26/06/2019
Thứ Tư tuần 12 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm
I) St 15, 1-12. 17-18
"Abram tin vào Thiên Chúa và vì đó, ông được công
chính".
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy,
có lời Chúa phán cùng Abram trong thị kiến rằng: "Hỡi Abram, ngươi chớ sợ,
Ta là Ðấng phù trợ và là phần thưởng rất bội hậu cho ngươi". Abram thưa rằng:
"Lạy Chúa là Thiên Chúa, Ngài sẽ ban cho con điều gì? Con sẽ qua đi mà
không có con; chỉ có Eliêzer này, người Ðamas, con của người giúp việc gia đình
con". Abram nói tiếp rằng: "Chúa không cho con sinh con; đây con của
người giúp việc sẽ là kẻ nối nghiệp con". Tức thì có lời Chúa phán cùng
ông rằng: "Chẳng phải người này sẽ là kẻ nối nghiệp ngươi, nhưng là chính
người con ngươi sinh ra, sẽ là kẻ nối nghiệp ngươi". Thiên Chúa dẫn Abram
ra ngoài và nói với ông: "Ngươi hãy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được,
hãy đếm các ngôi sao". Rồi Chúa nói tiếp: "Miêu duệ của ngươi sẽ đông
đảo như thế". Abram tin vào Thiên Chúa và vì đó, ông được công chính.
Và Chúa lại nói:
"Ta là Chúa, Ðấng dẫn dắt ngươi ra khỏi thành Ur của dân Calđê, để ban cho
ngươi xứ này làm gia nghiệp". Abram thưa rằng: "Lạy Chúa là Thiên
Chúa, làm sao con có thể biết con sẽ được xứ đó làm gia nghiệp?" Chúa đáp:
"Ngươi hãy bắt một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu
đực ba tuổi, một con chim gáy mái và một con bồ câu non". Abram bắt tất cả
những con vật ấy, chặt ra làm đôi, đặt phân nửa này đối diện với phân nửa kia:
nhưng ông không chặt đôi các con chim. Các mãnh cầm lao xuống trên những con vật
vừa bị giết, song ông Abram đuổi chúng đi.
Lúc mặt trời lặn,
Abram ngủ mê; một cơn sợ hãi khủng khiếp và u tối bao trùm lấy ông. Khi mặt trời
đã lặn rồi, bóng tối mù mịt phủ xuống, có một chiếc lò bốc khói và một khối lửa
băng qua giữa những phần con vật chia đôi. Trong ngày đó, Chúa đã thiết lập
giao ước với Abram mà nói rằng: "Ta ban xứ này cho miêu duệ ngươi, từ sông
Ai-cập cho đến sông Euphrát".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 104, 1-2.
3-4. 6-7. 8-9
Ðáp: Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca tụng
Chúa, hãy hoan hô danh Ngài, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng
ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. - Ðáp.
2) Hãy tự hào vì danh
thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và
quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. - Ðáp.
3) Hỡi miêu duệ
Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn.
Chính chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa
cầu. - Ðáp.
4) Tới muôn đời Người
vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Người đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước
Người đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Người đã thề với Isaac. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! -
Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến
người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 7, 15-20
"Hãy xem quả thì các con sẽ biết chúng".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ mặc lốt
chiên đến cùng các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé. Hãy xem quả thì
các con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả
nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh
trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt.
Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy coi trái thì các
con sẽ nhận biết được chúng".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Xem quả biết
cây
Nhà tu đức học nổi tiếng
người Ấn Ðộ là cha Anthony de Mello có kể câu truyện ngụ ngôn: Một vị giáo sĩ nọ
đến gặp một tiên tri và xin ngài cầu nguyện cho một đôi vợ chồng trẻ: họ là những
người rất mực đạo đức, nhưng không có con. Nghe thế vị tiên tri trả lời:
"Ta rất lấy làm tiếc, Chúa không muốn cho họ có con".
Thế nhưng, 5 năm sau,
vị giáo sĩ trở lại thăm đôi vợ chồng trẻ, lần này ông nghe thấy tiếng trẻ con
cười đùa trong nhà. Người chồng giải thích rằng cách đây 5 năm, có một người
hành khất lang thang trước nhà họ, người chồng mời người hành khất vào nhà, cho
ăn uống và mặc quần áo mới cho. Trước khi từ giã, người hành khất đã chúc lành
cho đôi vợ chồng trẻ và Chúa đã ban cho họ được hai đứa con.
Vị giáo sĩ trở lại gặp
vị tiên tri để xin một lời giải thích. Vị tiên tri mỉm cười trả lời: "Ta
chỉ có thể nói rằng có một vị thánh đã đến thăm đôi vợ chồng trẻ này, và nhờ lời
chúc phúc của ngài, họ đã có được hai đứa con; các thánh có cách thay đổi
chương trình của Thiên Chúa".
Một cuộc sống thánh
thiện lúc nào cũng có âm hưởng trên người khác, một chứng tá đức tin luôn có sức
đánh động người khác. Ðó có thể là ý tưởng nổi bật trong Tin Mừng hôm nay. Chúa
Giêsu nói đến trái tốt từ cây tốt. Qua kiểu nói này, hẳn Chúa Giêsu muốn nói đến
những thể hiện đích thực của lòng tin: một đức tin chân thật luôn đi đôi với việc
làm cụ thể. Chính Ngài đã nói: "Không phải những ai đã nói: Lạy Chúa, lạy
Chúa, là được vào Nước Trời, mà chỉ những ai thực hành ý Chúa mới được vào mà
thôi". Thánh Giacôbê đã lấy lại giáo huấn này khi ngài viết: "Ðức tin
không có việc làm là đức tin chết tận gốc rễ".
Chúa Giêsu tỏ lòng cảm
thông và tha thứ cho những yếu hèn và vấp ngã của con người, nhưng Ngài không hề
dung chấp cho thái độ giả hình của những người Biệt phái. Ngài gọi họ là những
tiên tri giả, những người đội lốt chiên mà bên trong là lòng dạ của sói dữ. Họ
trưng bày một bộ mặt đạo đức, nhưng cuộc sống của họ gồm toàn những hành động xấu
xa.
Chúa Giêsu mời gọi
chúng ta đề cao cảnh giác trước thói giả hình. Bao lâu giữa niềm tin và cuộc sống
còn có khoảng cách, thì bấy lâu chúng ta vẫn còn là những kẻ giả hình; trên cây
đức tin của chúng ta chỉ có những quả xấu; cuộc sống chỉ còn là những phản từ,
hay nói theo ngôn ngữ quen thuộc: chúng ta làm ố danh sự đạo. Thánh Phaolô đã
nhắn nhủ tín hữu Côrintô: Những người rước Mình Thánh Chúa mà vẫn tiếp tục sống
trong chia rẽ và kỳ thị, là những người sống trong mâu thuẫn không thể chấp nhận
được, và họ rước Mình Thánh Chúa một cách bất xứng. Bí tích Thánh Thể không thể
tách rời khỏi giới răn yêu thương: người ta không thể rước Mình Thánh Chúa mà đồng
thời lại sống xa lạ với anh em đang bị đói khát, đau yếu, tù đày. Từ việc rước
lễ phải nẩy sinh trong chúng ta sức mạnh của niềm tin yêu khiến chúng ta cởi mở
với tha nhân, có lòng từ bi đối với những người sống trong túng thiếu và quẫn
bách.
Ước gì chúng ta luôn
biết thể hiện đức tin của chúng ta bằng những hành động cụ thể. Ước gì hoa trái
của đức tin chúng ta trở thành của ăn có sức nuôi dưỡng bồi bổ đối với những
người xung quanh.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 12 TN1,
Năm Lẻ
Bài đọc: Gen
15:1-12, 17-18; Mt 7:15-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy sống
xứng đáng với danh hiệu mình mang.
Theo thuyết Chính Danh
của Khổng Tử: làm vua phải biết lo cho dân được ấm no và bình an, làm dân phải
biết tuân giữ các mệnh lệnh và chu toàn bổn phận của mình; làm cha phải biết
thương yêu và giáo dục con cái nên người, làm con phải biết vâng lời và báo hiếu
cha mẹ. Nếu mọi người trong nước và trong gia đình đều biết sống đúng như danh
hiệu của mình, dân chúng sẽ an cư lạc nghiệp, gia đình sẽ yên vui hạnh phúc, và
đất nước sẽ bình an.
Các bài đọc hôm nay muốn
đưa ra những tấm gương để mọi người nhìn vào đó và nhận ra mình đã sống đúng với
danh hiệu của mình chưa. Trong bài đọc I, Đức Chúa hứa sẽ ban cho Abram hai điều:
một dòng dõi đông đảo như sao trên trời và một vùng đất Canaan trù phú. Ngài đã
làm y như vậy. Phần Abram, ông đã tin những gì Đức Chúa hứa, cho dẫu ông chưa
được thấy dấu hiệu của những gì Đức Chúa hứa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đề
phòng cho dân chúng đừng tin các ngôn sứ giả. Họ là những chó sói đội lốt người
chăn chiên để rình chờ cắn xé chiên. Để giúp dân nhận ra những ngôn sứ giả,
Chúa Giêsu khuyên dân chúng đừng đánh giá bằng bộ áo họ mặc; nhưng nhìn vào cuộc
sống của họ, vì cây tốt không thể sinh quả xấu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công
chính.
1.1/ Đức Chúa hứa ban cho
Abram một dòng dõi. Truyền thống Do-thái tin
con cháu đầy đàn là một trong những phần thưởng Đức Chúa ban cho những ai biết
kính sợ Ngài. Abram đã cao niên mà vẫn chưa có lấy một người con; nhưng trong một
thị kiến, Đức Chúa hứa “phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn.” Ông Abram thưa lại:
"Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, Chúa sẽ ban cho con cái gì? Con ra đi mà
không con cái, và người thừa tự gia đình con là Eliezer, một người Damas...
Chúa không ban cho con một dòng dõi, và một gia nhân của con sẽ thừa kế
con." Nhưng Đức Chúa phán với ông rằng: "Kẻ đó sẽ không thừa kế
ngươi, nhưng một kẻ do chính ngươi sinh ra mới thừa kế ngươi." Rồi Người
đưa ông ra ngoài và phán: "Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao,
xem có đếm nổi không." Người lại phán: "Dòng dõi ngươi sẽ như thế
đó!"
Tuy chưa có lấy một
người con trong khi tuổi đã già, Abram tin những gì Đức Chúa nói, và vì thế,
ông được Đức Chúa kể là người công chính vì ông đã tin những gì Ngài phán.
Chúng ta biết sau đó Đức Chúa đã ban cho Abram một người con thừa kế là Isaac,
Isaac có hai con là Esau và Jacob, Jacob có tới 12 người con; và từ đó, dân tộc
Israel được thành hình. Khi Đức Chúa hứa, Ngài không nói khi nào những điều ấy
được thực hiện, bổn phận của Abram là phải tin những gì Ngài hứa dù chưa thấy.
1.2/ Đức Chúa hứa ban cho
Abram Đất Hứa. Người lại phán với ông:
"Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Urs của người Chaldeans,
để ban cho ngươi đất này làm sở hữu." Abram thưa: "Lạy Đức Chúa, làm
sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?" Người phán với ông:
"Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu
đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non." Ông kiếm cho Người tất cả những
con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì ông
không xẻ. Truyền thống Do-thái khi làm giao ước với ai thường có lễ vật kèm
theo để bảo điểm lời hứa. Ý nghĩa của các con vật được xẻ đôi có lẽ muốn nói, nếu
một bên xé bỏ giao ước thì cũng bị phân thân xác làm hai như thế.
Điều Đức Chúa cho
Abram biết trước là sự kiện dòng dõi ông sẽ phải sống nô lệ cho người Ai-cập
trong vòng 400 năm: “Ngươi phải biết rằng: dòng dõi ngươi sẽ trú ngụ trong một
đất không phải của chúng. Chúng sẽ làm tôi người ta và người ta sẽ hành hạ
chúng bốn trăm năm.
Nhưng Ta sẽ xét xử dân
tộc chúng phải làm tôi, và sau đó chúng sẽ ra đi với nhiều tài sản. Còn ngươi sẽ
về với cha ông ngươi bình an, và sẽ được chôn cất sau khi hưởng tuổi già hạnh
phúc.” Sự kiện Abram thấy “một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi
qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi” chứng minh Đức Chúa đã chứng nhận giao ước,
và Ngài sẽ thực thi những gì Ngài đã hứa. Điều này cũng đã xảy ra khi ông Moses
và Aaron thừa lệnh Đức Chúa đem dân tộc Israel ra khỏi Ai-cập, lang thang trong
sa mạc 40 năm, và sau đó đinh cư trong vùng đất Đức Chúa đã hứa.
2/ Phúc Âm: Hãy coi chừng các ngôn sứ giả
2.1/ Ngôn sứ thật và ngôn
sứ giả: Đời nào cũng có các ngôn sứ giả. Lịch
sử Do-thái không thiếu những hạng người này như được ghi chép nhiều lần trong
Sách ngôn sứ Jeremiah và Ezekiel. Thánh Phaolô cũng đề phòng môn đệ Timothy về
hạng người này và gọi họ là “chó sói” như Chúa Giêsu gọi hôm nay: “Họ đội lốt
chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi.” Ngày nay,
cũng đầy dẫy những linh mục giả lợi dụng chiếc áo để gieo những lạc thuyết sai
lầm và tìm kiếm lợi nhuận. Làm sao để nhận ra các ngôn sứ giả? Trước tiên chúng
ta phải biết một ngôn sứ thật.
(1) Ngôn sứ thật: Theo
định nghĩa đúng, người ngôn sứ là người nói những gì Thiên Chúa muốn nói như một
sấm ngôn hay một sứ điệp, chứ không nhải là người nói tiên tri những gì sẽ xảy
ra, dầu đôi khi có thể như vậy. Ngôn sứ là cái miệng của Thiên Chúa dùng để nói
những gì Ngài muốn nói với con người. Ngày nay, ngôn sứ thật phải biết Lời Chúa
và giảng Kinh Thánh, chứ không phải giảng văn chương và nói chuyện chính trị.
Ngôn sứ thật phải dạy dân biết Luật của Thiên Chúa và can đảm sửa sai khi cần
thiết.
(2) Ngôn sứ giả: Họ
không nói lời của Thiên Chúa, thay vào đó họ nói những gì họ muốn hay lời của
người khác rồi đổ cho Thiên Chúa. Họ không dạy cho dân biết Kinh Thánh và Lề Luật
của Thiên Chúa, nhiều khi cũng chẳng chịu học biết để dạy. Họ không dám sửa dạy
dân chúng vì sợ mất lòng và bị ghét. Họ thích nói những gì dân chúng muốn như:
khen ngợi nhiều, đừng bắt làm nhiều, nhất là đừng khui tội của dân chúng ra để
lương tâm họ bị cắn rứt.
2.2/ Phương cách để nhận
ra các ngôn sứ giả: Để giúp các tín hữu nhận
ra những ngôn sứ giả, Chúa Giêsu dạy: Nhìn quả biết cây; cứ xem họ sinh hoa quả
nào, thì biết họ là ai. Các tín hữu có thể nhìn cách sống của một người để biết
ngôn sứ thật hay giả. Hai điều chúng ta có thể rút ra từ những lời dạy của Chúa
Giêsu:
(1) Đừng nhìn bên
ngoài mà đánh giá: Đừng đánh giá bởi bộ áo bên ngoài vì “Chiếc áo không làm nên
thầy tu.” Chúa Giêsu mô tả: “Họ xúng xính trong bộ áo thụng! Họ đeo những hộp
kinh lớn trên trán và các tua áo dài... Họ đọc kinh nhiều và dài để nuốt hết
gia tài các bà góa.”
(2) Phải nhìn việc làm
để đánh giá vì ý hướng bên trong của họ ta không thấy. Họ không quan tâm gì đến
phần hồn của chiên; nhưng để ý đến những gì chiên mang lại cho họ. Họ như chó
sói đội lốt chiên luôn rình chờ để cắn xé đoàn chiên. Một số các đặc điểm của
các ngôn sứ giả:
+ Tham lợi nhuận vật
chất: họ thích tiền và những của biếu xén.
+ Ham danh vọng: Họ lợi
dụng chức vụ để xây dựng danh tiếng cho mình. Họ chỉ nhận lời làm những gì mang
lại danh thơm tiếng tốt và chê bỏ những gì tầm thường, hèn kém.
+ Thích quyền hành: Họ
mong những chức vụ cao trọng trong Giáo Hội để được ăn trên ngồi chốc, hay chán
nản bi quan khi cấp cao không nhận ra tài năng quan trọng của họ.
+ Thỏa mãn xác thịt: Họ
lạm dụng niềm tin của phụ nữ và con trẻ để thỏa mãn xác thịt. Đây là thứ tội mà
Chúa Giêsu kinh tởm và buộc tội: “Thà buộc cối đá và quăng xuống biển còn hơn!”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta hãy biết sống
đúng với danh hiệu của mình. Nếu là ngôn sứ, hãy dạy dân biết Lời Chúa và chỉ
đường cho dân đến với Ngài. Nếu là Kitô hữu, hãy vâng lời và làm những gì Thiên
Chúa truyền dạy. Chúng ta đừng đánh giá người khác theo cái vỏ bên ngoài; nhưng
hãy nhìn vào việc làm của họ.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
26/06/2019
THỨ TƯ TUẦN 12 TN
Mt 7,15-20
Mt 7,15-20
XEM QUẢ BIẾT CÂY
“Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai.” (Mt 7,20)
Suy niệm: Những nhà vườn ươm cây giống
luôn chọn những con giống tốt cho sai trái, trái có hương vị ngon ngọt đặc biệt,
bởi vì hơn ai hết họ hiểu rõ câu nói: “Cây nào sinh quả nấy.” Chúa Giê-su dùng
kinh nghiệm này làm khuôn thước cho người môn đệ nhận định tốt xấu. Cây xấu là
những việc làm dù có vẻ tốt nhưng xuất phát từ động cơ xấu. Chúa dùng những lời
khiển trách nặng nề gọi đó là “giả hình, mồ mả tô vôi, sói đội lốt
chiên.” Để phát hiện những loại “cây xấu” đó, Chúa dạy hãy nhìn vào những
hoa quả của chúng. Việc làm trở thành xấu vì xuất phát từ tâm địa gian manh,
tham lam vị kỷ. Hoa quả tốt phát sinh từ “cây tốt” là tình yêu: nếu
chúng ta có làm được mọi sự mà thiếu đức ái thì cũng chẳng ích lợi gì(x.
1Cr 13,1tt).
Mời Bạn: Qua bí tích Thánh Tẩy,
chúng ta được ghép vào gốc tốt là Chúa Ki-tô để trở nên cây tốt. Thế nhưng
trong cuộc sống chúng ta không ít lần sinh hoa trái lép xẹp -
chẳng những vô ích mà đôi khi còn gây hại cho người khác. Đó là dấu chứng của
cây thiếu nhựa sống yêu thương mà Thiên Chúa là nguồn. Hoặc
chúng ta đến với các bí tích là phương thế hữu hiệu giúp phục hồi sinh lực, hoặc
chấp nhận “bị chặt đi và quăng vào lửa”?
Chia sẻ: Bạn nghĩ gì về lời trách khéo của ai đó trước những lối sống
bất chính của người Ki-tô hữu: “người có đạo mà cũng làm thế ư?”
Sống Lời Chúa: Kiểm điểm đời sống bằng
cách xét những hậu quả theo sau một việc mình đã làm: “Việc đó đem lại bình an
yêu thương hay gây ghen ghét bất công cho tôi và người khác?”
Cầu nguyện: Lạy
Chúa, xin gìn giữ chúng con trong tình yêu để hoa trái chúng con đem lại lợi
ích cho mọi người.
(5 phút Lời Chúa)
Cứ xem quả thì biết họ (26.6.2019 – Thứ tư Tuần 12
Thường niên)
Chúng ta cần có thời gian để phân định quả xấu, quả tốt.
Và cũng cần có thời gian để nhận ra đâu là sói, đâu là chiên.
Suy niệm:
Thời nào Hội Thánh cũng có những ngôn sứ giả.
Họ mang dáng dấp là người của Chúa, người nói lời Chúa.
Họ hấp dẫn quần chúng và có nhiều người chạy theo.
Đức Giêsu dạy ta phải coi chừng họ (c. 15).
Ngài dùng một hình ảnh quen thuộc để nói lên mối nguy cơ này.
Các ngôn sứ giả đội lốt chiên tốt lành mà đến với dân Chúa.
Nhưng thực chất họ là sói dữ tham mồi.
Cái khó là nhận ra bộ mặt thật của họ để không bị đánh lừa.
Không nhận ra họ là sói, chúng ta có thể dễ làm mồi cho họ.
Đức Giêsu dùng một hình ảnh khác
để chỉ cho ta cách phân biệt chiên với sói: hình ảnh quả và cây.
Cây nào sinh quả ấy: đó là một nguyên tắc bất biến.
“Có ai hái được nho ở bụi gai, hay hái vả trên cây găng không?” (c. 16).
Hẳn là không rồi.
Cây tốt ắt sinh quả tốt,
cây bị sâu ắt sinh quả chẳng ra gì (c. 17).
Hơn nữa, Đức Giêsu còn
mạnh mẽ khẳng định:
cây tốt không thể sinh
quả xấu,
và cây xấu không thể
sinh quả tốt được (c. 18).
Chính vì thế cứ nhìn
quả thì biết cây.
Cứ nhìn những công việc
do một người làm,
ta sẽ biết người ấy là ai (cc. 16. 20).
Những môn đệ đích thực của Đức Giêsu hẳn sẽ sinh quả tốt,
đó là sống công chính
như giáo huấn của Bài Giảng trên núi.
Còn những ngôn sứ giả
bị lộ mặt nạ qua đời sống bất chính của họ.
Chuyện ngôn sứ giả đã
có từ xưa trong Cựu ước.
Ở Côrintô, thánh
Phaolô đã phải vất vả đối đầu
với những kẻ mà ngài gọi
là tông đồ giả, đội lốt tông đồ của Đức Kitô.
Ngài còn thêm: “Lạ gì
đâu!
Vì chính Xatan cũng đội
lốt thiên thần sáng láng!” (2 Cr 11, 13-14).
Như thế các tín hữu phải
cảnh giác để phân biệt chân và giả,
đặc biệt trong thời Hội
Thánh gặp khủng hoảng khó khăn.
Họ phải tỉnh táo để khỏi
bị dáng vẻ bên ngoài hay lý luận mê hoặc.
Điều cần lưu tâm là đời
sống công chính của vị ngôn sứ.
Trong thư gửi tín hữu
Galát, thánh Phaolô cho chúng ta một tiêu chuẩn
để nhận
ra hoa quả nào là bắt nguồn từ Thần Khí (5, 22).
Đó là bác ái, hoan lạc,
bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín…
Những điều ngược lại,
ngài gọi là những hành động của xác thịt,
như hận thù, bất hòa,
nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái… (5, 20).
Sống trong một thế giới
phẳng và đa nguyên, người kitô hữu hôm nay
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
và nhanh chóng,
bởi nhiều nguồn thông
tin, đến từ nhiều người.
Những tiêu chuẩn của Đức
Giêsu hay của thánh Phaolô vẫn còn giá trị.
Nhưng chúng ta cần có
thời gian để phân định quả xấu, quả tốt.
Và cũng cần có thời
gian để nhận ra đâu là sói, đâu là chiên.
Cầu nguyện:
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
26 THÁNG SÁU
Mọi Sự Đều Phục Vụ
Cho Điều Thiện Hảo
Đề cập đến sự quan
phòng của Thiên Chúa nghĩa là nhìn nhận rằng từ nguyên thủy, trong kế hoạch
sáng tạo của Thiên Chúa không có chỗ cho sự dữ. Tuy nhiên, một khi sự dữ được
con người gây ra và được Thiên Chúa cho phép xảy ra, thì rốt cục nó trở thành
phụ thuộc đối với sự thiện: “Tất cả đều phục vụ cho điều thiện hảo”, như lời
Thánh Phao-lô Tông Đồ (Rm 8, 28). Đây là một khẳng định cần được ta tìm hiểu
thêm.
Chúng ta đã ghi nhận rằng
Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, bênh vực cho sự thật. Sự thật về sự quan phòng của
Thiên Chúa hiện diện trong toàn bộ mạc khải cũng như trong tạo vật. Sự thật ấy
chính là điểm qui chiếu đầu tiên và nền tảng của tất cả những gì mà Thiên Chúa
“bằng nhiều lần nhiều cách” muốn nói với con người “qua các tiên tri và – trong
những ngày sau hết – qua Người Con” (Dt 1,1). Thật rất quan trọng việc đọc và
suy tư về sự thật này trong Thánh Kinh – nơi mà nó được trình bày trực tiếp cho
chúng ta. Cũng rất hữu ích việc nghiên cứu những tham chiếu gián tiếp cho thấy
tính chân thật của mạc khải Thiên Chúa trong Thánh Kinh.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 25-6
St 15, 1-12.17-18;
Mt 7, 15-20.
Lời suy niệm: “Anh em hãy
coi chừng các ngôn sứ giả; họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong,
họ là sói dữ tham mồi.”
Chúa Giêsu khi nói câu
này là có thật. Điều này đã xãy ra trong Cựu Ước. Ngôn sứ Êdêkien đã từng nói:
“Các thủ lãnh trong xứ này tựa bầy sói xé mồi; chúng gây ra đổ máu, giết người
để trục lợi.” (Ed 22,27) và ngôn sứ Xôphônia nói: “Trong thành, các thủ lãnh
như sư tử rống, các thẩm phán như sói ăn đêm sáng ngày ra chẳng còn chi để gặm.”
(Xp 3,3). Nên mỗi người trong chúng ta cần phải cảnh giác ngôn sứ thật và ngôn
sứ giả.
Lạy Chúa Giêsu. Xin
Chúa gìn giữ chúng con trong sự thật, sự thánh thiện, và xua đuổi xa chúng con
những ngôn sứ giả, để chúng con khỏi phải sa ngã mà phạm tội.
Mạnh Phương
26 Tháng Sáu
Bằng Lòng Về Chính
Mình
Hans Christian
Andersen, văn sĩ Ðan Mạch sống vào khoảng cuối thế kỷ 19, là tác giả của những
câu chuyện dạy đời bất hủ. Ông có kể câu chuyện như sau:
Có một đôi vợ chồng
già nọ sống bên nhau rất hạnh phúc. Thật ra người nắm giữ bí quyết hạnh phúc
trong gia đình này chính là người vợ. Lúc nào bà cũng hài lòng về bất cứ hành động
nào của người chồng. Một hôm, người vợ đề nghị với chồng là nên bán bớt một con
bò. Thật ra tất cả tài sản của họ chỉ là đôi bò.
Người chồng tán
thành ý kiến của vợ. Ngay từ sáng sớm, ông dắt bò ra chợ. Nhưng đường dài, mặt
trời mỗi lúc một chói chang. Con bò già lại không thể bước nhanh. Do đó khi thấy
một người nông dân khác cũng đang dắt heo ra chợ bán, người chồng mới có ý nghĩ
đem đổi bò lấy con heo. May ra con heo có thể đi nhanh hơn không?
Ðổi được con heo và
đi được một quãng đường, người chồng lại cảm thấy không thoải mái chút nào. Con
heo cứ muốn đi theo hướng của nó. Vừa bực tức với con heo, ông lại thấy một người
nhà quê khác cũng đang dắt dê ra tỉnh. Ông nghĩ rằng dê có thể là con vật ít cồng
kềnh hơn con heo, cho nên ông mới nấn ná đến người chủ dê để đề nghị hoán đổi.
Ðổi được dê, người
đàn ông như cảm thấy nhẹ nhõm trong người. Nhưng chỉ trong vài phút đồng hồ,
ông mới khám được cái tính bất thường của loài dê. Nó chạy bên này, nhảy bên
kia, nó đưa sừng húc khắp mọi nơi... Giữa lúc ông ngán ngẩm với con dê, thì bỗng
đâu một người nhà quê khác tiến lại gần ông với cả một đàn ngỗng. Con ngỗng dù
sao cũng ít cồng kềnh hơn con dê. Nghĩ vậy cho nên ông mang con dê đến đổi lấy
một chú ngỗng trắng. Ôm lấy chú ngỗng vào lòng, người đàn ông cảm thấy thoải
mái hơn bao giờ hết. Ông tin chắc là mình sẽ đến chợ sớm hơn. Nhưng chưa đến chợ,
thì ông lại thấy một người buôn gà. So sánh gà với ngỗng, dĩ nhiên gà phải nhẹ
hơn... Tính toán mãi, cuối cùng, ông đã đem chú ngỗng đến đổi lấy một con gà.
Mặt trời mỗi lúc một
lên cao. Cơn khát như muốn đốt cháy cổ họng ông. Bụng ông lại trống rỗng. Vừa
thấy một quán ăn bên vệ đường, người đàn ông không còn cầm được cơn cám dỗ. Ông
đành phải đem con gà bán đi với giá một đồng bạc. Một đồng này vừa đủ cho một bữa
ăn trưa cộng với một ly bia.
Những người đàn ông
trong quán ăn biết chuyện mới tỏ ra ái ngại cho giây phút ông phải đối đầu với
người vợ. Thế nhưng, con người luôn luôn được vợ hài lòng ấy vẫn tỏ ra bình thản.
Ông tin tưởng rằng vợ ông sẽ không boa giờ trách móc ông. Một người đàn ông có
máu cờ bạc, không tin ở thái độ của bà vợ ông, cho nên mới đề nghị đánh cá.
Ôngta đưa ra hai mươi đồng và đi theo người đàn ông về đến nhà. Ôn núp một nơi
kín đáo để theo dõi phản ứng của người vợ.
Quả thực, người đàn
ông bắt đầu báo cáo lại cho vợ từng chi tiết của những cuộc trao đổi của ông. Cứ
mỗi lần người đàn ông kể lại một cuộc đổi chác của mình, người vợ đều tỏ ra hài
lòng. Khi người đàn ông kể đến chuyện ông bán con gà được một đồng và vào quán
ăn trưa, người vợ mới mỉm cười thốt lên như sau: "Tạ ơn Chúa, cũng may là
mình bán được con gà. Như vậy là mình có thể ngủ yên mà không sợ tiếng gà gáy
phá giấc. Ðiều quan trọng đối với tôi là biết rằng mình thỏa mãn là được".
Người chồng thắng
được vụ cá cuộc. Ông được hai mươi đồng, số tiền còn lớn hơn cả giá bán con bò.
Hãy đón nhận từng giây
phút hiện tại với hân hoan, cảm mến. Hãy làm công việc trong phút giây hiện tại
như là công việc quan trọng nhất. Hãy đón tiếp người trước mặt như một người
quan trọng nhất. Hãy chấp nhận mọi người với cảm thông, tha thứ và lạc quan.
Hãy chấp nhận chính bản thân với sự bằng lòng, thoải mái: đó là tất cả bí quyết
của hạnh phúc mà chúng ta cần phải nắm lấy.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét