22/06/2019
Thứ Bảy tuần 11 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Cr 12, 1-10
"Tôi sẽ khoe khoang những yếu đuối của tôi".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu phải khoe mình, - thật chẳng có ích gì, - thì tôi sẽ
nói đến những thị kiến và những mạc khải Chúa tỏ ra. Tôi biết có người kia
trong Ðức Kitô, cách đây mười bốn năm, lúc bấy giờ có ở trong thể xác, tôi
không biết, hoặc ở ngoài thân xác, tôi cũng không biết, có Chúa biết, người ấy
được đem lên tầng trời thứ ba. Và tôi biết rằng: lúc bấy giờ, người ấy có ở
trong thân xác hay ở ngoài thân xác, tôi không biết, có Thiên Chúa biết, đã được
đem lên Thiên Ðàng, và được nghe những lời mầu nhiệm không được nói với loài
người. Vì người ấy, tôi sẽ khoe mình: nhưng tôi sẽ không khoe mình vì tôi về một
điều gì, ngoài những sự yếu đuối của tôi. Vì nếu tôi muốn khoe mình, tôi sẽ
không ngu dại, bởi tôi sẽ nói sự thật, nhưng tôi xin miễn, kẻo có người đánh
giá tôi cao hơn điều họ thấy hoặc nghe về tôi. Và để những mạc khải cao siêu
không làm cho tôi tự cao tự đại, thì một cái dằm đâm vào thịt tôi, một thần sứ
của Satan vả mặt tôi. Vì thế, đã ba lần tôi van nài Chúa để nó rời khỏi tôi.
Nhưng Người phán cùng tôi rằng: "Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được
tỏ bày trong sự yếu đuối".
Vậy tôi rất vui sướng về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức
Kitô ngự trong tôi. Vì thế, tôi vui thoả trong sự yếu hèn của tôi, trong sự
lăng nhục, quẫn bách, bắt bớ, khốn khó vì Ðức Kitô: bởi khi tôi yếu đuối, chính
là lúc tôi mạnh mẽ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 8-9. 10-11. 12-13
Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết
Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).
Xướng: 1) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh, chung quanh những người sợ
Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện
hảo nhường bao, phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. - Ðáp.
2) Các thánh nhân của Chúa, hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng
thiếu thốn chi. Bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu
chi thiện hảo. - Ðáp.
3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy cho các con biết
tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc.
- Ðáp.
Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi
lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 6, 24-34
"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không ai có thể làm
tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng
chủ này, và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được.
Vì thế, Thầy bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn;
hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và
thân xác không hơn áo mặc sao?
"Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào
lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng
sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một
gang được ư? Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài
đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy
nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng
không phục sức được bằng một trong những đoá hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội,
nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống
chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin. Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà
nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì chưng, dân
ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những
điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người,
còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về
ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Thiên Chúa quan phòng
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng cho
mạng sống mình: sẽ ăn gì? mặc gì? ngày mai sẽ ra sao?, mà phải tin cậy vào sự
quan phòng chăm sóc của Thiên Chúa. Ngài đưa ra hai hình ảnh chứng minh sự quan
phòng liên lỉ của Thiên Chúa: chim trên trời, bông huệ ngoài đồng, chúng có
đáng gì đâu, thế mà Thiên Chúa vẫn hằng nuôi nấng, để ý đến, huống chi con người,
vì con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa và được Chúa Giêsu Kitô cứu
chuộc bằng chính giá máu Ngài.
Ðọc kỹ bản văn của Matthêu, chúng ta thấy có bốn lần Chúa Giêsu dạy
chúng ta đừng quá lo lắng đến nỗi mất tin cậy vào Thiên Chúa. Khi nói như thế,
Ngài muốn chúng ta đừng tìm bảo đảm nơi của cải nay còn mai mất, mà phải tìm
cái cốt yếu cho cuộc đời trước đã, rồi mọi sự khác sẽ được thêm cho. Lo lắng
quá cũng chẳng giải quyết được gì: "Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong
các con kéo dài đời mình thêm được một vài gang tấc không?". Tín nhiệm
hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác
với công việc của Thiên Chúa tùy ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ
giúp cho.
Thiên Chúa biết rõ chúng ta không phải là những con chim hay bông hoa
ngoài đồng, mà là những con người phải làm việc để nuôi thân và góp phần xây dựng
gia đình và xã hội. Chúa dạy chúng ta "trước hết hãy tìm" nghĩa là hẫy
đặt đúng chỗ công việc: việc nào trước, việc nào sau. "Trước hết hãy lo
tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài", lời này đặt nền tảng cho người
Kitô hữu trong việc chọn lựa: Thiên Chúa phải chiếm chỗ ưu tiên trong con người
và công việc của chúng ta, rồi đến việc cứu rỗi bản thân và đưa người khác về với
Chúa; đảo lộn trật tự này tức là đi ngược thánh ý và chương trình của Thiên
Chúa.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta tự kiểm thảo xem từ trước đến giờ,
chúng ta đã chọn Chúa hay chọn tiền bạc? Ðã quá lo lắng đến vật chât hay đã
luôn tín nhiệm vào Thiên Chúa quan phòng? Xin Chúa cho chúng ta biết tìm kiếm
trước hết Nước Chúa và sự thánh thiện, và tin chắc rằng Chúa sẽ ban cho chúng
ta mọi sự khác mỗi khi chúng ta cần đến, vì Chúa là Cha chúng ta và hằng yêu
thương săn sóc chúng ta.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Bảy Tuần 11 TN1
Bài đọc: 2 Cor 12:1-10;Mt
6:24-34.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin tưởng vào tình yêu quan phòng của TC
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta nhìn ra sự quan phòng khôn ngoan của
Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô nêu bật ít nhất hai lý do Chúa muốn
ông phải chịu đau khổ: để ông khỏi kiêu ngạo vì đã được Chúa cho thấy thị kiến
Nước Trời, và xác tín sức mạnh ông có là đến từ Thiên Chúa, chứ không đến từ
con người yếu đuối của ông. Trong Phúc Âm thánh Matthew, Chúa Giêsu đòi con người
phải lựa chọn: hoặc phục vụ Thiên Chúa hoặc làm nô lệ cho thế gian, họ không thể
bắt cá hai tay.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.
1.1/ Sức mạnh của Thiên Chúa: Người môn đệ Đức Kitô mà trước đây 14 năm đã được cất
nhắc lên tới tầng trời thứ ba là chính Phaolô. Ông đã được Thiên Chúa cho thấy
thị kiến Nước Trời. Điều ông không rõ là lúc đó ông "ở trong hay ở ngoài
thân xác," vì ông ở trong trạng thái xuất thần. Truyền thống Do-thái tin
không một ai nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống sót; ở đây Phaolô chỉ đề cập
"người ấy đã được nghe những lời khôn tả mà loài người không được phép nói
lại." Điểm quan trọng Phaolô muốn tự hào ở đây là sức mạnh và quyền năng của
Thiên Chúa ban cho ông có được thị kiến đó; chứ không phải lòng đạo đức hay tài
giỏi gì của ông.
1.2/ Yếu đuối của con người: Phaolô ý thức rõ ràng sức mạnh của ông đến từ Thiên
Chúa, còn thân xác con người ông thì yếu đuối nhu nhược. Theo bản tính con người,
ông muốn xin Thiên Chúa cất đi những yếu đuối của thân xác, để ông có thể làm
việc cho Thiên Chúa có hiệu năng hơn; nhưng Thiên Chúa có đường lối của Ngài,
và Phaolô biết lý do đó: "Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải
phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ
hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại."
(1) Đâu là ý nghĩa của cái "dằm" đâm vào thân xác Phaolô? Có
nhiều ý kiến khác nhau:
+ Cái dằm thiêng liêng: Calvin cho là "những cám dỗ đàng thiêng
liêng." Luther cho là "những chống đối và bắt bớ." Đa số các học
giả Công Giáo cho là "những cám dỗ xác thịt." Người phản đối ý kiến
này cho: từ ngữ "cái dằm = sko,loy" trong tiếng Hy-lạp dùng để chỉ
cái gai hay cái dằm cách thể lý, chứ không dùng cách biểu tượng.
+ Cái dằm thể lý: Có người cho là "dáng vóc yếu ớt" của Phaolô
(2 Cor 10:10). Người khác cho Phaolô bị bệnh "điên nhẹ" (Gal 4:14).
Tertulian và Jerome cho Phaolô bị "nhức đầu kinh niên." Vẫn có người
cho Phaolô vẫn còn bị "đau mắt," vì biến cố đã xảy ra cho ông trên đường
đi Damascus (Acts 9:9), và các tín hữu Galat sẵn sàng nhường mắt họ cho Phaolô
(Gal 4:15). Người khác lại cho ông bị chứng "sốt rét kinh niên" hay
"bị đau răng."
Chúng ta khó có thể xác định rõ ràng ý nghĩa của "cái dằm"
Phaolô muốn nói ở đây, vì ông có thể dùng để chỉ ý nghĩa thể lý hay ý nghĩa biểu
tượng. Một điều chắc chắn đó là hậu quả của thân xác con người, và Phaolô muốn
Thiên Chúa cất khỏi ông.
(2) Ơn thánh và sức mạnh của Thiên Chúa đủ để Phaolô vượt qua mọi đau khổ:
Phaolô kể cho chúng ta nghe kinh nghiệm của ông: ''Đã ba lần tôi xin Chúa cho
thoát khỏi nỗi khổ này; nhưng Người quả quyết với tôi: "Ơn của Thầy đã đủ
cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối."
Đây cũng là kinh nghiệm cho chúng ta, vì chúng ta thường cảm thấy bức xúc khi bệnh
tật hay đau khổ làm trì trệ công việc rao giảng Tin Mừng; vì thế, chúng ta thường
xin Thiên Chúa cất khỏi bệnh tật và các chướng ngại, để chúng ta có sức khỏe
làm việc cho Ngài. Nhưng Chúa có kế hoạch của Chúa và bổn phận của chúng ta là
làm theo thánh ý của Chúa, chứ không theo sở thích riêng của chúng ta. Điều
thích đáng phải làm là hãy theo gương thánh Phaolô: ''Vì vậy, tôi cảm thấy vui
sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức
Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.''
2/ Phúc Âm: Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được.
2.1/ Không ai có thể làm tôi hai chủ: “vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu
chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa
làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được.”
+ Phát triển từ ngữ mamonas: Nó đến từ động từ có nghĩa “tin
cậy;” và danh từ mamon là của cải mà một người tin cậy giao cho ngân hàng giữ
hay chứa đựng nó trong một hộp an toàn. Sau một thời gian mamon không còn có
nghĩa “được tin cậy giao cho,” nhưng là cái mà con người đặt niềm tin tưởng
vào. Khi Mamon được viết hoa, nó có nghĩa như là một thần. Lịch sử của chữ thay
đổi từ chỗ sở hữu tài sản, những gì con người cần có để xử dụng như phương tiện
để sống, đến chỗ con người tin tưởng vào tài sản đó, coi nó như một vị thần, thần
tài hay thần tiền.
Nói cho cùng, tất cả của cải trong thế giới này là của Thiên Chúa ban
cho mọi người được hưởng dùng. Con người không phải là chủ nhân mà chỉ là người
quản lý, và phải trả lời với Thiên Chúa hai câu hỏi quan trọng này:
(1) Chúng ta kiếm tiền bằng cách nào? Có nhiều cách kiếm tiền khác nhau;
nhưng chúng ta có thể xếp loại vào hai cách chính: Cách hợp pháp và cách bất hợp
pháp. Cách hợp pháp là khi chúng ta kiếm tiền bằng sức lao động hay sức cố gắng
của mình. Cách bất hợp pháp là khi chúng ta kiếm tiền bằng cách ăn gian, nói dối
hay lường gạt.
(2) Chúng ta xử dụng tiền làm sao? Như đã nói ở trên, chúng ta chỉ là
người quản lý các tài sản của Thiên Chúa, và nhiệm vụ của người quản lý là biết
cách chi tiêu phân phát. Có nhiều cách xử dụng tiền bạc: Có những người không xử
dụng: chỉ giữ tiền cho chắc bụng, để lâu lâu lấy ra đếm cho thích, để biết mình
giầu. Có người xử dụng cách hoang phí: trong việc tiêu xài, cờ bạc, rượu chè,
trai gái... Có người xử dụng vào các việc phi nhân: buôn bán người. Có người xử
dụng để sinh lợi ích cho tha nhân: nuôi dưỡng con cái, học hành, ủng hộ vào những
chương trình làm thăng hoa đời sống con người. Nói tóm, con người là sở hữu của
Thiên Chúa. Họ chỉ được quyền tôn thờ một mình Thiên Chúa, và phải biết dùng những
của Chúa ban như phương tiện để sinh sống mà thôi.
2.2/ Không được lo lắng! Phải biết tin nơi sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúa
Giêsu cho con người 7 lý do để đừng lo lắng: (1) Đấng cho sự sống cũng sẽ cho
những gì cần thiết để bảo toàn sự sống: “Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và
thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?” (2) Lo lắng làm buồn lòng Thiên Chúa:
“Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà
Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?”
(3) Lo lắng được gì đâu? “Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời
mình thêm được dù chỉ một gang tay?” (4) Lo lắng đe dọa niềm tin: “Nếu hoa cỏ
ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế,
thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin!” (5) Có những điều đáng làm và phải
làm hơn: “Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người,
còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (6) Lo lắng tìm vật chất là của
Dân Ngoại: “Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời
thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó.” (7) Con người chỉ biết có giây phút
hiện tại, quá khứ đã qua, và tương lai không ai biết: “Anh em đừng lo lắng về
ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Sức mạnh của
chúng ta là ở nơi Thiên Chúa, chứ không ở nơi của cải, danh vọng, hay xác thịt
yếu đuối của chúng ta. Nếu Ngài muốn chúng ta chịu đau khổ, bệnh tật, hãy vâng
theo thánh ý và tìm ra con đường Thiên Chúa muốn chúng ta đi. Của cải chỉ là
phương tiện sinh sống bao lâu chúng ta còn sống ở đời này, một khi xuôi tay nằm
xuống, của cải trở thành vô nghĩa và chẳng sinh lợi gì cho chúng ta.
Lm.Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
22/06/2019
THỨ BẢY TUẦN 11 TN
Mt 6,24-34
Mt 6,24-34
ƯU TIÊN NƯỚC THIÊN CHÚA
“Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của
Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6,33)
Suy niệm: “Chỉ có một con đường
đi đến hạnh phúc, đó là ngừng lo lắng về những gì vượt khả năng ý muốn của
mình” (Triết gia Epictetus). Trong
Tin Mừng hôm nay, kiểu nói đừng lo được lặp lại đến sáu lần;
điều đó cho thấy Đức Giê-su lưu ý ta đừng để những nỗi lo về nhu cầu của cuộc sống
này khiến ta quên đi, -hoặc gạt qua một bên, hoặc coi như chuyện nhỏ,- việc tìm
kiếm Nước Trời cũng như việc nên thánh trong cuộc đời ta. Ngài không bảo ta vô
trách nhiệm với bản thân và gia đình, lười biếng làm việc mưu sinh, vô lo về
ngày mai. Trái lại, Ngài dạy ta tin tưởng, cậy trông nơi Thiên Chúa là Cha quan
phòng yêu thương ta. Cha lo liệu cho chim trời, hoa huệ, huống chi con người được
Cha yêu thương, đến nỗi ban Con Một cho ta, dẫn đưa ta đến Nước Trời.
Mời Bạn: “Mọi ngày mai đều
có hai tay cầm. Ta có thể nắm giữ ngày mai với tay cầm lo lắng hay tay cầm đức
tin” (H. Beecher). Sống đức tin là
ta vẫn phải lo toan cho các nhu cầu của cuộc sống, thế nhưng không vì thế mà đảo
ngược giá trị trong các mối tương quan: tương quan hiếu thảo với Chúa, tương
quan anh em với tha nhân, và tương quan hài hòa với chính mình. Bạn có đặt các
mối tương quan Nước Thiên Chúa ấy lên hàng đầu cuộc đời của mình chưa?
Sống Lời Chúa: Tôi đặt lại bậc thang giá
trị trong cuộc đời: sống tương quan yêu thương với Chúa và với nhau hơn công ăn
việc làm, hưởng thụ cuộc sống…
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã cho con có mặt trong cuộc đời.
Xin cho con luôn ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa trong cuộc đời con. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
Người
sẽ thêm cho
Kitô hữu nắm được
chìa khóa của hạnh phúc, của no đủ và bình an. Đó là cứ tìm kiếm Thiên Chúa trước
tiên, mọi sự khác sẽ được ban dư dật.
Suy niệm:
Chế độ nô lệ tưởng như đã không còn trên thế giới.
Nhưng ngày nay người ta vẫn nói đến những hình thức nô lệ mới.
Nước nghèo mất chủ quyền, chịu nô lệ cho nước giàu,
các phụ nữ trở nên nạn nhân của nô lệ tình dục,
trẻ em nô lệ cho chơi game, thanh niên nô lệ cho ma túy.
Xem ra khó tránh được chuyện bị làm nô lệ,
giữa một thế giới đề cao tự do và giải phóng.
Khi không muốn làm nô lệ cho ai,
con người lại trở nên nô lệ cho cái tôi ích kỷ.
Khi không chấp nhận lệ thuộc Đấng Tạo Hóa cao vời,
con người lại trở nên nô lệ cho các thụ tạo do mình tạo ra.
Đức Giêsu đặt chúng ta trước một chọn lựa.
“Anh em không thể đồng thời làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được.”
Nếu có hai chủ thì thế nào cũng yêu mến người này hơn người kia.
Giữa Thiên Chúa và Tiền Của, tôi sẽ gắn bó với ai hơn, tôi sẽ chọn ai?
Tôi không thể giả vờ thỏa hiệp để chọn cả hai, để được cả hai.
Thần Tài hứa hẹn cho tôi sự an toàn và hạnh phúc giả tạo,
còn Thiên Chúa hứa cho tôi hạnh phúc đích thực, vững bền.
Chỉ khi đặt Thiên Chúa lên trên mọi sự, tôi mới thật sự tự do.
Có sáu động từ lo trong bài Tin Mừng trên đây.
Đức Giêsu nhiều lần khuyên các môn đệ đừng lo (cc. 25. 31. 34).
Nhưng làm người ai lại không lo về ngày mai, trừ phi là trẻ thơ?
Trên thế giới bao người vẫn phải vật vã từng ngày với cơm ăn, nước uống?
Con người có thể sống vô tư như chim trời không
khi chim trời ngày nay cũng bị đe dọa không nơi trú ẩn?
Chúng ta cần hiểu cho đúng chữ lo của Đức Giêsu.
Ngài không dạy chúng ta sống vô trách nhiệm, phó mặc hay lười biếng.
Cái lo mà ta nên tránh là cái lo âu, lo sợ của người kém lòng tin (c.
30),
không tin rằng Thiên Chúa quý con người hơn mọi thụ tạo khác.
hơn giống chim trời, hơn hoa ngoài đồng nội.
Lo âu đó chi phối quá khiến người ta cứ loay hoay, bối rối tự hỏi:
ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây ? (c. 31).
Lo âu này khiến người ta bất an và sợ hãi, vì là lo âu một mình,
quên rằng mình có Người Cha biết rõ những nhu cầu thiết yếu (c. 32),
và sẵn sàng lo cho mình những điều cần dùng (c. 33).
Lo âu này cũng khiến người ta tìm kiếm thỏa mãn nhu cầu của mình
hơn là ưu tiên tìm kiếm xây dựng Nước Thiên Chúa (c. 33).
Kitô hữu không phải là người ngây thơ, sống không lo ngày mai.
Kitô hữu là người biết lo liệu, lo toan cho cuộc sống của họ.
Nhưng họ không căng thẳng vì phải bơ vơ lo một mình.
Họ lo như một người con trưởng thành, cùng lo với Thiên Chúa Cha.
Họ lo một cách thư thái nhẹ nhàng như loài chim buổi sớm đi tìm thức ăn.
Kitô hữu nắm được chìa khóa của hạnh phúc, của no đủ và bình an.
Đó là cứ tìm kiếm Thiên Chúa trước tiên, mọi sự khác sẽ được ban dư dật.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con luôn vui tươi.
dù có phải lo âu và thống khổ,
xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,
những người - cũng như con -
đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối,
thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,
thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy,
thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử,
xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật
như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,
như một lời xin vâng cuối cùng.
Và con về nhà Chúa,
để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
Lm
Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
22 THÁNG SÁU
Thiên Chúa Mời Gọi Đích Danh Mỗi Người Chúng Ta
Đồng thời, chúng ta cũng gặp thấy nơi truyền thống một hành trình kiên
thủ trong đức tin. Ở đây, Giáo Hội là bạn đồng hành luôn sát cánh với con người.
Giáo Hội luôn sẵn sàng khi con người yêu cầu những cách thế mới của sự quan
phòng của Thiên Chúa. Các Công Đồng Vatican I và II, mỗi Công Đồng theo cách
riêng mình, là những tiếng nói quí giá của Chúa Thánh Thần mà chúng ta không được
phép dửng dưng. Giáo Hội mời gọi chúng ta suy tư lại về những chân lý sống động
mà các Công Đồng ấy đã nêu ra, cũng như suy tư lại về những tài liệu quan trọng
của truyền thống.
Mọi câu hỏi nghiêm túc phải nhận được một câu trả lời thấu đáo. Đó là lý
do tại sao chúng ta đang liên hệ tới những khía cạnh khác nhau của sự quan
phòng thần linh trong nhiệm cục sáng tạo và cứu độ. Vì thế , chúng ta hãy dành
thời gian để suy tư về chân lý vĩnh cửu mãi mãi tồn tại ấy. Đây là sự khôn
ngoan siêu việt mà Thiên Chúa yêu thương con người và mời gọi con người tham dự
vào trong kế hoạch cứu độ của Ngài. Con người được mời gọi nhận ra sự săn sóc
ân cần của Thiên Chúa và hợp tác với ơn cứu độ của Ngài.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 22-6
2Cr 12, 1-10; Mt 6, 24-34
LỜI SUY NIỆM: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được.”
Chúa Giêsu rất yêu thương những người thuộc về Người, nên liên tiếp
trong những ngày qua Lời Chúa hướng dẫn chúng ta cách sống với Chúa Cha, với cộng
đoàn và với người anh em chung quanh chúng ta: Khi làm việc bố thí, cầu nguyện
và ăn chay, tất cả các việc này cần phải làm cách kín đáo, chỉ có mình với Chúa
Cha, và Ngài sẽ ân thưởng cho chúng ta theo cách của Ngài. Với sự mật thiết với
Ngài, chúng ta mới thấy được tình yêu thương của Ngài, Ngài quan phòng lo lắng
từng chi tiết một, trong đời sống của chúng ta, để khỏi phải nô lệ tiền của vật
chất, nhưng được làm con của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn tin
vào Lời Kinh Lạy Cha, mà hằng ngày chúng con thường đọc; để tránh khỏi làm tôi
tiền của; nhưng được làm con của Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 22-06: Thánh GIOAN FISHER
Giám Mục (1469 - 1535)
Thánh Gioan Fisher sinh tại Beverly, Yorkshire là con của một thương gia
giàu có. Cha Ngài đã qua đời năm 1477. Khoảng năm 1482, Ngài được Mẹ gởi tới đại
học Cambriage và đã trở thành một học giả nổi danh. Năm 1941, Ngài thụ phong
linh mục. Sau mười năm học thần học. Năm 1501, và sau này Ngài được coi như một
trong các nhà thần học hàng đầu của Âu Châu.
Đại học sớm nhận ra khả năng quản trị của Ngài, lần lượt Ngài đã giữ chức
vụ giám thị, phó chưởng ấn, rồi chưởng ấn. Năm 1514, Ngài được chọn làm chưởng ấn
suốt đời.
Ngài được đặt làm giám mục Rochester năm 1504 và Ngài đã là một mục tử
chân chính, lo khích lệ các linh mục bằng sự quan tâm tới cuộc sống của các
Ngài. Là một nhà giảng thuyết thời danh, Ngài làm hết sức để có thể cung ứng
cho Giáo hội các linh mục đầy đủ khả năng giảng dạy dân chúng.
Do ảnh hưởng của Ngài mà Erasnius được đưa vào giảng dạy tiếng Hy lạp ở
đại học Cambrige Erasmus. Tôma More cũng đã trở thành bạn thân của Gioan
Fisher. Năm 1516, có bản văn ghi chép về cả ba nhân vật này ở Rochester.
Ngài Tôma More làm Tổng quản lý đại học Cambrige. Từ năm 1525 đến những
năm sau đó Tôma và Gioan Fisher hợp tác với nhau để đáp ứng người chống lại lạc
thuyết của Lutherô. Đức giám mục Gioan Fisher đã viết cuốn Confutatio (1523) bằng
tiếng Latinh. Đó là cuốn sách của thần học gia viết cho các thần học gia. Người
tín hữu (More) viết cuốn Dialogue concerning Heresies (1528) cho giới bình dân.
Năm 1527, năm định mệnh cho nước Anh vì là lúc, Henri VIII đi bước đầu,
tới việc tiêu hủy hôn nhân của ông với Catarina miền Atagon. Năm 1501 bà thành
hôn với Arthur, anh của vua. Nhưng được sáu tháng thì Athur từ trần. Năm 1509,
đức Giáo hoàng cho phép vua được thành hôn với người vợ goá của anh mình. Về
sau, vì không có con trai để nối dõi, ông tìm cách phá hủy hôn nhân này vịn cớ
là phép chuẩn của Đức Giáo hòang không thành. Đức Hồng y Wolsey hỏi ý kiến Đức
cha Gioan Fisher. Sau khi nghiên cứu đầy đủ đức giám mục kết luận là phép chuẩn
của Đức Giáo hoàng thành. Ngài giữ vững lập trường này mãi. Henry coi sự chống
đối này là như một hành vi bội phản.
Năm 1534 có luật thừa kế. Luật này tuyên bố rằng hôn phối với Catatina
là vô hiệu và hôn nhân với Anna Boleyn là hợp pháp. Quyền kế vị thuộc về con bà
ta. Mọi người phải thề nhận trọn đạo luật này. Đức giám mục Gioan Fisher từ chối.
Tôma More cũng vậy, bởi vì đạo luật bao hàm việc coi phép chuẩn của đức giáo
hoàng là bất thành.
Ngày 17 tháng 4 năm 1534, đức giám mục Gioan Fisher và Sir Tômas More bị
xử tại Tower và bị giam biệt ra. Ngày 20 tháng 5 năm 1535 đức giám mục Gioan
Fisher được phong làm hồng y . Điều này làm nhà vua giận dữ và vội vã lập toà
án chống lại đức tân hồng y.
Ngày 17 tháng 4 năm 1535, Ngài bị xử là bội phản. Ngày 17 tháng 6 năm
1535, Ngài bị xử là bôi phản. Ngày 22, Ngài bị chém đầu, thân xác trần trụi của
Ngài bi bỏ lại pháp trường cho đến khi được chôn cất vội vã không một nghi thức
tang lễ trang Hallows. Đầu Ngài bị treo ở Lôndôn Bridge cho tới ngày 6 tháng 7
rồi bị ném xuống sông Thames ... nhường chỗ cho đầu bạn Ngài là Tomas More.
******************
Ngày 22-06: Thánh TOMA MORE
Ngày 22-06: Thánh TOMA MORE
(1478 - 1535)
Thánh Toma More sinh tại Luân Đôn ngày 06 tháng 2 năm 1478 trong một gia
đình mà chính Ngài đã nói: "Không danh giá nhưng lại lương thiện".
Lên 12 tuổi, Ngài giúp việc Đức Hồng Y Morton tổng giám mục giáo phận
Canterbury. Hai nămsau, Ngài được gởi học tại Ozford. Để cho Ngài chăm chú học
hành, cha Ngài đã giới hạn việc cung cấp tiền bạc đến nỗi Ngài không có tiền để
sửa đổi giày. Vào tuổi 15, Ngài bỏ Ozford tới Luân Đôn.
Ba năm sau, tức năm 1493, Ngài gặp Eramus trong khi ông thăm viếng nước
Anh lần đầu tiên. Vừa học, vừa trắc nghiệm ơn kêu gọi tu trì trong bốn năm sống
tại Luân Đôn.
Cuối cùng More quyết định rằng: Ngài không có ơn gọi sống bậc tu trì.
Ngài bước vào hôn nhân một cách đặc biệt, Ngài chọn cô em gái thứ xinh đẹp và dễ
thương. Nhưng rồi thấy rằng người chị sẽ đau khổ và xấu hổ nếu cô em lập gia
đình trước. Vì thế Ngài cưới cô chị. Họ sống với nhau được 4 năm thì bà vợ qua
đời. Một năm sau Tôma More tái hôn với người khác mà không có con. Người vợ mới
hay nóng giận, nhưng gia đình thật êm thắm.
Ba người con gái cũng như người con trai của Ngài đều được giáo dục rất
cẩn thận. "Trong gia đình này không có ai làm biếng cả..."
Thực tế các cô con gái Ngài thông minh đến nỗi được mời tới trước mặt
vua để tranh luận về triết học. Bầu khí gia đình hạnh phúc còn là nơi tụ tập của
nhiều loại người, từ những người yếu đau già cả tới những kẻ thông thái.
Erasmus cũng là một người bạn thân của gia đình này. Lần kia, khi được tin kho
lúa bị thiêu rụi Tôma có viết thư cho vợ: "Có lẽ chúng ta có lý do để cảm
tạ Chúa vì sự mất mát này hơn là về những cái chúng ta tích lũy được".
Và Ngài cũng lo lắng cho hàng xóm.- "Anh không muốn còn đầy muỗm nếu
một trong số họ chịu thiệt thòi vì tai nạn xảy đến cho chúng ta".
Toma More cũng viết cuốn Utophia, nói về một hòn đảo hạnh phúc đầy tưởng
tượng. Ngài cũng viết cuốn "Dialogue concerning Heresies" (Đối thoại
về các lạc thuyết). Danh tiếng của Ngài như một luật sư đã lôi kéo được sự chú
ý của vua Henry III. Vua thúc ép Ngài phục vụ triều đình. More bằng lòng và trở
nên giàu có. Được phong làm hiệp sĩ và năm 1523 được đặt làm phát ngôn viên của
thư viện thứ dân.
Tuy nhiên năm 1527, nhà vua muốn chấm dứt đời sống hôn nhân với hoàng hậu
Catarina và cưới Anna Boleyn. Toma More trách cứ nhà vua và bị thải hồi. Một
ngày kia bá tước Norfolk thấy rằng: Ngài sẽ bị nguy hiểm nếu chống lại nhà vua.
Nhưng bình tĩnh Ngài trả lời: - Thưa Đức ông, tất cả có thể thôi sao ? Thực sự
có điều này khác biệt giữa Ngài và tôi là: Hôm nay tôi chết, nhưng Ngài cũng sẽ
chết ngày mai.
Ngày 12 tháng 4 năm 1534, Toma More được mời để tuyên thệ nhận Anna More
Boleyn và từ bỏ uy quyền của đức giáo hoàng, Ngài từ khước. 14 tháng tù ở là những
ngày tháng cầu nguyện chẳng khác gì nơi tu viện. Trước toà án Ngài nói: - Vương
quốc Anh không thể bất phục tòa thánh như một người con không thể bất phục cha
mình.
Khi nghe tuyên án tử hình Ngài nói: - Thánh Phaolô đồng loã với cái chết
của Stêphanô lại chẳng hợp nhất với Ngài trong cuộc sống vĩnh cửu sao ? Vậy,
tôi sẽ cầu nguyện tha thiết cho các lãnh Chúa đã kết án tôi, để ít ra chúng ta
sẽ gặp nhau trên trời sau này. Tôi cũng cầu xin Chúa toàn năng bảo vệ đức tin
và gởi tới cho Ngài một lời khuyên tốt đẹp.
Bình thản, Ngài lên đường tới pháp trường, khi bước lên đoạn đầu đài,
Ngài còn khôi hài nói: - Lúc xuống, chỉ mình tôi thủ lợi.
Ngài ôm người đao phủ và bảo: - Can đảm lên đừng sợ. Cổ tôi ngắn quá hãy
cẩn thận vì danh dự của anh ở đó.
Tự bịt mắt, Ngài nằm lên đoạn đầu đài, vén râu lên Ngài nói: - Nó không
phạm tội phản bội. Thánh Toma More đã chịu chết như vậy ngày 6 tháng 7 năm 1535
với tất cả trịnh trọng, vui tươi và đơn thành.
******************
Ngày 22-06: Thánh PAULINÔ NÔLANÔ
Ngày 22-06: Thánh PAULINÔ NÔLANÔ
(355 - 431)
Thánh Paulinô sinh tại Bordeax khoảng năm 355. Cha Ngài là một pháp quan. Ngài được
thụ huấn với nhà hùng biện và thi sĩ Ausônô. Ngài được thừa hưởng rất nhiều đất
đai ở Gaule và Italia. Năm 378, Ngài trở nên danh tiếng trước pháp đình và được
đặt làm chánh án. Khi sang Tây Ban Nha thăm các lãnh địa của gia đình Ngài kết
hôn với Therasia, một thiếu nữ Tây Ban Nha và được hưởng thêm nhiều đất đai như
của hồi môn. Khoảng năm 389, Ngài lãnh phép rửa tội ở Bordeauz và bắt đầu một
cuộc đổi mới. Trước sự chán nản của Ausôniô và cơn thịnh nộ của gia đình, Ngài
và vợ cũng không ngần ngại sống tiết độ: lần lượt bán đất đai và phân phát lợi
nhuận cho dân nghèo. Chính Ngài chỉ mặc áo quần nghèo khó và ăn chay kham khổ.
Một biến cố đau lòng dẫn Ngài tới sự thánh thiện lớn lao hơn đó là cái chết
của đứa con trai Ngài, Paulinô và Therasia toàn hiến cho Thiên Chúa. Họ giải
phóng nô lệ, bán hết của cải và phân phát cho người nghèo. Còn Paulinô từ giã
nghị trường và năm 394 hay là 395 chịu chức linh mục tại Barcelôna. Nhưng vì được
kính phục ở Tây Ban Nha, nên ít lâu s au, Ngài đã ẩn mình sang Nôla miền nam nước
Ý. Còn một ít đất đai ở đây, Ngài bán để xây một thánh đường dâng kính thánh
Fêlixita.
Cuộc sống khắc khổ của Ngài bị chê cười. Thánh Anmbrôsiô ghi nhận: -
"Có nhiều người theo thị hiếu của họ đã không ngạc nhiên gì khi chịu những
thay đổi rất kỳ dị. Vậy mà khi có một Kitô hữu quan tâm tới sự trọn lành mà
thay đổi thói quen của mình thì họ la lối giận dữ".
Thánh Paulinô thường nói: - Phật lòng người để được lòng Chúa quả là một cuộc
chạm trán hồng phúc.
Thánh Augustuinô cũng viết vào thời này: - Hãy đến Campania xem con người
dòng dõi quý quyền tài ba và giầu có; hãy xem lòng đại độ mà người tôi tớ Chúa
Kitô đã tự thoát để chiếm hữu Thiên Chúa. Hãy xem Ngài đã từ khước sự kiêu hãnh
để ôm ấp sự khiêm tốn của thập giá thế nào.
Để trả lời những người thán phục đời nghèo khó tự nguyện của mình, thánh
Paulinô viết:
- "Tôi ngạc nhiên khi người ta cho là có công một người mua ơn cứu rỗi
đời đời bằng những cái mau tàn, khi người ta ca tụng hắn vì việc đổi đất lấy trời.
Ngài kêu gọi mọi người rộng tay bố thí: - "Sự nghèo khó của anh em bạn
là một vốn liếng cho bạn, nếu bạn lo lắng chi người nghèo khó túng thiếu.
Và Ngài giải thích thêm: - Một người phải qua sông sẽ bơi tới bờ bên kia nếu
biết rũ bỏ áo quần và dùng mọi năng lực để chống lại dòng nước chảy.
Dầu vậy còn phải biết tự chế nữa: - Hy sinh bề ngoài chẳng đáng kể. Hy sinh
mà Chúa đòi chính là sự hy sinh trong lòng .
Thán phục, nhiều người muốn bắt chước thánh nhân. Nhà Paulinô trở thành một
tu viện. Ngài viết một cách đầy thú vị: - Chúng tôi tiến tới một đời sống tốt đẹp
hơn và khi lột bỏ gánh nặng trần gian, chúng tôi thấy như được gieo vào lòng một
cái gì thần linh và được mọc cánh như các thiên thần.
Năm 409, Paulinô được đặt làm giám mục Nôla. Cuộc xâm lược của người Goth
gieo kinh hoàng cho nước Ý. Họ cướp phá Rôma và bây giờ tàn phá Nola. Thánh
Paulinô lấy tiền của Giáo hội để mua chuộc các tù nhân, nâng đỡ những người bất
hạnh. Rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, Ngài chỉ còn biết cầu nguyện: - Lạy Chúa,
xin đừng để con bị dày vò bởi tiền bạc vì chưa biết rõ của cải con hiện ở đâu.
Thánh Gregoriô Cả còn gán cho thánh nhân một hành vi bác ái đầy quả cảm là
bán mình để chuộc lại đứa con bị tù đày của một bà góa. Nhưng có lẽ Ngài đã lầm
với Đức Paulinô III, giám mục Nôla thời chinh phục của người Vandales.
Cái chết năm 431 của thánh Paulinô được nhân chứng Uraniô kể lại. Từ giường
chết, Ngài đã cử hành thánh lễ với hai giám mục đến thăm. 32 bài thơ và 51 lá
thư của Ngài vẫn còn tới ngày hôm nay.
(daminhvn.net)
22 Tháng Sáu
Romeo Và Juliet
Một trong các vở tuồng bất hủ trên sân khấu kịch nghệ quốc tế phải kể là vở
kịch mang tựa đề "Romeo và Juliet" của nhà văn hào trứ danh người
Anh, ông William Shakespeare. Vở kịch này được sáng tác vào năm 1595, nhưng mãi
cho đến nay, khi vở kịch được phổ nhạc, được các ca sĩ nổi tiếng trình diễn,
khán giả vẫn nối đuôi nhau chờ mua vé để vào theo dõi một câu chuyện tình cảm động
giữa hai thanh niên nam nữ yêu nhau thắm thiết, nhưng đường tình duyên bị trắc
trở không thể tiến đến hôn nhân, vì chàng và nàng thuộc về hai gia đình có mối
thù truyền kiếp với nhau trong bối cảnh xã hội mang nặng đầu óc nuôi oán, báo
thù tại Italia thời trung cổ.
Sau khi nàng Juliet đem câu chuyện tình ngang trái tỏ lộ cùng một vị linh mục
và cho ngài biết ý định sẽ cùng với Romeo thoát ly gia đình để tìm đến một
phương trời xa lạ xây tổ uyên ương, vị linh mục đề nghị nàng dùng phương thế uống
một thứ thuốc mê để giả chết. Sau đó ngài sẽ cứu sống nàng và giao cho Romeo
đem nàng đi. Kế hoạch này được giữ bí mật đến nỗi chính chàng Romeo cũng không
hay biết. Khi thấy người yêu đã vì mình dùng độc dược quyên sinh, chàng Romeo
cũng dùng gươm tự sát để đáp lại mối tình tuyệt vọng của người yêu. Khi thuốc
mê đã hết hiệu nghiệm, nàng Juliet tỉnh dậy thấy người yêu đang thoi thóp bên
vũng máu đào: tình yêu kêu gọi tình yêu, nàng cũng dùng gươm lết liễu phận bạc
để cùng chết với chàng.
Hình như những câu chuyện tình thương tâm trong tuồng kịch hay tiểu thuyết
nào cũng kết thúc bằng trắc trở, chia ly, chết chóc. Dù bi ai, nhưng các câu
chuyện ấy cũng nói lên một phần nào sự thật. Ðó có lẽ là lý do tại sao trong
các thiệp hồng báo tin hôn lễ, các đôi trai gái tính chuyện trăm năm thường chọn
và cho in câu: "Tình yêu mạnh hơn sự chết".
Trong các cuộc giao tế thường ngày giữa người với người hoặc trong mối quan
hệ láng giềng, bạn bè, kể cả cha mẹ, con cái, anh chị em trong gia đình hay giữa
tình thân, vợ chồng, chúng ta cần có những dấu chỉ biểu lộ ra bên ngoài để diễn
tả tâm tình yêu mến chất chứa bên trong: Từ những dấu chỉ đơn sơ, thi vị
"yêu nhau cởi áo cho nhau" đến chỗ hy sinh cả cuộc đời tận tụy, làm lụng
vất vả, gánh chịu những nhọc nhằn, chịu đựng tha thứ cho nhau "Một câu nhịn,
chín câu lành" đối với những người thân thương trong gia đình.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét