16/07/2019
Thứ ba tuần 15 thường niên
BÀI ĐỌC I: Xh 2, 1-15a
“Bà đặt tên cho trẻ là Môsê, vì
vớt nó dưới nước lên; và khi đã khôn lớn Môsê đi thăm anh em”.
Trích sách Xuất
Hành.
Trong những ngày ấy,
có một người đàn ông thuộc nhà Lêvi đi cưới vợ cũng trong chi tộc mình. Nàng
mang thai và sinh hạ một con trai. Thấy con trẻ khôi ngô tuấn tú, nàng giấu kín
trong ba tháng. Khi thấy không thể nào giấu kín được nữa, nàng liền lấy chiếc
thúng trét nhựa thông, rồi bỏ đứa trẻ vào trong, đem thả trong đám sậy ở bờ
sông. Chị đứa bé đứng xa xa để quan sát sự việc xảy ra thế nào.
Bấy giờ có công chúa
con Pharaon xuống tắm dưới sông, còn các nữ tỳ đi bách bộ theo bờ sông. Khi thấy
cái thúng mây ở giữa bụi sậy, nàng sai một nữ tỳ xuống vớt lên, vừa mở ra, thấy
một trẻ nam nằm khóc trong đó, nàng thương hại và nói: “Đây là đứa trẻ
Do-thái”. Bấy giờ chị đứa trẻ thưa với công chúa rằng: “Bà có muốn tôi đi tìm
cho bà một phụ nữ Do-thái có thể nuôi đứa trẻ này không?” Công chúa đáp: “Đi
tìm đi”. Chị đứa trẻ liền đi kêu mẹ nó. Công chúa Pharaon nói với mẹ đứa trẻ rằng:
“Chị hãy lãnh nuôi đứa trẻ này giùm tôi, tôi sẽ trả công cho chị”. Chị ta liền
nhận nuôi đứa trẻ, và khi nó lớn lên, thì đem đến cho công chúa Pharaon. Công
chúa nhận đứa trẻ làm con nuôi, đặt tên cho nó là Môsê và nói: “Vì tôi đã vớt
nó dưới nước lên”.
Trong những ngày ấy,
Môsê đã khôn lớn, liền đi thăm anh em mình, người thấy họ cơ cực, và thấy một
người Ai-cập đang hành hung một người Do-thái là anh em của mình. Sau khi đã
nhìn qua nhìn lại, không thấy ai, Người liền hạ sát tên Ai-cập và vùi thây dưới
cát. Hôm sau, người đi ra, thấy hai người Do-thái đang đánh lộn với nhau, người
bảo kẻ có lỗi rằng: “Tại sao anh đánh người bạn của anh?” Anh ta trả lời: “Ai
đã đặt anh làm lãnh tụ và quan án xét xử chúng tôi? Anh cũng muốn giết tôi như
anh đã giết người Ai-cập hôm qua sao?” Môsê lo sợ và nói: “Việc này người ta đã
hay biết rồi sao?”
Pharaon nghe biết câu
chuyện, liền tìm giết Môsê. Nhưng Môsê đã lánh mặt nhà vua, trốn sang xứ
Mađian. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 68, 3. 14.
30-31. 33-34
Đáp: Các bạn khiêm
cung, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh (x. c. 33).
Xướng:
1) Tôi bị dìm trong hố
bùn lầy, không có chỗ để đặt chân nương tựa. Tôi bị rơi trong đầm sâu nước lớn,
và ba đào đang lôi cuốn thân tôi. – Đáp.
2) Nhưng lạy Chúa, con
dâng lời nguyện cầu lên Chúa. Ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương.
Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa.
– Đáp.
3) Phần con, con đau
khổ cơ hàn; lạy Chúa, xin gia ân phù trợ, bảo toàn thân con. Con sẽ xướng bài
ca ngợi khen danh Chúa, và con sẽ chúc tụng Ngài với bài tri ân. – Đáp.
4) Các bạn khiêm cung
hãy nhìn coi và hoan hỉ; các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì
Chúa nghe những người cơ khổ và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù. –
Đáp.
ALLELUIA: Tv 24, 4c và
5a
Alleluia, alleluia!
– Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn con trong
chân lý của Ngài. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 11, 20-24
“Trong ngày phán xét, Tyro và
Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu quở
trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà không chịu sám hối: “Hỡi
Corozain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy ra tại
Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo nhặm, rắc tro
mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày phán xét, Tyrô
và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi.
“Còn ngươi, hỡi
Capharnaum, chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi sẽ phải rơi xuống địa
ngục, vì nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra tại Sôđôma, thì thành ấy
đã tồn tại cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các ngươi: Trong ngày phán xét,
Sôđôma sẽ được xét xử khoan dung hơn ngươi”. Đó là lời Chúa
Suy Niệm : Lắng Nghe Lời
Chúa
Văn minh càng tiến
bộ, càng lôi kéo con người đến sa đọa và hủy hoại nền tảng gia đình và xã hội.
Ngay từ thời xa xưa, các Tiên Tri trong Cựu Ước đã thấy được hiểm họa ấy. Việc
chúc dữ các đô thị là một trong những đề tài nổi bật trong lời rao giảng của
các ngài. Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Siđôn là đối tượng của những lời rủa xả
nặng nề nhất của các tiên tri. Những đô thị này không những là nơi phát sinh những
sa đọa luân lý, mà còn là biểu tượng của óc tự mãn, sự tôn thờ ngẫu tượng của
con người.
Chúa Giêsu cũng tiếp tục
truyền thống tiên tri ấy khi Ngài lên tiếng chúc dữ một số thành phố như
Corazin, Betsaida. Cuộc sống vật chất sung túc làm cho con người sa đọa, đồng
thời chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa. Con người được tạo dựng không phải để
sống đơn độc một mình; chính trong tương quan với tha nhân mà con người nên
thành toàn hơn, do đó gia đình và xã hội là nhân tố thiết yếu cho sự phát triển
toàn diện con người.
Làng mạc, thành phố,
đô thị, tự nó là những xã hội cần thiết để con người xây dựng các tương quan và
nhờ đó phát triển nhân cách. Tuy nhiên, thay vì giúp con người phát triển, các
đô thi thường lại đày đọa con người vào nỗi cô đơn và chối bỏ mối tương quan với
Thiên Chúa. Sự trống rỗng trong lòng người dân đô thị cũng là dấu chỉ sự vắng
bóng Thiên Chúa. Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở con người biết rằng chỉ trong
Thiên Chúa, con người mới có thể tạo được tương quan đích thực giữa người với
người. Loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, con người không những rơi vào sa đọa,
mà còn cắt đứt mọi tương quan với tha nhân.
Lắng nghe Lời Chúa, đó
là bí quyết để xây dựng cuộc sống xã hội, thắt chặt quan hệ với tha nhân và trở
nên thành toàn. Ðó là điều Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta trong Tin Mừng hôm
nay: con người không thể xây dựng một xã hội tốt đẹp, nếu loại bỏ Thiên Chúa và
những giá trị thiêng liêng ra khỏi cuộc sống.
Nguyện cho Lời Chúa
soi sáng và hướng dẫn chúng ta trong cuộc sống, để khi mưu sinh và xây dựng xã
hội, chúng ta biết đặt Thiên Chúa vào trọng tâm cuộc sống, đeo đuổi những giá
trị thiêng liêng và xây dựng tình người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 15 TN1,
Năm lẻ
Bài đọc: Exo
2:1-15; Mt 11:20-24.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cơ hội càng
nhiều, phán xét càng nặng.
Có những người chỉ cần
cho họ một cơ hội trong cuộc đời là họ biết nắm lấy, ra sức làm việc, và thành
công trong cuộc đời. Cũng có những người được cho hết cơ hội này đến cơ hội
khác; nhưng vẫn không biết nắm lấy, tối ngày chỉ lo ăn chơi, nghịch phá, và làm
việc gì cũng thất bại. Trong lãnh vực đức tin cũng thế: Có những người ngoại
giáo, chỉ cần nghe biết về Chúa Giêsu thôi; nhưng cách biểu lộ niềm tin của họ
đã làm cho Chúa Giêsu phải ngạc nhiên: viên đại đội trưởng người Rôma, người
phong cùi… Nhưng cũng có những người đồng hương với Chúa Giêsu biết rõ Chúa,
nhưng họ vẫn không tin Ngài. Chúa Giêsu ngạc nhiên vì sự cứng lòng của họ.
Các Bài Đọc hôm nay
cho chúng ta những ví dụ tương phản như thế. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa quan
phòng cho Moses có cơ hội được cứu sống nhờ lòng nhân từ của công chúa Ai-cập.
Khi lớn lên, ông Moses không thể dằn lòng trước những cử xử dã man giữa con người
với con người, ông đã giết một người Ai-cập và khuyên nhủ hai người Do-thái đừng
cãi vã nhau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã lớn tiếng trách mắng các thành
Chorazin, Betsaida, và Capernaum, vì tuy họ đã nhiều lần chứng kiến các phép lạ
Chúa làm và nghe những lời Chúa giảng, họ vẫn không xám hối và tin vào Ngài.
Trong khi các thành của dân ngoại như Tyre và Sidon, mặc dù ít được Chúa tới,
nhưng cách biểu lộ niềm tin của họ làm chính Chúa phải ngạc nhiên.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cuộc đời của ông Moses
1.1/ Moses được cứu thoát
bởi công chúa Ai-cập: “Có một người thuộc
dòng họ Levi đi lấy một người con gái cũng thuộc họ Levi. Người đàn bà ấy thụ
thai và sinh một con trai. Thấy đứa bé kháu khỉnh, nàng giấu nó ba tháng trời.
Khi không thể giấu lâu hơn được nữa, nàng lấy một cái thúng cói, trét hắc ín và
nhựa chai, bỏ đứa bé vào, rồi đặt thúng trong đám sậy ở bờ sông Nile. Chị đứa
bé đứng đàng xa để xem cho biết cái gì sẽ xảy ra cho em nó.”
Nhờ sự quan phòng của
Thiên Chúa, công chúa của Pharao đã động lòng thương đứa trẻ dù biết nó là người
Do-thái; và với sự khôn ngoan của người chị khi hỏi công chúa Pharao: “Bà có muốn
con đi gọi cho bà một vú nuôi người Do-thái, để nuôi đứa bé cho bà không?” Khi
công chúa Pharao đồng ý, người chị liền đi gọi mẹ mình. Công chúa của Pharao bảo
bà ấy: “Chị đem đứa bé này về nuôi cho tôi. Chính tôi sẽ trả công cho chị.” Thế
là mẹ được ở gần nuôi con và còn được cấp dưỡng. Khi đứa bé lớn lên, bà đưa nó
đến cho công chúa của Pharao. Nàng coi nó như con và đặt tên là Moses; nàng
nói: “Đó là vì ta đã vớt nó lên khỏi nước.”
1.2/ Tính can đảm của
Moses: Là con của công chúa, ông Moses có thể
chọn lối sống an bình dễ dãi như một hoàng tử của Ai-cập; nhưng ông chọn để sống
anh hùng và theo Lề Luật của Thiên Chúa. Trình thuật đưa ra 2 ví dụ chứng minh
tính khí khái của Moses:
(1) Ông không thể chịu
đựng cảnh bất công: “Khi ông ra ngoài thăm anh em đồng bào và thấy những việc
khổ sai họ phải làm. Ông thấy một người Ai-cập đang đánh một người Do-thái, anh
em đồng bào của ông. Nhìn trước nhìn sau không thấy có ai, ông liền giết người
Ai-cập, rồi vùi dưới cát.”
(2) Ông không thể chịu
đựng cảnh bất hòa: “Hôm sau, ông lại đi ra, gặp hai người Do-thái đang xô xát
nhau, ông nói với người có lỗi: “Tại sao anh lại đánh người đồng chủng?” Người
đó trả lời: “Ai đã đặt ông lên làm người lãnh đạo và xét xử chúng tôi? Hay là
ông tính giết tôi như đã giết tên Ai-cập? “Ông Moses phát sợ và tự bảo: “Vậy ra
người ta đã biết chuyện rồi!” Nghe biết chuyện này, Pharao tìm cách giết ông
Moses. Ông Moses liền đi trốn Pharao và ở lại miền Midian.
2/ Phúc Âm: Ai được cho có cơ hội nhiều sẽ bị phán xét nhiều.
2.1/ So sánh Chorazin và
Bethsaida với Tyre và Sidon: Bấy giờ Chúa
Giêsu bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm
mà không sám hối: “Khốn cho ngươi, hỡi Chorazin! Khốn cho ngươi, hỡi Bethsaida!
Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tyre và Sidon, thì họ
đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các
ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tyre và thành Sidon còn được xử khoan hồng
hơn các ngươi.”
(1) Chorazin và
Bethsaida: Chorazin được các nhà khảo cổ đồng nhất với thành Kerazeh hiện đại,
cách xa Capernaum chừng 2.5 dặm về phía Bắc. Bethsaida là một làng của vùng
Galilee, nằm về phía Tây của hồ Tiberias, trong “giải đất của Gennesaret.”
Bethsaida là quê hương của Peter, Andrew và Philip; và là chỗ Chúa Giêsu thường
xuyên lui tới. Hai phép lạ Chúa Giêsu làm được kể chi tiết là phép lạ Chúa chữa
người mù tại Bethsaida (Mk 8:22) và phép lạ nuôi 5,000 người ăn tại Bethsaida
(Lk 9:10-17). Ngoài ra, Luca cũng tường thuật việc Chúa Giêsu dạy dỗ, và chữa
lành nhiều người tại đây.
(2) Tyre và Sidon: là
hai hải cảng thương mại lớn của người Phoenecia (Lebanon ngày nay), nằm dọc
theo bờ biển Mediterranean. Tyre nằm khoảng 23 dặm về phía Bắc của Arco, và
cách Sidon khoảng 20 dặm về phía Nam. Chúa Giêsu rất ít khi rao giảng ngoài
lãnh thổ của Palestine, và các thánh ký chỉ tường thuật một lần Chúa đến vùng
Tyre và Sidon, khi một người đàn bà Canaan nài xin Ngài cứu con gái bà khỏi bị
quỉ ám. Chúa Giêsu thử thách đức tin của bà cách trầm trọng: “Không nên lấy
lương thực của con cái mà vứt cho chó” (Mt 15:21); trước khi chữa lành con gái
của bà.
2.2/ So sánh Capernaum với
Sodom: “Còn ngươi nữa, hỡi Capernaum, ngươi
tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ! Vì
nếu các phép lạ đã làm nơi ngươi mà được làm tại Sodom, thì thành ấy đã tồn tại
cho đến ngày nay. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, đất
Sodom còn được xử khoan hồng hơn các ngươi.”
(1) Capernaum: có thể
nói là “thành của Chúa Giêsu” vì Ngài thường xuyên lui tới dạy dỗ và làm phép lạ
tại đây. Gioan tường thuật Chúa làm phép lạ đầu tiên cho nước hóa thành rượu tại
tiệc cưới Cana (Jn 2:12) và chữa lành con trai của một quan chức (Jn 4:46).
Matthew tường thuật phép lạ Chúa chữa đầy tớ của viên Đại Đội Trưởng Rôma (Mt
8:5). Marcô tường thuật Chúa chữa người bại liệt được thòng xuống từ mái nhà
(Mk 2:1). Luca tường thuật Chúa chữa người bị quỉ ám (Lk 9:33). Marcô tường thuật
Chúa giảng trong hội đường Capernaum (Mk 1:21) và Gioan ghi lại rõ ràng: diễn từ
về BT Thánh Thể xảy ra sau phép lạ hóa bánh nuôi 5,000 người và phản ứng của
dân chúng cũng xảy ra tại đây (Jn 6).
(2) Sodom: Chúng ta biết
đến thành phố này trong Sách Sáng Thế khi Thiên Chúa khiến lửa từ trời thiêu rụi
thành phố này vì những tội tày trời họ xúc phạm đến Ngài, nhất là tội sodomy
như tên thành được gọi (Gen 18:16-33, 19:1-29). Thành phố này nằm đối diện với
Zoar, về phía SW của Biển Chết.
Khi đưa ra sự so sánh
giữa các thành phố, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh một điểm quan trọng: Ai được cho
nhiều cơ hội để ăn năn, sẽ phải chịu sự phán xét nặng nề hơn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải biết tận
dụng thời gian, của cải, và tài năng Thiên Chúa ban để sinh lợi ích cho chính
chúng ta, cho gia đình, và cho tha nhân.
– Nếu Thiên Chúa đã
ban nhiều, Ngài có quyền đòi lại cho tương xứng của Ngài đã ban. Chúng ta phải
coi chừng vì chúng ta sẽ bị Thiên Chúa phán xét nặng nề hơn.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
16/07/19 – THỨ BA TUẦN 15 TN
Đức Mẹ núi Cát Minh
Mt 11,20-24
ĐỪNG BỎ LỠ CƠ HỘI!
Bấy giờ Người bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần
lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối. (Mt 11,20)
Suy niệm: Dù bạn không phải là ‘fan’
bóng đá, hẳn bạn cũng xuýt xoa tiếc rẻ cho một đội bóng ‘toàn sao’ sau 90 phút
thi đấu với không biết bao nhiêu cơ hội ăn bàn mười mươi nhưng lại để vuột trôi
qua trước mũi giày mà không thể chuyển thành bàn thắng và rồi bị thủng lưới
trong những phút đá bù giờ. Quy luật trong bóng đá là thế: đội bóng nào không
biết tận dụng cơ hội, đội đó sẽ chuốc lấy thất bại. Theo dòng thời sự để ví
von, cũng có thể nói như thế: Các ‘đội bóng’ Khô-ra-din, Ca-phác-na-um,
Bét-sai-đa, với biết bao cơ hội là những phép lạ thực hiện ở giữa họ mà họ
không ‘ghi được bàn thắng’ trước đối thủ là sự ác, ắt là họ sẽ không thoát khỏi
thất bại ê chề: chính họ sẽ bị trầm luân. Chả bù với các ‘đội’ Tia và Si-đôn,
giá mà họ chỉ có được một nửa cơ hội như thế thôi, ắt họ đã ghi bàn quyết định
đó là sám hối ăn năn và lãnh nhận được ơn cứu độ rồi.
Mời Bạn: điểm lại những cơ hội Chúa
đã ban cho bạn, nhất là những cơ hội bị bỏ lỡ. Bạn có thấy tiếc xót cho mình
không? Rất may cho bạn, khi bạn đang đọc những dòng chữ này, bạn vẫn còn trong
90 phút thi đấu của đời bạn! Trong thời gian còn lại đó, xin bạn tận dụng những
cơ hội Chúa ban cho, đừng bỏ lỡ nữa!
Chia sẻ: Cộng đoàn của bạn đã có thể tận dụng những ơn huệ Chúa
ban để giúp nhau thăng tiến chưa?
Sống Lời Chúa: Nghiêm túc kiểm điểm đời sống
mỗi ngày để kịp thời khắc phục những lỗi lầm thiếu sót.
Cầu nguyện: Đọc kinh Ăn Năn
Tội.
(5 Phút Lời Chúa)
Không sám hối (16.7.2019 – Thứ
Ba tuần 15 TN)
Suy niệm:
Lời giảng đầu tiên của Đức Giêsu là một lời mời sám hối (Mt 4, 17).
Những phép lạ Ngài làm cũng là một lời mời tương tự.
Phép lạ không phải chỉ là những biểu lộ của uy quyền và tình thương
nhằm vén mở khuôn mặt của Thiên Chúa và của Con Ngài.
Phép lạ còn là lời mời gọi đổi đời, vì Nước Trời đã gần đến.
Đức Giêsu quở trách các thành đã lần lữa không chịu sám hối,
dù họ đã được chứng kiến phần lớn các phép lạ Ngài làm (c. 20).
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bếtxaiđa!”
Đức Giêsu đã kêu than như một ngôn sứ, buồn phiền và đau đớn,
trước sự cứng lòng của những nơi mà Ngài đã đặt chân và thi ân.
Khoradin là một vùng ở tây bắc của Hồ Galilê (Mc 10, 13).
Nay chỉ còn là cánh đồng gạch vụn, với dấu tích của một hội đường.
Bếtxaiđa nghĩa là “nhà của cá”, nằm nơi sông Giođan đổ vào Hồ nói trên.
Thành này ngày nay cũng biến mất, có lẽ vì bị tràn ngập bởi phù sa.
Đức Giêsu đã so sánh hai thành này với hai thành dân ngoại Tia và Xiđôn.
Nếu Tia và Xiđôn nhận được sự hiện diện của Đức Giêsu,
hẳn họ đã ăn năn sám hối từ lâu rồi (c. 21).
Caphácnaum được coi là trụ sở của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ.
Nơi đây Ngài đã làm bao điều tốt lành (Mt 4, 13; 8, 5; 9, 1; 17, 24).
Vậy mà có vẻ nó lại không muốn đón nhận Đấng mang ơn cứu độ.
Phải chăng vì nó đã tự hào, tự cao trước những ơn Chúa ban?
“Ngươi sẽ được đưa lên tới tận trời sao? Ngươi sẽ bị tống xuống âm phủ.”
Đức Giêsu dám so sánh Caphácnaum với Xơđôm.
Xơđôm là một thành phố trụy lạc, đã bị thiêu hủy hoàn toàn (St 19, 25).
Ngài cho rằng Xơđôm mà được thấy những điều kỳ diệu Ngài làm,
hẳn nó đã hoán cải và còn tồn tại đến nay (c. 23).
Đến ngày phán xét, con người sẽ bị xét xử theo điều mình đã lãnh nhận.
Lãnh ít thì sẽ được khoan hồng nhiều hơn.
Mỗi người chúng ta thật sự chẳng rõ mình đã nhận được bao nhiêu.
Chúng ta dễ có thái độ tự cao của những người được gần gũi Chúa.
“Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài,
và Ngài cũng đã từng dạy dỗ trên các đường phố của chúng tôi” (Lc 13,26).
Nhưng điều quan trọng không phải là đã nghe giảng và đã thấy phép lạ.
Điều quan trọng là sám hối.
Những ơn lộc Chúa ban cho đời Kitô hữu lại đòi ta phải hoán cải nhiều
hơn.
Chúng ta không thể coi mình là Caphácnaum để khinh Xơđôm được.
Thiên Chúa xét xử theo điều Ngài ban cho từng con người,
từng nền văn hóa hay văn minh, từng vùng đất hay từng tôn giáo.
Làm sao tôi có thể thấy được những phép lạ Chúa làm cho tôi mỗi ngày?
Có những phép lạ xảy ra đều đặn và bình thường nên tôi không nhận ra.
Mỗi cử chỉ yêu thương tôi nhận được cũng là phép lạ.
Mong tôi đáp lại phép lạ đó bằng một cử chỉ yêu thương.
Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn
Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận
là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn
hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là
chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những
gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được
bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho
con,
hay vì Cha muốn ban cho con
một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào
tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những
gì
Cha làm cho đời con.
Lm.
Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
16 THÁNG BẢY
Thiên Chúa Trên Đường
Đời Ta
Sự quan phòng của
Thiên Chúa luôn luôn hiện diện trong cuộc đời của con người và trong lịch sử thế
giới. Thiên Chúa có mặt đó: trong suy nghĩ của con người, trong tự do của con
người, trong trái tim và trong lương tâm con người.
Nơi con người và cùng
với con người, sự hiện diện đầy năng lực cứu độ của Thiên Chúa đạt được một chiều
kích lịch sử. Sự quan phòng của Thiên Chúa đồng hành với cuộc sống con người và
đi vào trong nhân tính. Tuy nhiên, sự quan phòng ấy cũng luôn luôn bất khả dò
và bất biến.
Vâng, sự quan phòng của
Thiên Chúa là một sự hiện diện vĩnh cửu trong lịch sử của con người – cả của
các cá nhân lẫn của các cộng đồng. Lịch sử của các quốc gia và của toàn nhân loại
diễn tiến dưới ánh nhìn đầy quan tâm của Thiên Chúa và trong hành động toàn
năng của Ngài. Mọi tạo vật đều được bảo vệ và được cai quản bởi sự quan phòng đầy
lòng từ phụ của Thiên Chúa. Ngài cũng hoàn toàn tôn trọng sự tự do của con người
trong tư cách là những hữu thể có lý trí và tự do – được tạo dựng theo hình ảnh
Ngài và giống như Ngài.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 16/7
Đức Mẹ núi Camêlô
Xh 2, 1-15; Mt 11,
20-24.
LỜI SUY NIỆM: “Bấy giờ, Người
bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà
không sám hối.”
Chúa Giêsu đến trong trần gian này. Mọi lời Người dạy, những phép lạ Người làm
để giúp con người nhận ra lời loan báo của Người: “Thời kỳ đã mãn, và triều đại
Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối, và tin vào Tin Mừng” (Mt 1,15).
Nhưng những thành đã chứng kiến, đã không thấy được những đặc ân mà Người đã
trao ban cho họ. Họ đang phạm phải tội là dững dưng thờ ơ, dẫn đến không sám hối
về những sai lầm trong đời sống làm người với nhau, và với các tạo vật khác mà
Thiên Chúa đã tạo dựng; cũng như trong việc thờ phượng Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con nhận ra những hồng ân của
Chúa đã trao ban cho chúng con qua Giáo Hội Chúa tại trần gian này, để chúng
con có tâm tình hoán cải, canh tân đời sống của mình được đẹp lòng Chúa hơn, hầu
tránh khỏi lời quở trách của Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 16-07: ĐỨC
TRINH NỮ MARIA NÚI CAMÊLÔ
Camêlô được coi như ngọn
núi thánh. Hơn 700 năm trước khi Chúa Giêsu ra đời, Elia đã lên núi này để bảo
vệ niềm tin của mình trong cơn bách hại, cũng như đã đào tạo những tâm hồn
trung thành với Thiên Chúa. Khi Chúa Giêsu ra đời, nhiệt tình của Elia như vẫn
còn cháy trong lòng các người khắc kỷ (Esseniô). Người ta nói rằng ngày lễ hiện
xuống, những người này nhờ lời rao giảng và phép rửa của thánh Gioan Tẩy giả đã
hợp lực với các tông đồ để truyền bá Tin Mừng.
Camêlô khi ấy vẫn còn
là nơi tụ họp những tâm hồn muốn hiến thân cho Thiên Chúa. Camêlô lại chỉ cách
Nazareth chừng một ngày đường, nên những người họp thành cộng đoàn ở núi này hướng
về Mẹ Maria như mẫu gương sống và như nguồn ơn phù trợ. Thời thập tự quân,
Camêlô là nơi đón tiếp nhiều vị ẩn tu. Tuy nhiên vào thế kỷ thứ XII, Đức Thượng
phụ Giáo chủ Albertô thành Giêrusalem đã qui tụ tất cả thành một nhà dòng, ban
hành cho họ một qui luật được Đức giáo hoàng chuẩn y năm 1226. Cũng năm ấy, Đức
Giáo hoàng cho phép mừng trọng thể trong dòng lễ Đức Bà Camêlô.
Khi lên làm bề trên
nhà dòng, thánh Simon Stock đã tha thiết xin Đức Mẹ một dấu chỉ tỏ lòng săn sóc
ưu ái của Mẹ đối với nhà dòng. Sau nhiều lời cầu nguyện lâu dài, ngày 16 tháng
7 năm 1251, Đức Mẹ đã hiện ra trao cho thánh nhân bộ áo dòng mà nói:
– “Hãy nhận lấy bộ áo
dòng này Mẹ ban cho dòng và cho tu sĩ như dấu chỉ của lòng ưu ái và sự săn sóc
Mẹ dành cho các con. Đây là dấu hiệu cứu rỗi. Giải thoát mọi hiểm nguy. Ai chết
mà mang biểu hiện bình an này, sẽ khỏi bị lửa thiêu đời dời và Mẹ sẽ cứu họ khỏi
lửa luyện tội vào ngày thứ bảy sau khi họ qua đời”.
Trước khi cử chỉ ưu ái
này, không biết bao nhiêu người mọi thời đã xin lãnh “áo Đức bà” để được sống
dưới sự chở che của Đức Mẹ. Người ta hướng về Đức Mẹ núi Camêlô như hướng về
nguồn ơn phúc để tạ ơn. Vì thế lễ mừng Đức Trinh Nữ Maria núi Camêlô ngày càng
lan rộng tới các nước có vua công giáo ngày 21 tháng 11 năm 1674 và năm sau tới
các nước vương quốc Áo, Bồ Đào Nha mừng từ năm 1679, các nước thuộc quyền Đức
giáo hoàng mừng năm 1725.
Đức giáo hoàng
Bênêdictô XIII phổ biến lễ này trong toàn Giáo hội do sắc lệnh ban hành ngày 24
tháng 9 năm 1726. Ngày 15 tháng 5 năm 1892, Đức giáo hoàng Lêo XIII đã ban đặc
ân “Portiuncula” (ơn đại xá cho ai viếng nhà thờ) trong lễ này.
(daminhvn.net)
16 Tháng Bảy
Không Gì Ðẹp Bằng…!
Trả lời cho một
thanh niên mong mỏi được biết rõ về mình, một cụ già nọ đã kể một câu chuyện
như sau:
Ngày nọ, từ một đỉnh
núi cao, người ta thấy ở một chân trời xa tắp có hai bóng đen ôm lấy nhau. Một
em bé thơ ngây buộc miệng nói: “Hai bóng đen đó là ba với má đang ôm nhau”. Một
chàng thanh niên đang mơ mộng phát biểu: “Ðó là hai tình nhân đang quấn quýt
nhau”. Người có tâm hồn cô đơn thì nhận xét: “Hẳn phải là hai người bạn gặp lại
nhau sau hằng vạn thế kỷ xa nhau”. Kẻ có lòng tham lam chỉ nghĩ đến tiền bạc
thì lại quả quyết: “Ðây hẳn phải là hai thương gia vừa ký với nhau một giao kèo
làm ăn”. Một người đàn bà có quả tim trìu mến thì thào thốt lên: “Ðây là một
người cha trở về từ chiến trận đang ôm lấy đứa con gái của mình”. Một tên sát
nhân đứng gần đó góp ý: “Ðây phải là hai người đàn ông đấm đá vật lộn nhau
trong một cuộc giao chiến một mất một còn”. Một người đàn ông không màng đến những
gì đang xảy ra xung quanh mình lên giọng gắt gỏng: “Ai mà biết được họ ôm nhau
hay cắn xé nhau”.. Nhưng cuối cùng, một vị thánh có quả tim chứa đầy Thiên Chúa
mới mỉm cười giảng hòa: “Không có gì đẹp bằng hai người ôm nhau”.
Kể xong câu chuyện
trên đây, cụ già kết luận: “Mỗi một tư tưởng của bạn để lộ bạn là ai. Bạn nên tự
vấn lương tâm xem thử bạn thường tưởng nghĩ đến những gì. Hơn bất cứ một bậc thầy
nào, những tư tưởng của bạn có thể nói cho bạn biết bạn là ai”.
“Người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ”, chúng ta thường trích dẫn câu thơ này của cụ Nguyễn Du để nói
lên hình ảnh của tư tưởng, của tâm cảnh đối với ngoại giới. Khi chúng ta vui, cảnh
cũng vui lây, người cũng vui lây. Khi chúng ta buồn, cảnh cũng buồn, mà người
cũng buồn lây. Khi chúng ta vui, chúng ta muốn cho mọi người cùng vui với chúng
ta. Khi chúng ta buồn, chúng ta cũng cảm thấy khó chịu khi người khác vui.
Hãy chất đầy tâm hồn bằng
những tư tưởng vui tươi, lạc quan: đó là một trong những bí quyết để được hạnh
phúc trên đời này. Riêng đối với người Kitô hữu chúng ta, bí quyết sống hạnh
phúc của chúng ta chính là: trở thành Ðền thờ sống động của Chúa. Có Chúa ngự
trị trong tâm hồn, chúng ta sẽ nhìn đời, nhìn người bằng chính cái nhìn của
Ngài.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina:
Lễ Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc Núi Cát Minh
Tuesday 16 July, 2019
Thưa Bà, đây là con
của Bà!
Đây là mẹ của anh!
Ga 19:25-27
1. Chúng ta hãy lắng
đọng trong Cầu Nguyện – Statio
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến, xin hãy đổ đầy tâm
trí chúng con với ánh sáng của Chúa để chúng con có thể hiểu được ý
nghĩa thực sự của Lời Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần,
xin hãy ngự đến, xin hãy nhen nhóm trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu của
Chúa để bùng cháy lên đức tin của chúng con.
Lạy Chúa Thánh Thần,
xin hãy ngự đến, xin hãy đổ đầy thân xác chúng con với sức mạnh của Chúa để
tăng sức cho những yếu đuối trong chúng con, trong việc phục vụ của chúng con
dành cho Thiên Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần,
xin hãy ngự đến, với ân sủng của sự khôn ngoan để kiểm soát lòng nhiệt thành của
chúng con ngăn trở chúng con khỏi tình yêuThiên Chúa và tha nhân.
2. Đọc và cầu nguyện
Lời Chúa – Lectio
Trích sách Tin Mừng
theo thánh Gioan 19:25-27
Đứng gần thập giá Đức
Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với
bà Maria Mađalêna. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng
bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của
Bà.” Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của
anh.” Kể từ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.
3. Suy gẫm Lời Chúa
– Meditatio
3.1 Để hiểu biết
Bài Đọc
– Với tinh thần đi lên đồi Canvê của bạn để đến
với Thập Giá của Chúa Giêsu và hãy cố gắng tìm hiểu những gì đang xảy ra.
– Từ đoạn Tin Mừng mà bạn vừa đọc, hãy tự hỏi
điều gì đã đánh động bạn nhất và tại sao.
– Đoạn Tin Mừng ngắn này đã dấy lên trong bạn
những tình cảm nào?
3.2 Chìa
khóa dẫn đến Bài Đọc
Chúa Giêsu nắm giữ
số phận của mình trong tay Người
Chúng ta đang ở giữa
chương 19 của sách Tin Mừng Gioan trong đó bắt đầu bằng roi đòn, Chúa Giêsu được
tấn phong với một mão gai, Chúa Giêsu bị quan Philatô điệu ra trước đám
đông: “Đây là Người” (Ga 19:5), bị kết án tử hình trên thập giá, Đường
của Thập Giá và đóng đinh. Trong câu chuyện cuộc Thương Khó theo
thánh Gioan, Chúa Giêsunắm giữ số phận của mình trong tay Người và tất cả mọi
việc đang xảy ra chung quanh Người. Và vì lý do này, lấy ví dụ,
chúng ta thấy những câu như: “Vậy, Đức Giêsu bước ra ngoài, đầu đội
vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ” (Câu 5), hoặc những lời của Chúa
nói với Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng
ban cho ngài.” (Câu 11).
Văn bản được trình bày
trong phần Phụng Vụ hằng ngày cũng cho thấy rằng Chúa Giêsu không những chỉ có
quyền kiểm soát tất cho những gì đang xảy ra với mình mà cũng còn kiểm soát được
những gì đang xảy ra xung quanh Người. Điều mà tác giả Tin Mừng mô tả
thì rất là quan trọng: “Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình
thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói…” (câu 26). Những lời của
Chúa Giêsu trong sự đơn giản của chúng là những lời mặc khải, những lời mà Chúa
muốn bày tỏ ý muốn của Người: “Đây là con của Bà” (câu 26), “Đây là
mẹ của anh” (câu 27). Những lời này của Chúa Giêsu gợi nhớ lại câu
nói của Philatô khi ông ta điệu Chúa Giêsu ra trước đám đông và
nói: “Đây là Người” (câu 5). Chúa Giêsu từ trên ngai của
mình, cây Thập Giá, với Lời của Người không những chỉ nói lên ý muốn của Chúa,
mà đó cũng chính thực là tình yêu của Người dành cho chúng ta và là kết quả của
tình yêu này. Người là Chiên Thiên Chúa, Vị Mục Tử, Đấng đã hiến mạng
sống mình để gom các con chiên vào trong một đàn, trong Giáo Hội.
Gần Thập Giá
Trong đoạn Tin Mừng
này, chúng ta cũng tìm thấy một chữ rất quan trọng được lặp lại hai lần khi
Thánh Sử nói về Mẹ của Chúa Giêsu và người môn đệ Chúa yêu. Tác giả
Tin Mừng nói rằng mẹ của Chúa Giêsu đứng “gần Thập Giá” (câu 25) và người môn đệ
Chúa yêu “đang đứng bên cạnh bà” (câu 26). Chi tiết quan trọng này
có một ý nghĩa Kinh Thánh rất sâu xa. Chỉ có tác giả sách Tin Mừng
thứ tư nói rằng Mẹ của Chúa Giêsu ở gần bên thập giá. Các Thánh Sử
khác không nói về điều này. Thánh Luca nói rằng “Đứng đàng xa, có tất
cả những người quen biết Đức Giêsu; cũng như những phụ nữ đã theo Người từ
Galilê và các bà đã chứng kiến những việc ấy” (Lc 23:49). Thánh
Mátthêu viết rằng: “Ở đó, cũng có nhiều người phụ nữ đứng nhìn từ
đàng xa. Các bà này đã theo Đức Giêsu từ Galilê để giúp đỡ Người. Trong
số đó, có bà Maria Mađalêna, bà Maria mẹ ông Giacôbê và Giuse, và bà mẹ các con
của ông Giêbêđê” (Mt 27:55-56). Thánh Máccô nói rằng: “Nhưng
cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn trong đó có bà Maria Mađalêna, bà Maria mẹ
các ông Giacôbê trẻ và Giôsết, cùng bà Salômê. Các bà này đã đi theo
và giúp đỡ Đức Giêsu khi Người còn ở Galilê. Lại có nhiều bà khác đã
cùng với Người lên Giêrusalem, cũng có mặt tại đó” (Mc 15:40-41). Do
đó, chỉ có thánh sử Gioan nhấn mạnh rằng Mẹ Chúa Giêsu đã có mặt ở đó, không đứng
nhìn Người từ đàng xa, mà gần bên Thập Giá cùng với những người phụ nữ
khác. Đứng đó, giống như người phụ nữ can trường tiếp tục tin tưởng,
hy vọng và trông cậy vào Thiên Chúa, ngay cả trong những thời điểm khó khăn nhất. Mẹ
của Chúa Giêsu hiện diện trong thời điểm quan trọng, khi mà “Mọi việc đã hoàn tất”
(câu 30) trong sứ vụ của Chúa Giêsu. Ngoài ra, Thánh Sử còn nhấn mạnh
đến sự hiện diện của Mẹ Chúa Giêsu từ lúc bắt đầu sứ vụ của Người, tại tiệc cưới
Cana, nơi thánh Gioan dùng cùng một câu nói: “có mặt Thân mẫu Đức
Giêsu” (Ga 2:1).
Người Phụ Nữ và người
Môn Đệ
Tại tiệc cưới Cana và
trên Thập Giá, Chúa Giêsu cho thấy vinh quang của mình và Mẹ Người đã có mặt một
cách chủ động. Trong tiệc cưới Cana, điều này đã được tỏ rõ, theo
phương cách tượng trưng, đã diễn ra trên cây thập giá. Trong tiệc cưới,
Chúa Giêsu đã biến đổi nước ở trong sáu chum (Ga 2:6). Con số sáu tượng
trưng cho việc bất toàn. Số bảy là con số hoàn hảo. Vì lý
do này, Chúa Giêsu trả lời với Mẹ mình: “Giờ của tôi chưa đến” (Ga
2:4). Giờ mà lúc Chúa Giêsu đã canh tân mọi sự, chính là giờ trên thập
giá. Các Môn Đệ đã hỏi Chúa: “Lạy Thầy, có phải bây giờ
là lúc Thầy khôi phục lại vương quốc Israel không?” (Cv 1:6). Trên
thập giá, cùng với nước và máu, Chúa Giêsu đã sinh ra Giáo Hội và đồng thời
Giáo Hội trở thành hiền thê của Người. Đó là sự khởi đầu của thời đại
mới. Cả hai đều có mặt tại tiệc cưới Cana và dưới chân thập giá,
Chúa Giêsu đã không gọi mẹ mình với tên riêng của bà, mà gọi với một danh hiệu
xinh đẹp “Thưa Bà” (Ga 2:4; 19:26). Trên thập giá, Chúa đã không
thưa chuyện với Mẹ của Người chỉ với bằng một tình cảm tự nhiên, của một người
con nói với mẹ mình. Danh hiệu “Bà” là một bằng chứng mà tại thời điểm
ấy Chúa Giêsu đang mở tấm lòng của Mẹ Người với việc cưu mang tinh thần của các
môn đệ mình, được đại diện bởi người môn đệ Chúa yêu, người luôn gần bên Chúa
Giêsu, người Môn Đệ mà tại bữa Tiệc Ly đã tựa đầu vào lòng Chúa Giêsu (Ga
13:23-26), người Môn Đệ đã hiểu được mầu nhiệm của Chúa Giêsu và vẫn luôn trung
thành với Thầy của mình cho đến thời điểm Người bị đóng đinh, và sau đó đã là
người môn đệ đầu tiên tin rằng Đức Kitô đã sống lại khi nhìn thấy ngôi mộ trống
và vải liệm trên mặt đất (Ga 20:4-8), trong khi bà Maria Mađalêna thì lại nghĩ
rằng người ta đã đánh cắp xác của Chúa Giêsu (Ga 20:2). Vậy thì, người
Môn Đệ Chúa Giêsu yêu mến là người đã tin tưởng và vẫn luôn trung thành với Thầy
mình trong mọi thử thách của cuộc đời. Người Môn Đệ mà Chúa Giêsu
yêu mến không có tên, bởi vì người ấy đại diện cho bạn và cho tôi, và cho tất cả
những ai là môn đệ đích thực của Người. Người phụ nữ trở thành mẹ của
người Môn Đệ. Người Phụ Nữ không bao giờ được Thánh Sử gọi đích danh
tên của bà, Bà không những chỉ là Mẹ của Chúa Giêsu, mà bà cũng còn là mẹ của
Giáo Hội. Thánh Sử Gioan ưa gọi Giáo Hội là “Người Phụ Nữ” hay
“Bà”. Danh hiệu này được tìm thấy trong thư thứ hai của thánh Gioan
(2Ga 1:5) và trong sách Khải Huyền: “Rồi có điềm lớn xuất hiện trên
trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và
đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn
và quằn quại vì sắp sinh con.” (Kh 12:1-2). Do đó, người phụ nữ là
hình ảnh của Giáo Hội Mẹ trong lúc đang chuyển dạ để sinh ra những người con mới
cho Thiên Chúa.
Mẹ của Chúa Giêsu là
hình ảnh hoàn hảo của Giáo Hội, hiền thê của Đức Kitô, Đấng đang đau bụng chuyển
dạ để sinh ra những người con mới cho người phối ngẫu của bà là Chúa Giêsu.
Các Môn Đệ rước bà
về nhà mình
Nếu Chúa Giêsu đã trao
các Môn Đệ của mình trong tay của Người Phụ Nữ (Mẹ Ngài và Giáo Hội) được đại
diện bởi người Môn Đệ yêu dấu, trong cùng một cách, Chúa cũng đã trao cho các
môn đệ của mình, người Phụ Nữ (Mẹ Ngài và Giáo Hội). Tác giả Tin Mừng
nói rằng Chúa Giêsu trông thấy người môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh Mẹ
mình, Người nói với ông: “Này là Mẹ của anh!” (câu 27).
Thánh Sử tiếp tục viết: “Kể
từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (câu 27). Điều đó có
nghĩa là người Môn Đệ đã coi người phụ nữ như một người rất thân thiết và đáng
kính trọng. Điều này, một lần nữa nhắc nhở tất cả chúng ta trong thư
của thánh Gioan tông đồ khi ông tự gọi mình là Trưởng Lão, người thực sự quý mến
Bà (2Ga 1), và cầu nguyện cho Bà (2Ga 5) để ông chăm sóc và bảo vệ Bà khỏi những
kẻ Phản Kitô, đó là những ai không biết Đức Kitô và tìm cách gây khó khăn cho
con cái Giáo Hội, là các môn đệ của Chúa Giêsu (2Ga 7, 10).
Những lời của câu
27: “Kề từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình”, nhắc nhở chúng
ta về những gì chúng ta cũng tìm thấy ở phần khởi đầu Tin Mừng của
Mátthêu. Thánh sự mở đầu câu chuyện của mình về thị kiến thiên thần
hiện ra với ông Giuse, bạn đời Đức Maria, đã có trong giấc mơ của
ông. Trong thị kiến này, thiên thần nói với ông Giuse: “Hỡi
ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà
cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1:20). Thánh Mátthêu
mở đầu sách Tin Mừng của mình với sự ủy thác Đức Maria và Chúa Giêsu nơi ông
Giuse, trong khi thánh Gioan kết luận câu chuyện của mình với việc Chúa Giêsu ủy
thác Mẹ Ngài và Giáo Hội trong tay người Môn Đệ yêu quý của mình!
3.3 Một
vài câu hỏi để quy hướng việc suy gẫm và đem nó vào trong thực hành
– Trong đoạn Tin Mừng này và trong bài suy gẫm, điều
gì đã đánh động bạn nhất?
– Trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã trao ban cho
chúng ta tất cả mọi thứ: Mạng sống Người và Mẹ Người. Còn
bạn, bạn có sẵn sàng dâng cho Chúa điều gì đó chưa? Bạn có đủ khả
năng để từ bỏ của cải, những điều bạn yêu thích, ước vọng, v.v. để phục vụ
Thiên Chúa và giúp đỡ tha nhân chưa?
– “Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà
mình.” Bạn có tin rằng các gia đình ngày nay vẫn tiếp tục theo gương
của người môn đệ mà Chúa Giêsu yêu mến không? Những lời này có ý
nghĩa gì cho đời sống Kitô hữu của bạn?
4. Cầu Nguyện –
Oratio
Bài ca của Đức
Trinh Nữ Maria Diễm Phúc: Lc 1:46-55
Linh hồn tôi ngợi khen
Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở
vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng Cứu
Độ tôi:
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn
tới
Từ nay, hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm
cho tôi
Biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí
thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót
những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu
dương sức mạnh,
Dẹp tan phường lòng
trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai
quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ
khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban
của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi
về tay trắng.
Chúa độ trì Israel,
tôi tớ của Người,
— Như đã hứa cùng cha
ông chúng ta —
Vì Người nhớ lại lòng
thương xót
Dành cho tổ phụ
Ápraham
Và cho con cháu đến
muôn đời.”
5. Chiêm Niệm –
Contemplatio
Chúng ta hãy cùng nhau
tôn sùng sự tốt lành của Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta Đức Maria, Mẹ
Chúa Giêsu, là Mẹ của chúng ta, và chúng ta hãy lặp lại trong thinh lặng:
Sáng danh Đức Chúa Cha
và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần,
Như đã có trước vô
cùng, và bây giờ, và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen.








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét