đặc tính thụ động
mà là có tính năng động, không ngừng nghỉ và hỗ tương. Trong ý nghĩa
này, Chúa Cha và Chúa Giêsu là một. Một sự liên hệ liên tục và hỗ
tương như thế đã thấm nhập vào hoạt động của Chúa Giêsu đến nỗi mà Người có thể
nhận ra được các dự kiến của Chúa Cha và kế hoạch của Người về toàn bộ chương
trình tác tạo. Để các tín hữu có thể hiểu và diễn giải lịch sử, họ
được mời gọi để sống hòa hợp với Chúa Giêsu, chấp nhận tình yêu thực sự của Người
và làm cho tình yêu này trở nên bền vững cho những người khác. Đây
là chương trình của Chúa Cha rằng tình yêu của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ
có thể được thực hiện trong tất cả mọi người. Chương trình của Thiên
Chúa như được thực hiện trong cuộc đời của Chúa Giêsu phải được thực hiện trong
cộng đoàn tín hữu và hướng dẫn sự dấn thân của người tín hữu trong nỗ lực của họ
hầu cải thiện đời sống mọi người. Những ai sẽ thi hành kế hoạch của
Chúa Cha trong cuộc sống của Chúa Giêsu? Đó là Chúa Thánh Thần, Đấng
kết hợp Chúa Giêsu với Chúa Cha, thực hiện và hoàn thành kế hoạch của Chúa Cha,
và làm cho cộng đoàn tín hữu thông phần vào công việc năng động này của Chúa
Giêsu: “sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy”. Nhờ tác động chân lý của
Chúa Thánh Thần, cộng đoàn đã lắng nghe lời Người và thông tri với Người một
cách cụ thể như tình yêu thương.
Chúa Thánh Thần thông tri cho
các môn đệ tất cả các sự thật và sự sung mãn của Chúa Giêsu; Người ngự ở trong
Chúa Giêsu; “đến” trong cộng đoàn và khi Người được lãnh nhận những lễ dâng từ
sự thông phần của cộng đoàn trong tình yêu của Chúa Giêsu.
b) Một vài câu hỏi gợi ý:
– Một mối nguy hiểm
nghiêm trọng đang đe dọa cộng đoàn Kitô hữu ngày hôm nay. Chúng ta
có đang bị cám dỗ để phân chia Chúa Giêsu, tuân theo Chúa
Giêsu nhập thể mà qua các việc Người làm đã thay đổi lịch sử, hay là một Chúa
Giêsu vinh hiển tách lìa khỏi sự hiện hữu của Người nơi trần thế và do đó cũng
tách rời khỏi đời sống chúng ta không?
– Chúng ta có nhận
thức rằng Chúa Giêsu không chỉ là một nhân vật lịch sử mà cũng còn là Đấng
Cứu Độ cho tất cả mọi người ngày nay không? Chúa Giêsu
không những chỉ là một đối tượng của việc chiêm niệm và vui mừng, mà còn là
Chúa Cứu Thế, Đấng mà chúng ta phải tuân theo và phải hợp tác với Người không?
– Thiên Chúa không
phải là một điều trừu tượng, mà Chúa Cha đã hiển thị ra trong
Chúa Giêsu. Bạn có cam kết để “thấy Người” và nhìn nhận Người trong
thân xác loài người của Chúa Giêsu không?
– Bạn có đang lắng
nghe tiếng nói của Thần Khí Sự Thật đang thông tri với bạn về
chân lý toàn mỹ của Chúa Giêsu không?
3. Cầu Nguyện
a) Thánh Vịnh
103: Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến để canh tân bộ mặt trái đất.
Đây là một bài thánh ca
hân hoan tạ ơn mời gọi chúng ta suy niệm về sự sa ngã của nhân loại và lòng
thương xót muôn đời của Thiên Chúa. Sau tội lỗi, bệnh tật và cái chết,
thì là lòng khoan dung và hành động yêu thương của Thiên Chúa: Người
ban cho chúng ta tràn ngập với những việc tốt lành suốt cả cuộc đời chúng ta.
Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng
Chúa,
Toàn thân tôi, hãy chúc tụng
Thánh Danh!
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
Chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
Chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn
tội lỗi,
thương chữa lành các bệnh tật ngươi.
Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,
bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,
khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.
thương chữa lành các bệnh tật ngươi.
Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,
bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,
khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.
CHÚA phân xử công minh,
bênh quyền lợi những ai bị áp bức;
mặc khải cho Môisen biết đường lối của Người,
cho con cái nhà Ít-ra-en
thấy những kỳ công Người thực hiện.
bênh quyền lợi những ai bị áp bức;
mặc khải cho Môisen biết đường lối của Người,
cho con cái nhà Ít-ra-en
thấy những kỳ công Người thực hiện.
CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn luôn,
không oán hờn mãi mãi.
Người chậm giận và giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn luôn,
không oán hờn mãi mãi.
Người không cứ tội ta mà xét
xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm.
Như người cha chạnh lòng thương con cái,
CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.
Nhưng ân tình CHÚA thiên thu vạn đại,
dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn.
Người xử công minh cả với đời con cháu.
không trả báo ta xứng với lỗi lầm.
Như người cha chạnh lòng thương con cái,
CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.
Nhưng ân tình CHÚA thiên thu vạn đại,
dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn.
Người xử công minh cả với đời con cháu.
Chúc tụng CHÚA đi, hỡi muôn
vì thiên sứ,
bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người,
luôn sẵn sàng phụng lệnh.
Chúc tụng CHÚA đi, toàn thể thiên binh,
hằng hầu cận và tuân hành thánh ý.
Chúc tụng CHÚA đi, muôn vật Chúa tạo thành,
thuộc quyền Người thống trị khắp nơi nơi.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người,
luôn sẵn sàng phụng lệnh.
Chúc tụng CHÚA đi, toàn thể thiên binh,
hằng hầu cận và tuân hành thánh ý.
Chúc tụng CHÚA đi, muôn vật Chúa tạo thành,
thuộc quyền Người thống trị khắp nơi nơi.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
b) Lời nguyện kết:
Lạy Chúa Thánh Thần của chân
lý
Người đã khiến chúng con trở
thành con cái Thiên Chúa,
Để chúng con có thể tiến tới
với Chúa Cha trong sự tin tưởng.
Lạy Cha, chúng con đang hướng
về Cha với tất cả lòng trí chúng con
Và chúng con cầu xin Cha:
Lạy Cha, xin Cha sai Thánh Thần
Chúa đến!
Xin sai Thần Khí Chúa đến
trên Giáo Hội.
Xin cho mỗi người Kitô hữu
trưởng thành trong sự hài hòa với tình yêu của Chúa Kitô,
Với tình yêu của Thiên Chúa
và với những người xung quanh.
Lạy Cha, xin đổi mới lòng tín
thác của chúng con vào vương quốc Cha mà Chúa Giêsu đã được sai đến để công bố
và để nhập thể vào thế gian.
Xin đừng để cho chúng con bị
thống trị bởi sự si mê hoặc bị cám dỗ bởi sự mệt mỏi.
Xin cho cộng đoàn chúng con
được là men là muối để xây dựng nền công lý và hòa bình cho xã hội chúng con.




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét