Trang

Thứ Ba, 2 tháng 7, 2019

03-07-2019 : THỨ TƯ - TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN - THÁNH TÔMA, TÔNG ĐỒ - LỄ KÍNH


03/07/2019
Thứ tư tuần 13 thường niên
Thánh TÔMA, TÔNG ĐỒ.
Lễ kính.


* Vào lúc Đức Giêsu chịu thương khó và phục sinh, khuôn mặt của thánh Tôma nổi bật. Trong bữa ăn tối, đáp lại thắc mắc của Tôma, Đức Giêsu nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Khi nghe nói Đức Giêsu đã phục sinh, vị tông đồ này không tin ngay. Mãi tới lúc Đức Giêsu cho Tôma thấy tay và cạnh sườn bị đâm thủng, Tôma mới tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
Theo truyền khẩu thì thánh nhân đã đi loan báo Tin Mừng cho dân Ấn Độ. Từ thế kỷ 4, người ta mừng ngày rước hài cốt của ngài về Ê-đét-xa, tức là ngày 3 tháng 7.

BÀI ĐỌC I: Ep 2, 19-22
“Anh em được xây dựng trên nền tảng các tông đồ”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em không còn là khách trọ và khách qua đường nữa, nhưng là người đồng hương với các Thánh và là người nhà của Thiên Chúa: anh em đã được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ và các Tiên tri, có chính Đức Giêsu Kitô làm Đá góc tường. Trong Người, tất cả toà nhà được xây dựng cao lên thành đền thánh trong Chúa, trong Người, cả anh em cũng được xây dựng làm một với nhau, để trở thành nơi Thiên Chúa ngự trong Thánh Thần. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 116, 1. 2
Đáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).
Xướng:
1) Hỡi muôn dân, hãy ngợi khen Chúa! Hỡi ngàn dân, hãy ca tụng Người. – Đáp.
2) Vì lòng từ bi Người vững bền trên chúng ta, và lòng trung kiên Người tồn tại đến muôn đời. – Đáp.

ALLELUIA: Ga 20, 29
Alleluia, alleluia! – Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Ga 20, 24-29
“Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Bấy giờ trong Mười Hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđy-mô, không ở cùng với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin”. Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà, và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Đoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Đừng cứng lòng nữa
Suy niệm:
Chẳng rõ vì lý do gì mà ông Tôma đã không ở với nhóm môn đệ
khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra gặp các ông.
Có vẻ có một sự xa cách nào đó giữa Tôma và mười ông kia.
Chuyện này trở nên rõ hơn khi ông Tôma từ chối tin vào lời của họ:
“Chúng tôi đã thấy Chúa!” (c. 25).
Ông đòi tự mình kiểm chứng, thấy tận mắt, sờ tận tay.
Thấy dấu đinh nơi bàn tay Thầy, xỏ ngón tay mình vào lỗ đinh,
thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy: đó là những điều kiện ông đòi để tin.
Tôma không đứng dưới chân thập giá như người môn đệ Chúa yêu,
nhưng ông đã được nghe chuyện Thầy bị đóng đinh, bị đâm nơi cạnh sườn.
Đối với ông, nếu Thầy thực sự phục sinh,
thì thân xác Thầy vẫn còn phải mang những vết thương đó.
Phục sinh không làm mất đi những vết sẹo của tình yêu cứu độ.
Đấng phục sinh lại có ý chiều ông, đó mới là chuyện lạ.
Ngài biết óc thực tiễn của ông, và Ngài không muốn mất ông (Ga 17, 12).
Ngài dám thỏa mãn những đòi hỏi táo bạo và cụ thể của ông,
để đưa ông về với đức tin, về với cộng đoàn.
Một tuần sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần,
Đức Giêsu phục sinh đến như thể cho một mình ông thôi,
và mời ông làm những điều ông đòi hỏi.
Chẳng rõ Tôma có dám thực hiện hay không,
nhưng chính thái độ bao dung và yêu thương của Thầy đã chinh phục ông.
Môi ông bật lên lời tuyên xưng đức tin cao nhất trong Tân Ước:
“Lạy Chúa của tôi; lạy Thiên Chúa của tôi” (c.28).
Lời tuyên xưng này vượt quá những gì giác quan ông có thể cảm nhận.
“Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những ai không thấy mà tin!”
Chúng ta ngày nay tuy không được hưởng kinh nghiệm như thánh Tôma,
nhưng chúng ta lại được hưởng một mối phúc mà ngài không có được.
Đó là mối phúc của người tin, không phải nhờ thấy tận mắt,
mà nhờ nghe lời chứng của các môn đệ (Ga 17, 20), trong đó có Tôma.
Xin cám ơn sự cứng lòng của thánh Tôma, cám ơn lời chứng của ngài.
Chính sự cứng cỏi của ngài làm chúng ta mềm mại hơn để tin,
vì chúng ta biết chuyện Chúa phục sinh không do một ảo giác tập thể.
Tôma là một người hoàn toàn tỉnh táo.
Trong tập thể chúng ta đang sống, vẫn có những Tôma:
hoài nghi, bướng bỉnh, đòi hỏi, xa cách với cộng đoàn…
Thầy Giêsu dạy chúng ta bao dung và nhẫn nại, chứ không kết án.
Quanh chúng ta vẫn có nhiều người chưa biết Chúa,
họ cũng đòi thấy và đụng chạm đến Thiên Chúa.
Kitô hữu chúng ta phải có kinh nghiệm sâu xa như các tông đồ xưa,
để làm chứng được rằng: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (c. 25).

Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.



Lời Chúa Mỗi Ngày
Kinh Thánh Thomas Tông Đồ.
Bài đọcEph 2:19-22; Jn 20:24-29.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phúc cho những ai tuy không thấy mà tin!
Thánh Thomas Tông Đồ thường được gọi là “Cha của những kẻ cứng lòng tin;” nhưng cũng nhờ ngài mà chúng ta có thêm những lời dạy dỗ của Đức Kitô, và mở mắt cho chúng ta thấy có nhiều cách thức khác để con người phải tin vào Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong những cách thức khác nhau một người có thể dùng để tin vào Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tác giả Thư Ephesô xác tín đức tin của chúng ta được xây dựng trên Đá Tảng là Đức Kitô, và nền móng là niềm tin của các tông-đồ và các tiên-tri. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách Thomas đã chỉ dựa vào kinh nghiệm giác quan, mà không chịu tin vào lời Ngài đã loan báo trước Cuộc Khổ Nạn và lời chứng của các tông-đồ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức tin của chúng ta dựa trên niềm tin nền tảng của các Tông-đồ.
1.1/ Vị thế của người Kitô hữu trong gia đình Thiên Chúa: Tác giả Thư Ephesô xác định: “Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa.” Một sự phân tích của 4 từ ngữ dùng trong câu này, cho chúng ta hiểu ý của tác giả:
(1) Người xa lạ (xenos): người ngoại kiều, không có một chút liên hệ nào với người bản xứ, cũng không được bảo vệ bởi luật pháp bản xứ. Đó là tình trạng của Dân Ngoại, khi họ chưa biết Đức Kitô.
(2) Người tạm trú (paroikos): người ngoại kiều được phép trong một quốc gia, nhưng chỉ tạm thời trong một thời gian. Họ chỉ được hưởng một số những quyền lợi của người bản xứ, và phải ra khỏi xứ khi thời gian hết hạn.
(3) Người đồng hương (sumpolithi): người cùng sinh ra trong một làng, một nước; có cùng chung niềm tin, thói quen, truyền thống, và văn hóa. Những người này có thói quen lập Hội Ái Hữu để giúp đỡ nhau khi phải di chuyển đi nơi xa hay nơi đất khách quê người. Ví dụ: Hội Ái Hữu Thức Hóa, qui tụ những đồng hương của làng Thức Hóa, Bùi Chu, Bắc Việt Nam. Tác giả Thư Ephesô gọi các tín hữu là những “đồng hương với các người thuộc dân thánh,” vì họ có cùng niềm tin nơi Đức Kitô, và cùng được kêu gọi để trở nên thánh thiện.
(4) Người nhà (onkeios): người có liên hệ ruột thịt hay hoàn cảnh đặc biệt, liên kết thành một nhóm rất thân mật, sống chung trong một mái nhà. Những người này được gọi là những thành viên của một nhà. Họ được chung hưởng mọi quyền lợi và có bổn phận bảo vệ nhà mình. Tác giả gọi các tín hữu là những “người nhà của Thiên Chúa;” vì họ cùng được hưởng ơn cứu độ Thiên Chúa đã dọn sẵn. Họ cùng chung bổn phận làm sao cho mọi người trong nhà đạt được ơn cứu độ.
1.2/ Tòa nhà của Thiên Chúa: được nhân cách hóa để chỉ vị thế và bổn phận của mỗi thành phần của Dân Chúa. Một tòa nhà gồm những phần sau đây:
(1) Đá Tảng góc tường (avkrogwniaios): là chính Đức Giêsu Kitô. Đá Tảng là viên đá góc, viên đá quan trọng nhất nối hai bức tường của tòa nhà và sàn nhà với nhau, trong kiến trúc xây nhà của người Do-thái. Nhiều người cho hai bức tường này tượng trưng một cho Do-thái và một cho Dân Ngoại. Đức Kitô hay niềm tin vào Đức Kitô là Đá Tảng cho tòa nhà này. Nếu không được xây dựng trên Đá Tảng là Đức Kitô, tòa nhà của Thiên Chúa sẽ không thành hình được.
(2) Nền móng (themelios): là các Tông Đồ và ngôn sứ. Cấu trúc quan trọng thứ hai của tòa nhà là nền móng, trên đó tòa nhà được xây dựng lên. Chúa Giêsu đã từng cho chúng ta một ví dụ về việc xây nhà trên đá thay vì trên cát. Các ngôn sứ và các tông-đồ được ví như nền móng của tòa nhà Thiên Chúa, vì đức tin của họ vào Thiên Chúa. Nhờ những cố gắng rao giảng và máu của họ đổ ra, mà đức tin được lan tràn ra cho mọi người.
(3) Các phần khác: là toàn thể các tín hữu. Có thể ví mỗi tín hữu như một viên gạch được xây trong tòa nhà của Thiên Chúa; tuy nhỏ bé, nhưng cần thiết để hoàn thành. Trong Đức Kitô, “toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí.”
2/ Phúc Âm: Phúc thay những người không thấy mà tin!
2.1/ Đức tin dựa trên kinh nghiệm: Có những người chỉ tin khi mắt thấy, tai nghe, và tay sờ mó được. Thomas là một trong những người này. Vì ông không có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra với các tông-đồ lần thứ nhất, nên họ nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” Ông Thomas đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.”
2.2/ Đức tin dựa trên các điều khác: Ngoài đức tin dựa trên kinh nghiệm giác quan như Thomas đòi hỏi, chúng ta còn ít nhất 3 cách khác để tin một điều là sự thật:
(1) Thế giá của người nói: Đây là cách mà chúng ta vẫn áp dụng hằng ngày: con cái tin cha mẹ, học sinh tin thầy cô, nhân viên tin chủ mình … Chúng ta tin vì chúng ta nghĩ những người này không thể đánh lừa chúng ta. Tòa án các cấp cũng thường áp dụng điều này khi đòi phải có hai hoặc ba nhân chứng để xác định một điều xảy ra là sự thật. Chúa Giêsu trách Thomas cứng lòng tin, vì đã không tin lời của 10 nhân chứng là các tông-đồ.
(2) Hậu quả xảy ra: Nguyên lý nhân quả là nguyên lý mà chúng ta vẫn thường dùng trong cuộc sống hằng ngày. Ví dụ, khi chúng ta thấy khói bốc lên, chúng ta biết ngay có lửa đang cháy. Tuy chúng ta không thấy điện chạy, nhưng chúng ta không dám rờ vào ổ điện, vì chúng ta sợ điện giật. Cũng vậy, tuy chúng ta không thấy Thiên Chúa; nhưng nhìn mọi sự vật do tay Chúa sáng tạo, chúng ta tin có Thiên Chúa.
(3) Ghi chép lịch sử: Khi học lịch sử, chúng ta tin những người ghi chép lại những biến cố lịch sử đã xảy ra. Nếu có nghi ngờ, chúng ta có thể đối chiếu các nguồn lịch sử khác nhau, và dùng trí phán đoán để xác định sự trung thực của các biến cố. Khi đọc Kinh Thánh, chúng ta cũng dựa trên lịch sử để xác định sự trung thực của các biến cố xảy ra. Chẳng hạn, chúng ta thường gặp những câu trong Tân Ước như: “để ứng nghiệm lời Kinh Thánh đã nói,” hay “để làm tròn lời Kinh Thánh đã chép” …
2.3/ Ông Thomas tuyên xưng đức tin: Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Thomas ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Rồi Người bảo ông Thomas: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Ông Thomas thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” Đức tin dựa trên kinh nghiệm là cách thấp nhất để một người tin, Chúa Giêsu khiển trách Thomas vì đã không chịu dùng các cách khác nữa. Thánh Thomas, tuy cứng lòng tin; nhưng một khi đã xác tín niềm tin vào Đức Kitô, ông không bao giờ lui gót nữa. Ông không chỉ tuyên xưng Đức Kitô là Thầy, mà còn là Thiên Chúa của ông.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta là những viên đá sống động trong Đền Thờ của Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là lo sao cho Đền Thờ này luôn sống động và tăng trưởng mỗi ngày.
– Đức tin của chúng ta không chỉ dựa trên kinh nghiệm của giác quan; nhưng còn dựa trên Kinh Thánh, lịch sử, hậu quả, và những lời làm chứng của bao nhiêu chứng nhân trong lịch sử.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


03/07/19 – THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 13 TN
Th. Tô-ma, tông đồ
Ga 20,24-29

TIN CÓ ĐIỀU KIỆN
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.”(Ga 20,25b)
Suy niệm: Trong cuộc sống, chữ tín là yếu tố quan trọng nhất làm nền móng cho mọi tương quan xã hội. Muốn có khách hàng vào ăn trong quán của mình thì chủ quán phải làm sao để khách hàng tin họ sẽ không bị đầu độc khi vào ăn trong quán đó. Thế nhưng để có được niềm tin thì phải có điều kiện: niềm tin đó phải được kiểm chứng. Thánh Tô-ma đã đòi hỏi một thứ điều kiện như thế: Ông đòi phải tự mình mắt thấy, tay đụng chạm vào các vết thương của cuộc thương khó nơi thân thể Thầy thì ông mới tin vào lời chứng của các bạn. Chúa không bác bỏ một yêu cầu vốn chính đáng như thế, nhưng để tin Ngài đã sống lại thật – một thực tại siêu nhiên, một mầu nhiệm – thì còn có những chứng cứ mạnh hơn nhiều: – Ngài đã sống lại “đúng như lời Kinh Thánh;” – sự sống của Chúa Kitô phục sinh tuôn trào trong tâm hồn những người được Chúa tuyển chọn làm nhân chứng.
Mời Bạn: Bạn có biết Kinh Thánh làm chứng gì về mầu nhiệm Chúa Kitô phục sinh không? Bạn có cảm nghiệm gì về sự sống của Ngài trong tâm hồn bạn và mời gọi bạn làm chứng cho Ngài không?
Sống Lời Chúa: Thánh Kinh là chìa khóa vàng mở ra cho chúng ta những câu trả lời mà chúng ta chưa tin và còn nghi ngại. Mời bạn đọc Kinh Thánh hàng ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, con người chúng con là xác với hồn. Nên chúng con nghi ngờ tất cả. Xin cho lòng tin của chúng con đặt vào Thiên Chúa trọn vẹn. Xin cho chúng con Tin vào Chúa cách vô điều kiện như Chúa Yêu chúng con vô điều kiện. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3 THÁNG BẢY
Nguồn Thiện Hảo Bất Tận Của Thiên Chúa
Vị Thiên Chúa hằng săn sóc chúng ta ấy là ai vậy? Sách Gióp mô tả Ngài là Đức Chúa của mọi tạo vật: “Hãy xem: Thiên Chúa cao cả khi bày tỏ quyền năng, tôn sư nào sánh được với Ngài? … Các giọt nước mưa, Ngài gom góp lại, rồi đem nghiền nát thành sương mù. Các tầng mây đổ mưa xuống trên phàm nhân hết thảy… Quả thật, Ngài dùng nước mà nuôi dưỡng chư dân – cho họ có lương thực dồi dào” (G 36,22.27-28.31).
“Ngài dùng hơi nước tạo thành mây, và từ mây, Ngài làm cho chớp lóe. Mây lang thang xoay đủ mọi chiều, theo đúng chương trình Ngài hoạch định, để trên toàn cõi đất chúng thực thi mọi lệnh Ngài truyền” (G 37,11-12).
Sách Huấn Ca âm vọng lại những lời của Sách Gióp – và nói về Thiên Chúa của tạo vật: “Ngài ra lệnh truyền, tuyết liền sa xuống. Ngài phóng những tia chớp làm phán quyết của Ngài” (Hc 43,13). Tác giả Thánh Vịnh cũng tán dương “sức mạnh đáng sợ của Ngài”, “sự tốt lành vô lượng của Ngài”, “uy phong rạng rỡ của Ngài”, Ngài là “Đấng thành tín và đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm”. Tác giả Thánh Vịnh thốt lên: “Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thỏa thuê. (Tv 145,6-7.15-16).
Hơn thế nữa, tác giả Thánh Vịnh nhắc đến tình yêu và sự quan tâm của Thiên Chúa dành cho tất cả những gì mà Ngài đã dựng nên: “Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc, làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng. Từ ruộng đất họ kiếm ra cơm bánh, chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người, xức dầu thơm cho gương mặt sáng tuơi, nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ” (Tv 104,14-15).
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 03/7
Thánh Tôma Tông Đồ
Ep 2, 19-22; Ga 20, 24-29.

LỜI SUY NIỆM: Ông Tôma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”
            Trong ngày lễ kính thánh Tôma Tông Đồ, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại câu chuyện Chúa Giêsu sau khi Người Phục Sinh, Người đã đến, hiện diện với các Tông Đồ và ban bình an cho họ; nhưng thiếu Tôma, Tôma, nghe đồng bạn nói về Chúa đã sống lại thật, nhưng ông không chịu tin.  Tám ngày sau Chúa Giêsu lại hiện ra một lần nữa để Tôma được chứng kiến. Và Tôma đã tuyên xưng niềm tin của mình: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”
            Lạy Chúa Giêsu. Chúa không muốn mất thêm một Tông đồ nào của Chúa nữa, như là Tôma, như là hai môn đệ trên đường trở về Êmau, hay là Bảy môn đệ rủ nhau đi thả lưới bắt cá mà không bắt được gì cả. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn đặt trọn đời mình trong vòng tay tình yêu thương và gìn giữ của Chúa; mà trung thành sống đạo hằng ngày. 
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 03-07: THÁNH TÔMA TÔNG ĐỒ
(Thế kỷ I)

Tôma là người Do thái, miền Galilê, sống nghề chài lưới, Chúa Giêsu đã chọn Ngài vào số mười hai tông đồ, và Ngài đã từ bỏ mọi sự để chỉ còn thuộc về thầy chí thánh mà thôi. Tôma tỏ ra đơn sơ, nhiệt thành và tận tụy. Khi Lazarô chết các tông đồ run sợ vì thấy Chúa Giêsu về Giêrusalem, nơi các tông đồ biết rõ là bọn biệt phái đang tìm cách giết Người.
Các tông đồ ngăn cản: – Thưa Thầy, vừa đây người Do thái tìm cách ném đá Thầy mà Thầy lại qua đó nữa sao ?
Nhưng Tôma trung tín và có phần bi quan. Ông góp ý: – Cả chúng ta nữa, hãy đi qua để chết với Ngài (Ga 11, 8-16)
Trong cuộc đàm thoại trước khi Chúa chịu tử nạn, Chúa Giêsu tìm cách an ủi các tông đồ. Ngài nói: – Lòng các con xao xuyến… Ta đi dọn chỗ cho các con, và Ta đi đâu, các con biết đường rồi.
Tôma thưa lại với nhiệt tình muốn theo Chúa: – Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao mà biết đường?
Và Chúa Giêsu đã trả lời ông: – Đường, sự thật và sự sống chính là Ta (Ga 14,1-6)
Rồi biến cố khổ nạn xảy ra. Đoàn ngũ tông đồ tan tác. Tội nghiệp Tôma: ông đã không cùng “chết với Ngài” (!). Trái lại, khi Chúa Giêsu sống lại và hiện ra với các bạn khác, có lẽ Tôma còn đang ôm đầu than khóc cho nỗi cay đắng.
Nghe các bạn nhiệt thành làm chứng rằng: Chúa đã sống lại, sự cứng tin được biểu lộ bằng sự bực bội: – Nếu nơi tay Người, tôi không thấy các dấu đinh, và tay tôi tra vào lỗ đinh, cùng tra bàn tay tôi vào cạnh sườn Người tôi không tin.
Tiếp sau là một tuần buồn thảm. Đơn độc đối với Tôma trong khi các bạn ông hạnh phúc. Chỉ có một mình Chúa Giêsu có thể thuyết phục nổi Tôma thôi. Tám ngày sau lần hiện ra trước, Chúa Giêsu lại đến, lần này có Tôma. Chúa Giêsu thân ái nói với ông: – Hãy đem ngón tay ngươi đặt đây, này tay Ta, hãy đem tay ngươi tra vào cạnh sườn Ta và đừng ở như người cứng tin, mà là như người thành tín.
Không cần gì nữa, không còn nghi ngờ được, Tôma lớn tiếng tuyên xưng: – Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi.
Chúa Giêsu trả lời ông: – Bởi thấy ta ngươi đã tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin (Ga 2,24-29).
Đây là lời khích lệ dành cho những người biết đón nhận đức tin. Nhưng Chúa Giêsu đã không bao giờ bảo người ta phải nhắm mắt lại. Thánh Grêgôtiô ghi nhận rằng: sự nghi ngờ của Tôma giúp ích cho chúng ta hơn là đức tin của những người khác. Đức tin vượt trên lý trí, nhưng lý trí dẫn tới đức tin.
Sau ngày lễ hiện xuống, các tông đồ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Theo Eusêbiô, thánh Tôma đi giảng đạo ở Parthia. Theo một truyền thuyết khác, thánh nhân đã được gặp các đạo sĩ, đã kính viếng Chúa Hài Đồng thuở trước, và rửa tội cho họ. Một truyền thống sớm sủa và mạnh mẽ hơn cho rằng Ngài là vị tông đồ của dân An Độ.
(daminhvn.net)


03 Tháng Bảy
Vị Tiên Tri Cô Ðộc
Người Ấn Ðộ có kể lại câu chuyện ngụ ngôn sau đây:
“Vì tội lỗi của loài người, Thượng đế dọa sẽ trừng trị họ bằng một trận động đất. Ðất sẽ nứt nẻ và nước sẽ rút hết vào trong lòng đất… Một thứ nước độc sẽ tràn ngập mặt đất. Ai uống vào sẽ trở nên bất bình thường.
Một vị tiên tri nọ đã không xem thường lời đe dọa của Thượng đế. Ông chuẩn bị đương đầu với biến cố bằng cách từng ngày đem nước lên một ngọn núi cao. Số nước dự trữ đủ cho ông sống đến ngày tàn của cuộc đời…
Ðộng đất đã xảy đến, bao nhiêu sông nước trên mặt đất đều bốc hơi, một thứ nước khác được thay thế vào.
Một tháng sau, vị tiên tri trở lại đất bằng để xem những gì đang xảy ra cho loài người. Ðúng như lời đe dọa của Thượng đế, mọi người sống trên mặt đất đều hóa ra điên dại. Nhưng kỳ lạ thay, loài người không ý thức được tình trạng điên dại của mình. Trái lại, ai cũng muốn ra đường để chế diễu vị tiên tri vì họ cho rằng ông mới là người điên dại…
uồn tình, vị tiên tri trở lại chốn núi cao của mình. Ông sung sướng vì nước dự trữ vẫn còn và ông vẫn là người duy nhất còn có một tâm trí lành mạnh, bình thường…
Nhưng ngày qua ngày, ông cảm thấy không chịu nổi sự cô đơn của mình. Ông khao khát được sống một cách bình thường với những người đồng loại. Thế là một lần nữa, ông trở lại đồng bằng. Và một lần nữa, ông lại bị dân chúng ruồng rẫy, vì họ cho rằng ông không còn giống họ nữa.
Không còn chịu được sự hắt hủi của những người đồng loại, vị tiên tri đã đổ hết số nước dự trữ của mình và ông uống lấy nước mới của người đồng loại để cũng trở nên điên dại như họ…”
Con đường dẫn đến chân lý không phải là con đường rộng thênh thang. Người đi tìm chân lý thường là người cô độc…
Hôm nay chúng ta kính nhớ thánh tông đồ Toma. Ai cũng biết lời bất hủ của Toma khi tuyên bố về sự sống lại của Chúa: Nếu tôi không xỏ tay tôi vào lỗ đinh và cạnh sườn Ngài, tôi không tin… Theo phương pháp khoa học, nhiều người đã lấy câu nói của Toma làm châm ngôn cho việc đi tìm chân lý. Nghĩa là, nếu tôikhông kiểm chứng được, nếu tôi không sờ mó được, tôi không chấp nhận điều đó là đúng…
Thái độ đó chưa hẳn là thái độ thực tiễn trong cuộc sống. Giá trị cao cả nhất trong cuộc sống: đó là sự tin tưởng, tín nhiệm đối với người khác. Ðau yếu, chúng ta đi mua thuốc, chúng ta buộc phải tin tưởng ở người bán thuốc. Lạc đường, chúng ta buộc phải tin tưởng ở lòng thành thật của người chỉ lối…
Thái độ đó càng đúng hơn trong lĩnh vực Ðức Tin… Chúng ta tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu không phải vì chúng ta đã thấy Người hiện ra, nhưng chỉ vì lời chứng của các tông đồ, của các tiền nhân… Một thái độ như thế đòi hỏi rất nhiều phấn đấu của lý trí. Lắm khi, chung ta chỉ là một thiểu số cô độc.
Chúng ta dễ dàng rơi vào nỗi cô độc của những người đang đi tìm chân lý. Người Kitô thường phải đi ngược dòng. Ðiều người đời cho là bất bình thường, có lẽ phải là cái bình thường đối với người Kitô. Ðiều người đời cho là yếu nhược, có khi phải là sức mạnh của người Kitô. Ðiều người đời cho là điên dại, có khi phải là lẽ khôn ngoan của người Kitô.
(Lẽ Sống)


Lectio Divina: Thánh Tôma, Tông Đồ – Ga 20:24-29
Wednesday 3 July, 2019
Mùa Thường Niên


1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Cha,
Cha kêu gọi các cái Cha
Bước đi trong ánh sáng của Đức Kitô.
Xin Cha giải thoát chúng con khỏi bóng tối
Và gìn giữ chúng con trong ánh sáng sự thật của Cha.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, Con Cha,
Đấng hằng sống và hằng trị cùng với Cha và Chúa Thánh Thần,
Một Thiên Chúa, đến muôn thuở muôn đời.  Amen.

2.  Bài Đọc Tin Mừng – Gioan 20:24-29 
Bấy giờ, trong Mười Hai Tông Đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không ở cùng với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến.  Các môn đệ khác đã nói với ông rằng:  “Chúng tôi đã xem thấy Chúa.”  Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin.”
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà, và có Tôma ở với các ông.  Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán:  “Bình an cho các con.”  Đoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin.”
Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!”  Chúa Giêsu nói với ông:  “Tôma, vì con đã thấy nên con đã tin.  Phúc cho những ai không thấy mà tin.”

3.  Suy Niệm
  Hôm nay là ngày lễ kính Thánh Tôma Tông Đồ và bài Tin Mừng cho chúng ta biết về cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với ông Tôma, vị tông đồ muốn nhìn thấy để tin.  Vì lý do này, nhiều người gọi ông là Tôma hoài nghi.  Trong thực tế, sứ điệp của bài Tin Mừng này thì rất đa dạng.  Nó sâu sắc và thực tế hơn nhiều!
  Ga 20:24-25:  Lòng nghi ngờ của ông Tôma.  Ông Tôma, một người trong Nhóm Mười Hai, đã không hiện diện khi Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ vào tuần trước đó.  Ông đã không tin vào lời chứng của những người khác đã nói rằng:  “Chúng tôi đã trông thấy Chúa.”  Ông đặt một số điều kiện: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin.”  Tôma rất đòi hỏi.  Ông phải nhìn thấy thì mới tin!  Ông không muốn một phép lạ để tin.  Không!  Ông muốn nhìn thấy những vết thương trên tay, chân và cạnh sườn!  Ông không tin vào Chúa Giêsu vinh quang, tách biệt với Chúa Giêsu người phàm đã chịu khổ nạn trên Thập Giá.  Khi thánh Gioan viết các tác phẩm, vào cuối thế kỷ thứ nhất, có một số người không chấp nhận việc Con Thiên Chúa là Đấng đã đến và trở nên người phàm (2Ga 7; 1Ga 4:2-3).  Họ là những người theo thuyết Ngộ Đạo xem thường vật chất và thể xác.  Tác giả Gioan trình bày mối quan tâm này của thánh Tôma để chỉ trích những người theo Ngộ Đạo: “Thấy thì mới tin”.  Lòng hoài nghi của ông Tôma cũng cho chúng ta thấy sự khó khăn khi tin vào Chúa Phục Sinh!
  Ga 20:26-27:  Đừng là kẻ không tin mà hãy tin.  Văn bản viết rằng “tám ngày sau”.  Điều đó có nghĩa là ông Tôma đã có thể duy trì ý kiến của mình suốt cả tuần đối với lời chứng của các Tông Đồ khác.  Thật là bướng bỉnh!  Tạ ơn Chúa, đối với chúng ta!  Do đó, tám ngày sau, trong cuộc họp mặt của cộng đoàn, một lần nữa các ông lại trải qua một kinh nghiệm sâu sắc về sự hiện diện của Chúa Phục Sinh ở giữa họ!  Các cửa đóng kín không thể ngăn cản được sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa những kẻ tin vào Người.  Ngày nay, điều này cũng tương tự.  Khi chúng ta tụ họp nhau lại, ngay cả khi chúng ta gặp gỡ đằng sau những cánh cửa đóng kín, Chúa Giêsu vẫn ở giữa chúng ta!  Và cho đến ngày nay, lời đầu tiên của Chúa Giêsu là và sẽ mãi luôn là: “Bình an cho các con!”  Điều cảm động là lòng nhân từ của Chúa Giêsu.  Người không phê phán, cũng chẳng luận cứ việc cứng lòng tin của ông Tôma, nhưng Người chấp nhận điều thách thức và nói rằng: “Tôma, hãy xỏ ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy!”  Chúa Giêsu khẳng định lòng tin cho Tôma và cho cộng đoàn, nghĩa là, Đấng Phục Sinh vinh quang cũng là Đấng đã chết vì bị đóng đinh vào thập giá! Chúa Giêsu trong cộng đoàn không phải là một Chúa Giêsu vinh hiển mà không có điểm gì chung với đời sống chúng ta.  Người chính là Đức Giêsu Đẩng đã sống trên thế gian này và thân thể Ngài còn lưu các vết tích của Cuộc Thương Khó.  Ngày nay, các vết tích của Cuộc Thương Khó được tìm thấy trong sự đau khổ của người dân, trong người đói khổ, trong dấu tích của tra tấn, của bất công.  Và Chúa Giêsu trở nên hiện diện ở giữa chúng ta trong những người phản kháng, trong những người đấu tranh cho sự sống và những người không để cho mình bị ngã lòng.  Ông Tôma tin vào Chúa Kitô và chúng ta cũng vậy!
  Ga 20:28-29:  Phúc cho những ai không thấy mà tin.  Cùng với ông Tôma chúng ta thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!”  Món quà của ông Tôma là thái độ lý tưởng của đức tin.  Và Chúa Giêsu kết thúc với sứ điệp sau cùng: “Tôma, vì con đã thấy nên con đã tin.  Phúc cho những ai không thấy mà tin!”  Với câu nói này, Chúa Giêsu tuyên bố phúc cho tất cả chúng là những kẻ ở cùng tình trạng:  không được nhìn thấy, chúng ta tin rằng Chúa Giêsu, Đấng ở giữa chúng ta, cũng là Đấng đã chịu đóng đinh trên thập giá!
Nhiệm vụ: “Như Cha đã sai Ta, thì Ta cũng sai các con!”  Từ Chúa Giêsu, Đấng đã chịu đóng đinh và đã sống lại từ cõi chết, chúng ta nhận lãnh sứ vụ, cùng một sứ vụ mà Chúa đã nhận lãnh từ Chúa Cha (Ga 20:21).  Tại đây, trong lần hiện ra lần thứ hai, Chúa Giêsu lặp lại: “Bình an cho các con!”  Lời lặp lại này nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự Bình An.  Xây dựng bình an là một phần của sứ vụ.  Hòa bình thì có ý nghĩa rộng lớn hơn là việc không có chiến tranh.  Nó có nghĩa là xây dựng một nhân loại sống hài hòa cùng nhau trong đó người ta có thể được là chính mình, có mọi thứ cần thiết để sống, sống hạnh phúc cùng nhau trong hòa bình.  Đây là sứ vụ của Chúa Giêsu và cũng là sứ vụ của chúng ta.  Chúa Giêsu thổi hơi và bảo rằng:
“Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần” (Ga 20:22).  Và với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ có khả năng hoàn thành sứ vụ mà Chúa đã trao phó cho chúng ta.  Sau đó, Chúa Giêsu truyền đạt quyền tha tội: “Các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha; các con cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ!”  Trung tâm của sứ vụ bình an là hòa giải, trong nỗ lực vượt qua các rào cản ngăn cách chúng ta.  Quyền năng hòa giải và tha thứ này được ban cho cộng đoàn (Ga 20:23; Mt 18:18).  Trong sách Tin Mừng của Mátthêu, quyền năng này cũng được ban cho ông Phêrô (Mt 16:19).  Ở đây, chúng ta có thể nhận thấy rằng một cộng đoàn không tha thứ và hòa giải thì không phải là một cộng đoàn Kitô hữu.  Nói cách khác, sứ vụ của chúng ta là “hình thành cộng đoàn” theo gương của cộng đoàn của Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.

4.  Một vài câu hỏi cá nhân
  Trong xã hội ngày nay, sự chia rẽ và mối căng thẳng về chủng tộc, giai cấp xã hội, tôn giáo, giới tính và văn hóa là rất lớn và chúng tiếp tục tăng lên mỗi ngày.  Sứ vụ hòa giải có thể thực hiện được như thế nào cho ngày nay?
–  Trong cộng đoàn và trong gia đình bạn có một vài hạt cải, dấu hiệu của một xã hội hòa giải, nào không?

5.  Lời nguyện kết
Muôn nước hỡi, nào ca ngợi CHÚA,
Ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người!
Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt,
Lòng thành tín của Người bền vững muôn năm.
(Tv 117) 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét