28/07/2019
Chúa Nhật 17 Thường
Niên năm C
(phần II)
Phụng
Vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 17 Thường niên năm C
St 18,20-32; Cl 2,12-14; Lc 11,1-13
Chủ đề: CẦU NGUYỆN THẾ NÀO CHO PHẢI
“Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho
những kẻ kêu xin Người sao?”
(Lc 11,13)
(Lc 11,13)
I.
CÁC BÀI ĐỌC:
Cầu
nguyện, cùng với ăn chay và bố thí, là việc đạo đức truyền thống trong bất kỳ
tôn giáo nào, nhưng không phải ai cũng biết cầu nguyện đúng cách. Các bài đọc lời
Chúa hôm nay không những đề cao tầm quan trọng của cầu nguyện, mà còn dạy người
ta cách cầu nguyện thế nào cho phải. Bài Tin Mừng hôm nay hàm chứa nội
dung “Kinh lạy Cha” mà chúng ta đọc hằng ngày. Tuy nhiên, Tin Mừng theo thánh
Mátthêu đầy đủ hơn (có bảy lời cầu xin) và nhấn mạnh đến tâm tình cầu nguyện,
trong khi Tin Mừng theo thánh Luca lại nhấn mạnh đến nội dung lời cầu nguyện,
và chỉ đề cập 5 điều (không đề cập đến các điều 3 và 7 như trong Mt).
1. Bài
đọc 1: St 18,20-32
Bài đọc
I thuật lại câu chuyện ông Ápraham chuyển cầu qua việc “thương lượng” với Đức
Chúa để Ngài không giáng phạt tội lỗi của kẻ dữ cho thấy hai điều: 1) Thiên
Chúa là Đấng dễ động lòng thương xót trước lời cầu khẩn chân thành và bền bỉ của
người công chính; 2) lòng thành của một số ít người lành cũng có thể trở nên cơ
hội cho toàn dân được cứu.
Trước
hết, sự kiên trì khẩn cầu của ông Ápraham có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Dù
biết mình “chỉ là thân tro bụi”, ông Ápraham không ngừng khẩn cầu xin Thiên
Chúa bỏ ý định giáng phạt Sôđôma và Gômôra. Cuộc “thương lượng” của ông Ápraham
với Thiên Chúa cho thấy rằng Thiên Chúa không phải là Đấng bất di bất dịch, cứng
nhắc trong ý định của Ngài, nhưng vì lòng thương xót, Ngài có thể thay đổi.
Trong sáu lần khẩn cầu với Thiên Chúa, ông Ápraham đều được Ngài chấp nhận. Quả
thật, lời cầu khẩn của người công chính luôn có giá trị trước mặt Thiên Chúa.
Ngài thay đổi ý định giáng phạt vì lời khẩn cầu của Ápraham.
Sau nữa,
Thiên Chúa là Đấng không muốn bỏ sót bất cứ người lành nào. Cuộc “thương lượng”
của ông Ápraham với Thiên Chúa xoay quanh lý lẽ rằng “chẳng lẽ Chúa sắp
tiêu diệt người công chính cùng với kẻ dữ sao?” (St 18,23).
Phẩm giá của “người lành” luôn có giá trị đặc biệt trước mặt Thiên Chúa, đến nỗi
Ngài không muốn bỏ sót bất cứ người nào. Dù cuộc thương lượng của ông Ápraham
cuối cùng chỉ dừng lại ở con số “mười người lành”, nhưng có lẽ câu chuyện muốn
cho thấy rằng Thiên Chúa không những không tiêu diệt người lành cùng với kẻ dữ,
mà còn vì một số ít người lành mà sẵn sàng thứ tha và cứu vớt một số đông kẻ dữ.
Câu
chuyện một mặt đề cao giá trị của lời khẩn cầu của người công chính trước mặt
Thiên Chúa, mặt khác cho thấy phẩm giá vô song của “người lành” đến nỗi Thiên
Chúa không nỡ trừng phạt một số đông “kẻ dữ” chỉ vì thương một số ít “người
lành”.
2. Bài
đọc 2: Cl 2,12-14
Cái
giá phải trả cho tội lỗi là sự hủy diệt, là sự chết như trường hợp của cư dân
thành Sôđôma và Gômôra, như được thuật trong bài đọc I. Còn theo thánh Phaolô,
trong Bài đọc II trích thư gửi tín hữu Côlôxê, tội lỗi cũng dẫn con người tới
cái chết, nhưng lại được cứu nhờ Phép rửa trong Đức Kitô.
Trước
hết, nhờ Phép rửa, con người được cùng mai táng với Đức Kitô và được cùng trỗi
dậy với Người. Quả vậy, một khi được dìm vào trong nước qua Phép rửa, con người
như chết đi cho tội lỗi, được mai táng với Đức Kitô, để khi bước ra khỏi nước,
con người như được trỗi dậy với Người, được mặc lấy sự sống mới của Người. Qua
Phép rửa, con người được biến đổi, từ tình trạng tội lỗi đến tình trạng được
thánh hóa nhờ ân sủng; từ con người cũ thành con người mới trong Chúa Kitô, Đấng
đã chết, nhưng đã sống lại để tha tội và ban sự sống cho những ai tin và chịu
Phép rửa nhân danh Người.
Sau nữa,
nhờ Phép rửa, con người được “hủy bản văn tự bất lợi” do các giới luật gây ra
(x. Cl 2,14). Thật vậy, Luật Môsê cố gắng giúp người ta đi
đúng đường lối Chúa, ngăn người ta lạc lối, phạm tội, nhưng lại trở thành dịp tội
khi người ta không thể giữ trọn vẹn Lề luật dù đã ý thức các điều tội lỗi, dẫn
đến án phạt là sự chết (x. Rm 7,7-25). Lề luật trở nên như cuốn
sổ ghi nợ những khi người ta không giữ trọn. Qua Phép rửa, Đức Kitô “hủy bản
văn tự bất lợi” và cho con người sống trong tình trạng tự do của con cái Thiên
Chúa, thoát khỏi tình trạng nô lệ cho tội lỗi.
Như
thế, Phép rửa trong Đức Kitô vừa “hủy bản văn tự bất lợi” do các giới luật gây
ra, giải thoát khỏi cái chết do tội, vừa cho tham dự vào sự sống mới của Đức
Kitô, Đấng đã chiến thắng sự chết.
3. Bài
Tin Mừng: Lc 11,1-13
Đoạn
Tin Mừng vừa làm nổi bật sự cần thiết của việc cầu nguyện, vừa cho thấy thái độ
cần có khi cầu nguyện và nội dung của việc cầu nguyện.
Trước
hết, đoạn Tin Mừng cho thấy sự cần thiết của việc cầu nguyện. Cầu nguyện, theo
truyền thống Do thái, là một trong ba việc đạo đức truyền thống, cùng với ăn
chay và bố thí. Ông Gioan Tẩy Giả, một người sống nhiệm nhặt và đạo đức theo
truyền thống Do thái, hẳn rất đề cao việc cầu nguyện, đồng thời dạy các môn đệ
cách thức cầu nguyện. Chúa Giêsu cũng là bậc thầy trong việc cầu nguyện. Người
thường dành thời gian riêng để cầu nguyện với Chúa Cha. Hẳn các môn đệ đã nhìn
thấy nơi Chúa Giêsu như là gương mẫu cầu nguyện và muốn học theo Người. Trong
khi theo Tin Mừng Mátthêu, chúa Giêsu chủ động dạy các môn đệ cách thức cầu
nguyện thì Tin Mừng Luca lại cho thấy các môn đệ xin Chúa Giêsu dạy cầu nguyện.
Kế đến,
đoạn Tin Mừng cho thấy nội dung của lời cầu nguyện. Dù nội dung của lời cầu
nguyện trong Tin Mừng Luca ngắn hơn so với Mátthêu nhưng vẫn làm nổi bật những
điểm quan trọng thiết yếu. Cầu nguyện trước hết là hướng về Thiên Chúa là Cha
mà thân thưa với Ngài, xin Ngài làm cho danh thánh của Ngài được mọi người nhận
biết và tôn thờ; đồng thời, xin cho Triều Đại của Ngài được mau hiển trị. Sau
đó lời cầu nguyện mới hướng đến các nhu cầu của con người về lương thực, về ơn
tha thứ và được gìn giữ khỏi chước cám dỗ. Như thế, lời cầu nguyện đẹp lòng
Chúa phải là lời cầu nguyện ưu tiên trước hết cho việc tôn vinh Thiên Chúa, rồi
mới đến những điều giúp cuộc sống con người được tốt lành, hạnh phúc và bình
an.
Cuối
cùng, đoạn Tin Mừng nhấn mạnh thái độ cầu nguyện. Thái độ cầu nguyện cần có trước
tiên phải là sự kiên trì. Như người bạn “cứ lì ra đó” cho đến khi nhận được điều
mình mong muốn (Lc 11,8), thì Thiên Chúa đâu nỡ chối từ lời cầu xin
tha thiết của con người. Điều Ngài chờ đợi nơi con người là sự kiên trì trong lời
cầu xin. Thêm nữa, cần có thái độ tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha trên trời rằng
những gì“xin thì sẽ được, tìm thì sẽ gặp, và gõ cửa thì sẽ mở cho”, vì
Thiên Chúa là cha tốt lành, Đấng hằng “ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” (Lc 11,13).
II. GỢI
Ý MỤC VỤ
1. “Abraham thưa: “Lạy Chúa, xin đừng
nổi giận, con chỉ xin thưa lần này nữa thôi: Nếu tìm được mười người công chính
ở đó thì sao?” Chúa phán: “Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”. Câu
chuyện ông Ápraham “thương lượng” với Thiên Chúa để xin Ngài hãy vì một số ít
người lành mà đừng đánh phạt những kẻ dữ cho thấy lòng khoan dung của một Thiên
Chúa, Đấng sẵn sàng thay đổi quyết định trước lời khẩn cầu tha thiết của người
công chính. Thay vì chỉ biết chê trách kẻ dữ thì chúng ta có thể nỗ lực trở
thành “người lành” để vì một số ít “người lành” đó, Thiên Chúa sẽ không nỡ trừng
phạt số đông “kẻ dữ” và qua đó khiến họ ăn năn mà được cứu. Sự kiên trì cầu khẩn
của ông Ápraham, là một “người lành”, đã làm cho Thiên Chúa động lòng mà tha thứ
cho kẻ tội lỗi. Tôi có đang kiên trì cầu khẩn với một Thiên Chúa giàu lòng khoan
dung và sẵn sàng tha thứ? Tôi có cầu nguyện với vị Thiên Chúa thật thân quen,
thật gần gũi, đến độ tôi có thể trò chuyện, cò cưa trả giá với Người ở bất cứ
đâu hay bất kỳ lúc nào. Mỗi chúng ta đã có thói quen trò chuyện với Chúa mỗi
ngày về mọi nỗi vui buồn trong cuộc sống đức tin của chúng ta chưa?
2. “Nhờ phép rửa tội, anh em đã được
mai táng làm một với Ðức Kitô, anh em cũng được sống lại với Người”. Thánh
Phaolô nhấn mạnh tầm quan trọng của Phép rửa. Quả vậy, Phép rửa trong Đức Kitô
vừa “hủy bản văn tự bất lợi” do các giới luật gây ra mà giải thoát con người khỏi
cái chết do tội, vừa cho con người tham dự vào sự sống mới của Đức Kitô, Đấng
đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Tôi có ý thức về sức mạnh của Phép rửa trong
Đức Kitô mà tôi đã lãnh nhận? Tôi có để cho sự sống mới của Đức Kitô biến đổi
con người tội lỗi của tôi?
3. “Hễ ai xin thì được, ai tìm thì
gặp, ai gõ thì sẽ mở cho”. Nhân cơ hội các môn đệ xin Đức Giêsu dạy
các ông cầu nguyện, Người đã cho các ông thấy tầm quan trọng của cầu nguyện, đồng
thời dạy các ông rằng lời cầu nguyện xứng hợp nhất. Lời cầu xin ưu tiên trước hết
cho việc tôn vinh Thiên Chúa và sự hiển trị của Nước Trời, rồi mới đến những điều
giúp con người sống tốt lành và bình an. Khi cầu nguyện, hai thái độ cần phải
có là kiên trì và tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha nhân lành, Đấng hằng lắng
nghe lời cầu xin tha thiết của con người. Tôi có đang cầu nguyện đúng cách? Tôi
có đang kiên trì cầu nguyện và hoàn toàn tin tưởng nơi Thiên Chúa là Cha nhân
lành hằng yêu thương tôi theo cách riêng của Người?
III.
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ
tế: Anh chị em thân mến! Chúa Giêsu đã dạy
chúng ta phải cầu nguyện kiên trì, vì cầu nguyện là phương thế giúp ta duy trì
tương quan thân tình Cha–con với Thiên Chúa. Xác tín vào quyền năng và tình
thương của Thiên Chúa là Cha, cộng đoàn chúng ta hãy thành tâm dâng lời cầu
xin:
1. Một
môn đệ thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện.” Chúng ta
cùng cầu xin cho mọi thành phần Hội Thánh luôn ý thức giá trị của việc cầu nguyện,
trong khi thực thi sứ mạng làm vinh danh Thiên Chúa giữa thế giới hôm nay.
2.
“Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến.” Chúng ta cùng cầu
xin cho lời rao giảng của Hội Thánh được nhiều người đón nhận và thực thi, để
Danh Chúa được cả sáng và ý Chúa ngày càng được thể hiện trong mọi môi trường
xã hội.
3.
“Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho.” Chúng ta cùng
cầu xin cho mọi Kitô hữu luôn xác tín và chân thành chạy đến với Chúa trong mọi
hoàn cảnh, với tất cả lòng tin tưởng phó thác, để được Chúa an ủi nâng đỡ cả
xác hồn.
4.
“Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người.” Chúng ta cùng cầu
xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết sống theo sự hướng dẫn của
Chúa Thánh Thần, tận tụy thi hành thánh ý Chúa với tâm tình của người con thảo.
Chủ
tế: Lạy Thiên Chúa là Cha hằng yêu thương
chăm sóc chúng con, xin thương nhận những ước nguyện của chúng con dâng lên
Chúa, và ban ơn trợ giúp để chúng con biết sống ngày càng xứng đáng hơn với tư
cách là con cái Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
SCĐ
Chúa Nhật XVII TN C
Chủ đề :Cầu xin
“Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện” (Lc 11,1)
Sợi
chỉ đỏ :
– Bài
đọc I : Abraham cầu xin Chúa cho thành Sôđôma
– Đáp
ca : Ca tụng Chúa đã nhậm lời cầu xin
– Tin
Mừng : Chúa Giêsu dạy các môn đệ cầu xin.
I. Dẫn
vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì gặp, ai gõ
cửa thì sẽ được mở cho”. Chúa nói thế để khuyến khích chúng ta khi cần điều gì
thì hãy cầu xin cùng Thiên Chúa một cách mạnh dạn, tin tưởng và kiên trì.
Trước
hết chúng ta hãy xin Chúa tha thứ những tội lỗi của chúng ta, để chúng ta xứng
đáng dâng Thánh lễ này lên Chúa.
II. Gợi
ý sám hối
– Xin
Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng con đã không kính mến Chúa cho đủ.
– Xin
Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng ta đã nhiều lần lỗi đức bác ái với người
khác.
– Xin
Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng con chưa chu toàn bổn phận của chúng
con.
III. Lời
Chúa
1.
Bài
đọc I (St
18,20-32)
Vì
dân thành Sôđôma phạm tội quá nhiều, Thiên Chúa cho Abraham biết Ngài sẽ cho lửa
từ trời xuống thiêu huỷ thành này. Abraham đã mặc cả với Chúa rằng nếu trong
thành có một số người công chính thì xin Chúa tha cho cả thành. Chúa đồng ý, và
Abraham đã hạ dần con số những người công chính : từ 50 xuống 45, rồi 40,
30, 20 và 10. Rất tiếc là Abraham đã dừng lại ở đó, không dám xuống nữa.
Câu
chuyện cho ta thấy 2 điều quan trọng : a/ Lòng thương xót của Chúa vì những
người công chính mà sẵn sàng tha thứ cho những người tội lỗi ; b/ Thiên
Chúa sẵn sàng nghe lời cầu xin của con người.
2.
Đáp
ca (Tv 137)
Ca tụng
Thiên Chúa đã nghe lời cầu xin của con người.
3.
Tin
Mừng (Lc
11,1-13)
Chúa
Giêsu dạy về cầu nguyện :
1. Nội dung phải cầu nguyện : Kinh Lạy
Cha : Thời Chúa Giêsu, mỗi nhóm tín ngưỡng có một bài kinh riêng, đặc
trưng của nhóm mình. Bài kinh mà Chúa Giêsu sắp dạy cũng là đặc trưng của Kitô
giáo. Nét đặc trưng rõ nhất được thấy trong một từ chìa khoá lắp đi lặp lại rất
nhiều lần, từ “Cha” : kitô hữu được làm con Thiên Chúa và được gọi Thiên
Chúa là Cha.
Vì là
một bài kinh rất ngắn gọn cho nên những điều được nói trong đó đều là những điều
then chốt nhất. Nói cách khác, những lời xin trong bài kinh này cho ta biết những
điều mà kitô hữu cần quan tâm nhất là gì :
a/ Đối
với Chúa : sao cho người ta được biết Chúa (“Xin làm cho danh Cha vinh hiển”) ;
sao cho nhiều người gia nhập Nước Chúa (“triều đại Cha mau đến”)
b/ Đối
với chính bản thân mình : có lương thực hằng ngày, được Cha tha thứ và
mình cũng biết tha thứ cho người khác, đừng sa chước cám dỗ.
2.
Thái
độ khi cầu nguyện : Phải kiên trì
Để
minh họa cho thái độ kiên trì, Chúa Giêsu đưa dụ ngôn về “người bạn quấy rầy”
– “Quấy
rầy” vì đến gõ cửa ban đêm để vay bánh : việc này khiến chủ nhà bị mất ngủ.
Và nếu chủ nhà thức dậy thắp đèn lên, rồi lấy bánh, rồi mở cửa, rồi nói chuyện…
thì sẽ làm cho vợ con của ông cũng mất ngủ luôn. Bởi thế, chủ nhà đã nói vọng
ra lời từ chối. Nhưng người bên ngoài cứ vừa gõ cửa vừa kêu mãi.
–
Nhưng người đứng bên ngoài ấy lại là một “người bạn”. Bạn bè thì phải thương
yêu nhau và tương thân tương trợ nhau, nhất là trong những khi gặp khó như trường
hợp này.
Việc
chủ nhà cuối cùng đã cho anh bạn vay bánh có thể vì một trong hai lý do :
cho để khỏi bị quấy rầy nữa ; cho vì tình bạn. Theo cách diễn tả của dụ
ngôn thì người đó đã làm vì lý do thứ nhất. Nếu làm vì lý do thứ hai thì việc
cho sẽ có ý nghĩa hơn. Nhưng dù sao thì cuối cùng anh bạn đứng ngoài đã đạt được
điều mình xin, và lý do là nhờ anh kiên trì.
Sau
khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu lý luận theo kiểu a fortiori (huống chi) : người
đời dù quen hành động theo lý do ích kỷ (để khỏi bị quấy rầy) thế mà cũng phải
chịu thua sự kiên trì của người xin. Huống chi Thiên Chúa vốn tốt lành quen đối
xử với chúng ta theo tình thương. Bởi thế nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì
chắc chắn sẽ được nhậm lời.
4.
Bài
đọc II (Cl
2,12-14) (Chủ đề phụ)
Thánh
Phaolô giải thích những hiệu quả của bí tích Rửa tội :
–
Giúp chúng ta chết đi cho con người cũ yếu hèn để sống lại thành con người mới
kết hợp với Đức Kitô.
– Tha
thứ mọi tội lỗi trước đây của chúng ta.
IV. Gợi
ý giảng
*
1. Lời cầu xin của Abraham
Lời cầu
xin của Abraham có nhiều điểm hay đáng chúng ta bắt chước :
– Ông
không cầu xin cho bản thân mình, mà cho người khác, những người không phải là
bà con hay bạn bè thân thích gì của ông cả.
– Ông
không cầu xin cho những người đạo đức công chính, mà xin cho những người tội lỗi.
– Ông
đã nại vào lòng thương xót của Chúa và vào “uy tín” của một số người công
chính.
Nhưng
có một điểm mà Abraham chưa làm gương cho chúng ta được. Đó là xem ra ông chưa
tin tưởng hoàn toàn vào Chúa cho nên đã dừng lại ở con số 10 người công chính
chứ không dám tiến xa hơn vào lòng thương xót vô biên của Chúa.
*
2. Xin, tìm và gõ
Chúa
Giêsu khuyến khích chúng ta hãy xin, hãy tìm và hãy gõ cửa. Nghĩa là đức tin của
chúng ta phải là một hành động tích cực chứ không phải là một thái độ thụ động
chỉ biết đợi chờ.
Tuy
nhiên lắm khi vì tự phụ mà chúng ta không xin, nên chúng ta không nhận được ;
lắm khi vì chúng ta lười biếng mà không tìm, nên chúng ta không gặp ; lắm
khi vì chúng ta nhút nhát mà không gõ cửa nên không được mở cho.
Đừng
thụ động ngồi chờ ơn Chúa như những quả sung từ trời rụng xuống. Hãy khiêm tốn,
siêng năng và bạo dạn mà xin, mà tìm và gõ cửa. Nếu điều đó tốt cho chúng ta
thì chắc chắn Thiên Chúa là Cha nhân hậu sẽ ban cho chúng ta.
*
3. Tại sao phải cầu xin cách kiên trì ?
Phải
kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng
thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì
không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không
mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một
ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay
không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu
thương của một người Cha đầy tình nhân ái.
*
4. Và chúa nói không
– Tôi
xin Người lấy niềm kiêu hãnh của tôi đi. Và Người nói “không”. Người nói việc lấy
đi không phải do Người mà là tôi phải từ bỏ nó.
– Tôi
xin Người làm cho đứa bé tật nguyền của tôi được lành lặn. Và Người nói không.
Người nói tinh thần của tôi mới là tất cả, còn thể xác chỉ là nhất thời thôi.
– Tôi
xin Người ban cho tôi sự kiên nhẫn. Và Người nói không. Người nói kiên nhẫn là
một phó sản của nỗi gian nan khổ cực, không ban được mà phải tự kếm lấy.
– Tôi
xin Người ban cho tôi hạnh phúc. Và Người nói không. Người nói Người ban cho
tôi những lời chúc lành, hạnh phúc tuỳ thuộc nơi tôi.
– Tôi
xin Người vứt bỏ nỗi đớn đau. Và Người nói không. Người nói khổ đau sẽ đưa con
ra khỏi những lo toan trần thế và đưa con lại gần Ta hơn.
– Tôi
xin Người làm cho tinh thần tôi phát triển. Và Người nói không. Người nói sẽ
cho tôi sự sống để tôi vui hưởng tất cả mọi thứ.
– Tôi
xin Người giúp tôi yêu thương những người khác nhiều như Người yêu tôi. Và Người
nói : À, cuối cùng thì con cũng có một ý tưởng hay. (Tài liệu nước ngoài.
Hải Lý dịch. Đăng trong tuần báo CgvDt, số 1147, ngày 1.3.1998)
*
5. Xin điều này được điều khác
Tôi
xin Chúa cho tôi sức khoẻ để tôi có thể làm được những việc lớn lao – Ngài lại
ban cho tôi sự yếu đuối để tôi làm mọi việc cách tốt hơn.
Tôi
xin Chúa cho tôi giàu sang để tôi có thể sống hạnh phúc hơn – Ngài lại ban cho
tôi sự nghèo nàn để tôi sống khôn ngoan hơn.
Tôi
xin Chúa ban cho tôi quyền lực để được người đời xưng tụng – Ngài lại ban cho
tôi sự mọn hèn để tôi ý thức cần đến Ngài hơn.
Tôi
xin Chúa ban cho tôi mọi sự, nhờ đó tôi tận hưởng thú vui cuộc sống – Ngài lại
ban cho tôi cuộc sống để nhờ đó tôi tận hưởng mọi sự.
Tuy
tôi chẳng được tất cả những điều tôi xin, nhưng lại nhận được mọi thứ tôi cần.
(Anon)
6.
Chuyện
minh họa
a/
Kiên trì
Một người đưa tin đến một lâu đài cũ kỹ và anh lấy búa gõ cửa. Không ai trả lời.
Anh lại gõ và chỉ có tiếng vang dội lại. Nhưng anh biết có người trong nhà, anh
nhìn thấy họ qua cửa sổ. Giận sôi lên, anh cầm búa và lấy hết sức giáng mạnh
vào cửa hai ba chục lần.
Một khuôn mặt cau có ngó qua lỗ then cửa và lịch sự hỏi xem người khách muốn
vào không.
Vị
khách nói như mê sảng : “Này ông, tôi vào được không ? Chẳng lẽ ai muốn
vào cũng phải gõ như tôi ?”.
– Ồ,
ông biết đấy : Có nhiều trẻ ở xung quanh đến đây, chúng gõ cửa một vài lần
rồi bỏ chạy, nên chúng tôi biết là không cần để ý đến chúng. Nhưng khi nghe ông
gõ cửa, tôi thực sự thấy ông muốn vào. Vì thế tôi ra mở cửa.
b/
Khiêm tốn
Ngày kia, thánh Clément Hofbauer đi xin đồ viện trợ cho các cô nhi. Ngài vào một
quán ăn, có ba người đang đánh bạc, xin họ góp phần vào công việc từ thiện. Một
người chửi bới, rồi nhổ vào mặt ngài.
Thánh nhân lặng lẽ rút khăn tay lau mặt và nhẹ nhàng nói : “Đó là phần ông
cho tôi. Còn phần cho các cô nhi của tôi đâu ?”
Tay cờ bạc kinh ngạc đến thẹn thùng, rồi
dốc túi đưa hết cho ngài.
V. Lời
nguyện cho mọi người
Chủ
tế : Anh chị em
thân mến, cầu nguyện là hơi thở, là sức sống, là linh hồn của đời sống người
Kitô hữu. Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết cầu nguyện
như Chúa đã dạy :
1. Hội thánh luôn khuyên nhủ con cái mình
siêng năng cầu nguyện / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết
chăm chỉ lắng nghe / và cố gắng thực hiện lời mời gọi tha thiết của Hội
thánh / trong đời sống đức tin thường ngày.
2. Ngày nay / có một số Kitô hữu /
đặc biệt là các Kitô hữu trẻ / cho rằng cầu nguyện không còn cần thiết nữa /
Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi tín hữu hiểu rằng / cầu nguyện
cần thiết cho đời sống đức tin / như dầu cần cho đèn.
3. Cầu nguyện trong gia đình rất quan trọng
cho cuộc sống đức tin của người tín hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết
mọi gia đình Công giáo / biết trung thành đọc kinh tối sáng mỗi ngày.
4. Chúa Giêsu dạy ta kinh Lạy Cha để cầu
nguyện cùng Chúa Cha / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ
chúng ta / vừa đọc vừa suy niệm / và sống theo tinh thần của lời kinh
nguyện tuyệt vời này.
Chủ
tế : Lạy Chúa, xin
cho chúng con biết luôn cảm tạ Chúa là Đấng đã dựng nên chúng con và gìn giữ
chúng con khỏi mọi sự dữ trong cuộc sống thường ngày. Chúng con cầu xin
VI. Trong
Thánh Lễ
– Trước
kinh Lạy Cha : Khi các môn đệ xin Chúa Giêsu dạy cầu nguyện, Ngài đã dạy
họ Kinh Lạy Cha. Chúng ta hãy kết hợp tâm tình với các môn đệ mà cầu nguyện bằng
chính lời kinh Chúa dạy.
VII. Giải tán
Trong
tuần này, mỗi khi có điều gì cần, chúng ta hãy cầu xin với Chúa cách khiêm tốn,
kiên trì và tin tưởng, bởi vì chính Ngài đã hứa : “Ai xin thì sẽ được, ai
tìm thì gặp, ai gõ cửa thì sẽ được mở cho”.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio
Divina: Chúa Nhật XVII Thường Niên (C)
Sunday
28 July, 2019
Lời
cầu nguyện của Thầy
Lời
cầu nguyện của các môn đệ
Lc
11:1 – 13
1. Lời
nguyện mở đầu
Lạy
Cha là Đấng hay thương xót,
Nhân
danh Chúa Kitô con Cha, chúng con khẩn cầu cùng Cha,
Xin
Cha hãy ban Ân Huệ xuống cho chúng con,
Xin
Chúa hãy tuôn đổ Thần Khí Chúa trên chúng con!
Lạy
Chúa Thánh Thần, Đấng Phù Trợ
Xin
hãy dạy cho chúng con cầu nguyện trong chân lý,
trong
Đền Thờ mới
chính
là Chúa Kitô.
Lạy
Chúa Thánh Thần, Đấng trung tín với Chúa Cha và với chúng con,
như
chim có tổ,
xin
hãy bàu chữa liên lỉ với Chúa Cha cho chúng con,
Bởi
vì chúng con không biết cầu nguyện như thế nào.
Thần
Khí của Chúa Kitô,
Quà tặng
đầu tiên dành cho chúng con là những người tin Chúa,
xin
hãy cầu nguyện không ngừng nghỉ với Chúa Cha cùng chúng con,
như
Con Người đã dạy cho chúng con. Amen.
2.
Bài Đọc
a)
Để trợ giúp chúng ta hiểu đoạn văn:
Bài
Tin Mừng được chia thành ba đoạn:
Lc
11:1-4: Lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu đã dạy
Lc
11:5-8: Dụ ngôn người bạn quấy rầy
Lc
11:9-13: Giáo huấn về hiệu quả của lời cầu nguyện
b)
Tin Mừng:
1 Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi
kia. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng:
“Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, như ông Gioan đã dạy môn đệ của
ông.” 2 Người bảo các ông: “Khi các con cầu
nguyện, hãy nói:
“Lạy
Cha, nguyện xin danh thánh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến.
3 xin Cha cho chúng con hôm
nay lương thực hằng ngày;
4 và tha nợ chúng
con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con;
và
xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.”
5 Và Người còn bảo các
ông rằng: “Nếu ai trong các con có người bạn, nửa đêm đến nhà
người bạn ấy mà nói: “Anh ơi, xin cho tôi vay ba cái bánh; 6 vì
tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, và tôi không có
gì thiết đãi anh ấy”; 7 và từ trong nhà có
tiếng người ấy đáp: “Xin anh đừng quấy rầy tôi; vì cửa đã
đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi; tôi không
thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được? 8 Thầy bảo
các con, dẫu người đó không dậy vì tình bạn để lấy
bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự
quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.
9 “Và Thầy bảo các
con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ
cửa thì sẽ mở cho. 10 Vì hễ ai xin thì được, ai tìm
thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. 11Người cha nào trong các
con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nóxin cá, lại cho
nó con rắn thay vì cá sao? 12 Hay nó xin quả trứng
lại cho nó con bò cạp ư? 13 Vậy nếu các
con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của
tốt, phương chi Cha các con trên trời lại không ban Thánh Thần cho những
kẻ kêu xin Người sao? ”
3.
Giây phút thinh lặng cầu nguyện
– Giống
như các môn đệ, chúng ta cũng hãy cùng nhau tề tựu chung quanh Chúa Giêsu đang
cầu nguyện một mình. Chúng ta quây quần chung quanh Người và trong
Người với tất cả sức lực của chúng ta, mọi ý nghĩ, mọi lời cam kết và mối bận
tâm, niềm hy vọng và nỗi đau khổ của chúng ta…
– Ngày
nay chính chúng ta là những môn đệ trông thấy Thầy mình đang cầu nguyện và tự
cho phép mình được tham gia vào việc cầu nguyện của Người, trong đó, một cách
rõ ràng, là khá đặc biệt.
– Hôm
nay, lời của Người đang nói với chúng ta, lời mời gọi tin tưởng vào tình yêu của
Chúa Cha gửi đến cho chúng ta. Chúng ta đã mải mê với những thứ vật
chất, rất nhiều kiếm tìm với “tất cả và ngay lập tức”, do đó say mê bởi một
ngàn thứ, rồi sau đó (và chỉ “sau đó”, sau một vài biến cố làm chúng ta bàng
hoàng sửng sốt) chúng ta khám phá ra rằng tất cả những thứ đó chỉ là phù phiếm
…
– Hôm
nay, đó chính là tùy thuộc vào chúng ta để dâng lên lời cầu nguyện của Thầy Chí
Thánh: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả
sáng…
4. Một
vài câu hỏi
Chúng
ta hãy dùng cơ hội này để kiểm điểm lại cách cầu nguyện của chúng ta:
* Việc
cầu nguyện mang ý nghĩa gì đối với tôi: Đó có phải là một bổn phận? Một
sự tạm dừng trong việc tìm kiếm bản ngã? Đó có phải là việc dâng lên
Thiên Chúa với một danh sách các lời cầu xin? Một lúc tạm dừng cùng
với Đức Chúa Cha? Đó có phải là một cuộc đối thoại tin tưởng và đơn
giản với Đấng hết lòng yêu thương tôi không?
* Tôi
đã dành ra bao nhiêu thời gian cho việc cầu nguyện: một ít phút mỗi ngày? hay mỗi
tuần một lần hay mỗi tháng một lần? Thỉnh thoảng? Có đều
đặn thường xuyên không? Tôi có chờ cho đến lúc “cảm thấy có nhu cầu”
thì mới cầu nguyện không?
* Điểm
khởi đầu cho lời cầu nguyện của tôi là gì: Đó có phải là Lời Chúa
không? Có phải là ngày lễ của một vị thánh hay là ngày của nghi lễ
phụng vụ không? Đó có phải là do lòng sùng kính Đức Mẹ
không? Đó có phải là một bức tượng hay bức hình không? Có
phải là từ các sự kiện quan trọng trong đời sống của tôi hoặc trong lịch cử của
thế giới không?
* Tôi
gặp gỡ ai khi tôi cầu nguyện: Nhìn sâu vào bản thân mình, khi cầu
nguyện, tôi đã cầu nguyện với người mà tôi cảm thấy là quan tòa phê phán tôi
hay là tôi cầu nguyện với một người bạn? Tôi có cảm thấy Chúa là một
người “bằng vai” với tôi hay là một “Đấng Thánh”, vô định hay không thể đến gần
được không? Chúa có gần bên tôi không hay là xa vời và lãnh đạm? Người
là Chúa Cha của tôi hay là Thầy tôi? Chúa có quan tâm tới tôi không
hay là “Người bận rộn với các việc của Người”?
* Tôi
cầu nguyện như thế nào: tôi có cầu nguyện một cách máy móc không, có dùng những
khuôn sáo có sẵn không? Tôi có cầu nguyện bằng các đoạn Thánh Vịnh
hoặc các đoạn Kinh Thánh khác không? Các lời của bài đọc Phụng Vụ
không? Tôi có chọn cầu nguyện bằng những lời tự phát không? Tôi có
đi tìm các văn bản với lời lẽ văn hoa hay tôi thích lặp lại những lời nguyện ngắn? Tôi
đã xử dụng “lời cầu nguyện của Chúa” như thế nào? Tôi có thường xuyên cầu khẩn
Thiên Chúa vì những nhu cầu hay vì muốn ca ngợi Người trong những lời phụng vụ
hoặc chiêm niệm Người trong thinh lặng? Tôi có khả năng cầu nguyện
trong lúc làm việc không, hoặc tại bất cứ nơi nào hoặc chỉ khi trong nhà thờ mà
thôi? Tôi có khả năng tự mình soạn ra lời cầu nguyện phụng vụ của
riêng tôi không? Mẹ Thiên Chúa có chỗ đứng nào trong những lời cầu
nguyện của tôi?
5.
Chìa khóa dẫn đến bài đọc
Bài
Tin Mừng này trình bày lời cầu nguyện như là một trong các nhu cầu căn bản và
là một điểm quan trọng trong đời sống của người môn đệ của Chúa Giêsu và của cộng
đoàn các môn đệ.
Các
câu 1–4: Chúa
Giêsu, như những bậc đại tôn sư trong thời đại của Người, dạy các môn đệ mình một
lời cầu nguyện sẽ xác định căn tính của họ: “Kinh Lạy Cha”.
a) Có
một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia.Khi Người cầu nguyện xong, có một
môn đệ thưa Người rằng: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu
nguyện: Chúa
Giêsu cầu nguyện riêng một nơi. Theo Phúc Âm của Luca, Chúa làm điều
này thường xuyên (5:16), nhất là trước những biến cố quan trọng: trước
khi chọn Nhóm Mười Hai (6:12-13), trước khi kêu mời Phêrô tuyên xưng đức tin của
mình (9:18-20), trước khi Chúa biến hình (9:28-29), và sau cùng, trước cuộc
thương khó (22:40-45).
Khi
Chúa Giêsu cầu nguyện, Người đã gợi lên trong lòng các môn đệ một niềm ước ao cầu
nguyện giống như Người. Một cách rõ ràng, lời cầu nguyện tự nó đã
cho thấy bên ngoài trong một phương thức rất đặc biệt và chắc chắn đã ảnh hưởng
đến sự rao giảng của Người. Các môn đệ hiểu rằng lời cầu nguyện như
thế thật là hoàn toàn khác so với những gì đã được dạy bởi các bậc tôn sư tại Israel
hay thậm chí ngay cả những người đi trước Chúa Giêsu. Đó là lý do tại
sao các ông xin Chúa dạy cho các ông cầu nguyện. Do đó, lời cầu nguyện
mà Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ mình trở thành lời diễn đạt đặc trưng của
lý tưởng và căn tính của họ, trong cách các ông liên quan với Thiên Chúa và với
nhau.
b)
Chúa Cha:Điều đầu tiên
mà Chúa Giêsu dạy về cầu nguyện là gọi Thiên Chúa là “Cha”. Không giống
như Luca, Mátthêu đã không thêm vào đại danh từ sở hữu chủ “của chúng tôi”, ít
nhấn mạnh hơn về khía cạnh cộng đoàn của kinh nguyện Kitô hữu. Mặt
khác, sự việc cách gọi Chúa Cha, là yếu tố tạo thành chất kết hợp tốt nhất của
cộng đoàn các môn đệ.
Đối với
người Do Thái vào thế kỷ thứ nhất, mối quan hệ với cha là một trong những mối
quan hệ thân mật, mà cũng là một sự thừa nhận thẩm quyền của người cha trên mỗi
thành viên của gia đình. Điều này được phản ảnh trong phong tục người
Kitô hữu gọi Thiên Chúa là “Chúa Cha”, trong khi đó không có một bằng chứng cụ
thể nào cho rằng người Do Thái thời bấy giờ đã quen gọi Thiên Chúa với một chữ
thân mật “abba”. Chữ này không có gì khác hơn là hình thức
nhấn mạnh của tiếng Aram “ ‘ab”, một từ ngữ quen thuộc và kính trọng
được dùng cho những người cha trần thế.
Sự việc
mà Chúa Giêsu đã hướng về Thiên Chúa và gọi Thiên Chúa là abba, cho
thấy một mối quan hệ mới mà Người, và các môn đệ do đó, đã thiết lập với Thiên
Chúa: Một mối quan hệ thân thiết, quen thuộc và tín thác.
Trong
giản đồ hệ thống cổ điển của lời cầu nguyện Kinh Thánh, phần đầu của “kinh Lạy
Cha” là thưa chuyện trực tiếp với Thiên Chúa, trong khi phần thứ hai đề cập đến
các nhu cầu của con người trong cuộc sống trần gian này.
c) Lạy
Cha,nguyện xin danh thánh Cha cả sáng: trong lời mặc khải của các tiên
tri Israel, chính Thiên Chúa là Đấng đã “tự thánh hóa Danh của Người” (có nghĩa
là, chính Chúa: “danh tức là người”) can thiệp với quyền năng trong lịch sử
nhân loại, ấy thế mà dân Israel và các dân khác đã xúc phạm đến
Chúa. Trong sách Edêkien chúng ta đọc thấy: “Chúng đã
làm cho danh Ta bị xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến, khiến người ta nói về
chúng rằng: ‘Đó là dân của ĐỨC CHÚA, chúng đã phải ra khỏi xứ của Người.’ Nhưng
Ta ái ngại cho thánh danh Ta đã bị nhà Ít-ra-en xúc phạm giữa các dân mà chúng
đi đến. Vì thế, ngươi hãy nói với nhà Ít-ra-en: ĐỨC
CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Hỡi nhà Ít-ra-en, không phải vì các ngươi mà
Ta hành động, mà vì danh thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa các dân các
ngươi đã đi đến. Ta sẽ biểu dương danh thánh thiện vĩ đại
của Ta đã bị xúc phạm giữa chư dân, danh mà các ngươi đã xúc phạm ở giữa chúng.
Bấy giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là
Chúa Thượng – khi Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta nơi các ngươi ngay trước
mắt chúng. Bấy giờ, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân tộc,
sẽ quy tụ các ngươi lại từ khắp các nước, và sẽ dẫn các ngươi về đất của các
ngươi.” (36:20-24). Trong cùng một đề tài chúng ta cũng có thể đọc: Đnl 32:51; Is 29:22; Ed 28:22-25).
Chủ đề
của động từ “thánh thiêng”, trong Lc 11:2, chính là Thiên
Chúa: chúng ta đang phải đối diện với sự “thần học thụ động”. Điều
này có nghĩa là lời khẩn cầu thứ nhất của lời cầu nguyện này không liên quan gì
đến loài người và bổn phận không thể chối cãi của họ là phải tôn vinh và kính
trọng Thiên Chúa, mà chính Chúa Cha là Đấng phải được biết đến với tất cả mọi
loài. Vì vậy, chúng ta khẩn cầu cùng Thiên Chúa để Người mặc khải
cho chúng ta trong quyền năng tối thượng của Người: đây là một lời
khẩn cầu với ý nghĩa cánh chung, được nối kết chặt chẽ với lời khẩn cầu sau
đây.
d) NướcCha trị đến: sự kiện vĩ đại được công bố
bởi Chúa Giêsu là việc khẳng định Nước Trời sắp đến giữa chúng ta: “Hãy
chắc chắn điều này: Triều đại của Thiên Chúa đã đến gần” (Lc 10:11;
và xem Mt 10:7). Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu và của
các Kitô hữu, khi ấy, là sự hòa hợp chặt chẽ với lời công bố này. Việc
cầu xin trong lời cầu nguyện này là Triều Đại Thiên Chúa đã và đang hiện diện
rõ ràng hơn bao giờ hết, trên thực tế, có hai hiệu quả: người đang cầu
nguyện phải đến mặt đối mặt với kế hoạch ngày cánh chung của Thiên Chúa, mà
cũng còn với bổn phận sẵn lòng nhiệt thành phục vụ cho ý muốn cứu rỗi của Chúa
Cha. Vì thế, nếu đúng là chúng ta có thể và phải thưa với Đức Chúa
Cha về các nhu cầu của chúng ta, thì cũng đúng là lời cầu nguyện của người Kitô
hữu không bao giờ có loài người trong lời kết của nó, nó cũng không bao giờ là
một lời cầu xin vị kỷ, nhưng kết thúc sau rốt của nó là để vinh danh Thiên
Chúa, cầu khẩn sự gần gũi trọn vẹn của Người, sự khải hiện hoàn toàn của Người: “Vậy
hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Lc 12:31).
e)
Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày: chúng ta đã tiến đến phần thứ hai
của lời cầu nguyện của Chúa. Người cầu nguyện bây giờ đã đưa vào áp
dụng mối quan hệ mật thiết và chính xác với Thiên Chúa, và hiện đang sống trong
sự mật thiết hợp lẽ với Thiên Chúa là Chúa Cha và những lời cầu xin của người ấy
xuôi chảy từ cách sống này.
Trong
thời đại của Chúa Giêsu, cũng (gần giống) như thời đại của chúng ta, bánh là
lương thực thiết yếu nhất, là chất dinh dưỡng chính. Tuy nhiên,
trong trường hợp này, “bánh” tượng trưng cho thực phẩm nói chung, và hơn thế nữa,
tất cả các nhu cầu vật chất của các môn đệ.
Danh
từ “bánh” là bản dịch từ chữ Hy-Lạp “epiousion”, cũng được thấy trong Phúc Âm
Mátthêu nhưng không thấy trong bất kỳ bản kinh thánh Hy-Lạp hoặc văn bản ngoài
kinh thánh nào khác. Điều này đã khiến cho khó có thể mà đưa ra một
phiên bản thực sự đáng tin cậy, vì thế mà chúng ta bị hạn chế trong việc phiên
dịch danh từ này một cách chuẩn xác theo bối cảnh.
Tuy
nhiên, có điều rõ ràng là người môn đệ khi cầu nguyện theo ý này thì hiểu rằng
sẽ không có nhiều của cải vật chất trong tương lai, thậm chí ngay cả thức ăn hằng
ngày: người ấy đã thực sự “từ bỏ tất cả mọi sự” để đi theo Đức Kitô (xem Lc
5:11). Ở đây chúng ta đang bàn luận tới đặc tính tình trạng của thế
hệ tiên khởi của những người Kitô hữu. Điều này không có nghĩa là lời
cầu nguyện xin “bánh” không còn thiết thực với các Kitô hữu ngày nay nữa: Tất
cả chúng ta được kêu gọi để nhận lãnh tất cả mọi thứ từ Thượng Đế, như một món
quà cho không từ Thiên Chúa, ngay cả khi những thứ này có được từ sức lao động
bởi đôi tay chúng ta. Việc dâng của lễ Thánh Thể nhắc nhở chúng ta
điều này trong mọi lúc: chúng ta dâng lên Thiên Chúa những gì chúng
ta biết rõ là đã được nhận lãnh từ Thiên Chúa để chúng ta có thể nhận lãnh trở
lại từ tay Người. Điều này cũng có nghĩa là người Kitô hữu thuộc mọi
thời đại không nên quá bận tâm với tình trạng vật chất của mình, bởi vì Chúa
Cha sẽ chăm sóc người ấy: “Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng
lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng
sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc” (Lc 12:22-23).
f)
Xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng
tha mọi kẻ có nợ chúng con: Người Kitô hữu, được đắm mình trong sự cứu rỗi
ban cho bởi Đức Chúa Cha với Triều Đại sắp đến của Người, biết rằng tất cả tội
lỗi của người ấy đã được tha thứ. Điều này đặt để người Kitô hữu
trong điều kiện và bổn phận phải tha thứ cho những người khác, do đó cho phép
Thiên Chúa cũng có thể dứt khoát tha thứ cho người Kitô hữu giống như họ đã tha
thứ cho anh em mình (xem Mt 18:23-25).
Chúng
ta luôn chần chừ giữa vương quốc “đã” hiện hữu và vương quốc “chưa” đạt được. Một
người Kitô hữu cư xử trái với ơn cứu độ đã nhận được từ Thiên Chúa qua Đức
Kitô, làm cho sự tha thứ mà người ấy đã nhận được trở nên vô dụng. Đó
là lý do tại sao Luca đã nói: “như chính chúng con tha thứ”. Luca
không muốn đặt để loài người chúng ta ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng chỉ để
cho chúng ta biết rằng chúng ta có thể làm hỏng công cuộc cứu rỗi của Thiên
Chúa, trong đó Đức Chúa Cha đã sẵn lòng bao gồm cả chúng ta như một nhân tố
tích cực, để mở rộng ơn tha thứ nhưng không của Người đến tất cả mọi người.
Các
câu 5-8: không
chỉ là một dụ ngôn, đây là một sự so sánh, bởi vì nó minh họa một thái độ điển
hình gợi lên trong những người nghe một câu trả lời tự phát và duy nhất. Trong
trường hợp này, sẽ khó mà tìm ra được bất cứ ai có thể trả lời một cách nhanh
nhảu “không có ai!” cho câu hỏi “Người nào…? (Câu
5). Như vậy, đoạn Tin Mừng này muốn chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa
hành động như thế nào qua sự gạn lọc của cung cách cư xử con người, tức là một
bản sao chép nghèo nàn của cung cách cư xử của Đức Chúa Cha.
Cảnh
được diễn ra trong một vùng đất Palestine. Thông thường, bất cứ ai
đi trên một cuộc hành trình dài sẽ bắt đầu vào lúc hoàng hôn để tránh nhiệt độ
rất nóng của ban ngày. Trong nhà của người Paléstine vào thời ấy, chỉ
có một gian phòng và cả gia đình xử dụng nó cho tất cả các hoạt động trong ngày
cũng như dùng để ngủ vào ban đêm bằng cách chỉ cần trải chiếu dưới sàn nhà.
Lời
yêu cầu của người đàn ông mà bất chợt có một người khách viếng thăm giữa đêm
khuya, phản ảnh một cảm giác đặc thù về sự hiếu khách của những người xưa, và lời
giải thích về sự yêu cầu của “ba chiếc bánh” (câu 5) đó là một bữa ăn bình thường
cho một người lớn.
Người
đàn ông đã tin tưởng người bạn mình vào ban đêm là hình ảnh người môn đệ của
Chúa Kitô, được mời gọi để cầu nguyện cùng Thiên Chúa liên lỉ mọi nơi và mọi
lúc, một sự tin tưởng hoàn toàn rằng người ấy sẽ được lắng nghe, không phải bởi
vì người ấy đã quấy rầy Thiên Chúa, nhưng bởi vì Người là một người Cha giàu
lòng thương xót và là Đấng trung tín với mọi giao ước của Người. Do
đó, dụ ngôn cho chúng ta thấy một người môn đệ nên phải cầu nguyện “kinh Lạy
Cha chúng con” như thế nào: với một lòng trông cậy hoàn toàn vào
Thiên Chúa, Chúa Cha yêu thương và công bằng, một lòng trông cậy mà ngay cả những
việc táo gan nhất là “quấy rầy Người” vào bất cứ lúc nào và nài nỉ với Người
trong mọi việc, chắc chắn là sẽ được trả lời.
Cầu
nguyện, được xem như là một thái độ căn bản của mỗi người Kitô hữu muốn thực sự
là môn đệ của Chúa Giêsu, được diễn đạt rành mạch bởi thánh Phaolô tông đồ: “Anh
em hãy cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi
hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô
Giêsu” (1Tx5:17-18); “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em
hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như
vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh” (Ep 6:18).
Các
câu 9-13: phần
cuối bài Tin Mừng của chúng ta đúng ra được gọi là phần hướng dẫn kiến thức. Nó
tóm tắt lại chủ đề của các câu trước, nhấn mạnh đến lòng tin tưởng phải được biểu
thị bằng lời cầu nguyện của người Kitô hữu, dựa trên một đức tin vững
vàng. Chính đức tin của người cầu nguyện sẽ mở rộng cánh cửa đến
trái tim của Chúa Cha, và đó là bản sắc của Chúa Cha, Đấng luôn sẵn lòng che
chở con cái Người trong vòng tay và an ủi chúng với sự
trìu mến của một người mẹ(xem Is 66:12-13), là phải nuôi dưỡng đức
tin của các Kitô hữu.
Thiên
Chúa là một người Cha thích được nhận những lời cầu xin của các người con, bởi
vì điều này cho thấy rằng họ đã đặt lòng trông cậy vào nơi Người; để cầu xin, họ
phải tiến đến Người với tấm lòng rộng mở; vì cầu xin đã thúc đẩy họ phải nhìn đến
gương mặt nhân hậu và yêu thương của Người, vì bằng sự cầu xin (kể cả cầu xin
gián tiếp) họ cho thấy là họ tin tưởng rằng Người đích thực là Chúa của mọi thời
đại và của thế giới, và hơn hết cả, bởi vì lời cầu xin của họ đã tạo cơ hội cho
Người sẵn sàng công khai tỏ ra tình yêu cho không, ân cần, và tinh tế của Người
chỉ vì lợi ích của con cái Người. Điều làm phiền lòng Chúa Cha không
phải là những lời cầu xin khăng khăng hoặc thiếu cân nhắc của con cái Người, mà
đó là họ không cầu xin một cách đầy đủ, giữ im lặng và hầu như thờ ơ với Người,
là họ lánh xa với một ngàn lý do bào chữa khách sáo, chẳng hạn như “Chúa đã biết
tất cả mọi việc”, v.v. Thiên Chúa chắc chắn là một người Cha, Đấng
cung cấp tất cả mọi sự và chăm sóc cuộc sống hằng ngày của con cái Người,
nhưng, đồng thời Người cũng biết điều gì tốt đẹp nhất cho họ, thậm chí còn biết
rõ hơn họ nữa. Đó là lý do tại sao Chúa tuôn đổ trên các Kitô hữu những
điều tốt đẹp, và hơn hết cả, món quà tuyệt hảo: Chúa
Thánh Thần, món quà duy nhất thật sự không thể thiếu cho đời sống của họ, món
quà mà nếu được phép làm, Đấng sẽ khiến họ trở nên con cái đích thực trong Đức
Chúa Con
6.
Đáp Ca: Thánh Vịnh 104
Lạy
Thiên Chúa thương xót và quan phòng, Đấng đã tạo ra sự hài hòa kỳ diệu của vũ
trụ và Đấng đã đặt để loài người trong ấy như “vị đại diện” của Người, chúng ta
hãy ca tụng Người với bài Thánh Vịnh:
Chúc
tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
Lạy CHÚA là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!
Áo Ngài mặc: toàn oai phong lẫm liệt,
cẩm bào Ngài khoác: muôn vạn ánh hào quang!
Tầng trời thẳm, Chúa căng như màn trướng,
điện cao vời, dựng trên khối nước cõi thanh không.
Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt bay cánh gió.
Sứ giả Ngài: làm gió bốn phương,
nô bộc Chúa: lửa hồng muôn ngọn.
Chúa lập địa cầu trên nền vững,
khôn chuyển lay muôn thuở muôn đời!
Lạy CHÚA là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!
Áo Ngài mặc: toàn oai phong lẫm liệt,
cẩm bào Ngài khoác: muôn vạn ánh hào quang!
Tầng trời thẳm, Chúa căng như màn trướng,
điện cao vời, dựng trên khối nước cõi thanh không.
Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt bay cánh gió.
Sứ giả Ngài: làm gió bốn phương,
nô bộc Chúa: lửa hồng muôn ngọn.
Chúa lập địa cầu trên nền vững,
khôn chuyển lay muôn thuở muôn đời!
Áo vực
thẳm choàng lên trái đất,
khối nước nguồn tụ lại đỉnh non cao.
Nghe tiếng Ngài doạ nạt, chúng đồng loạt chạy dài;
sấm Ngài mới rền vang, chúng kinh hoàng trốn thoát,
băng qua núi qua đồi, chảy xuôi ra đồng nội
về nơi Chúa đặt cho.
Ngài vạch đường ranh giới ngăn cản chúng vượt qua,
không còn cho trở lại dâng lên ngập địa cầu.
Chúa khơi nguồn: suối tuôn thác đổ,
giữa núi đồi, lượn khúc quanh co,
đem nước uống cho loài dã thú,
bầy ngựa hoang đang khát được thoả thuê.
Bên dòng suối, chim trời làm tổ,
dưới lá cành cất giọng líu lo.
Từ cao thẳm, Chúa đổ mưa xuống núi,
đất chứa chan phước lộc của Ngài.
Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc,
làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng.
Từ ruộng đất, họ kiếm ra cơm bánh,
chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người,
xức dầu thơm cho gương mặt sáng tươi,
nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ.
khối nước nguồn tụ lại đỉnh non cao.
Nghe tiếng Ngài doạ nạt, chúng đồng loạt chạy dài;
sấm Ngài mới rền vang, chúng kinh hoàng trốn thoát,
băng qua núi qua đồi, chảy xuôi ra đồng nội
về nơi Chúa đặt cho.
Ngài vạch đường ranh giới ngăn cản chúng vượt qua,
không còn cho trở lại dâng lên ngập địa cầu.
Chúa khơi nguồn: suối tuôn thác đổ,
giữa núi đồi, lượn khúc quanh co,
đem nước uống cho loài dã thú,
bầy ngựa hoang đang khát được thoả thuê.
Bên dòng suối, chim trời làm tổ,
dưới lá cành cất giọng líu lo.
Từ cao thẳm, Chúa đổ mưa xuống núi,
đất chứa chan phước lộc của Ngài.
Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc,
làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng.
Từ ruộng đất, họ kiếm ra cơm bánh,
chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người,
xức dầu thơm cho gương mặt sáng tươi,
nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ.
Hương
bá Li-băng, những cây CHÚA đã trồng,
được tràn trề nhựa sống.
Bầy chim tước rủ nhau làm ổ,
hạc bay về xây tổ ngọn cao.
Núi chon von, loài sơn dương tìm đến,
hốc đá sâu, giống ngân thử ẩn mình.
được tràn trề nhựa sống.
Bầy chim tước rủ nhau làm ổ,
hạc bay về xây tổ ngọn cao.
Núi chon von, loài sơn dương tìm đến,
hốc đá sâu, giống ngân thử ẩn mình.
Chúa
đặt vầng trăng để đo thời tiết,
dạy mặt trời biết lặn đúng thời gian.
Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối,
chốn rừng sâu, muông thú tung hoành.
Tiếng sư tử gầm lên vang dội,
chúng săn mồi, gào xin Chúa cho ăn.
Ánh dương lên, chúng bảo nhau về,
tìm hang hốc, chui vào nằm nghỉ.
Đến lượt con người ra đi làm lụng,
những mải mê tới lúc chiều tà.
dạy mặt trời biết lặn đúng thời gian.
Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối,
chốn rừng sâu, muông thú tung hoành.
Tiếng sư tử gầm lên vang dội,
chúng săn mồi, gào xin Chúa cho ăn.
Ánh dương lên, chúng bảo nhau về,
tìm hang hốc, chui vào nằm nghỉ.
Đến lượt con người ra đi làm lụng,
những mải mê tới lúc chiều tà.
Công
trình Ngài, lạy CHÚA, quả thiên hình vạn trạng,
Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan!
Những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất.
Này đại dương bát ngát mênh mông,
nơi muôn vàn sinh vật to lẫn nhỏ vẫy vùng,
nơi tàu bè cỡi sóng và thủy quái tung tăng,
là vật Chúa tạo thành để làm trò tiêu khiển.
Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa
đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn.
Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan!
Những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất.
Này đại dương bát ngát mênh mông,
nơi muôn vàn sinh vật to lẫn nhỏ vẫy vùng,
nơi tàu bè cỡi sóng và thủy quái tung tăng,
là vật Chúa tạo thành để làm trò tiêu khiển.
Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa
đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn.
Ngài
ban xuống, chúng lượm về,
Ngài mở tay, chúng thoả thuê ơn phước.
Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi;
lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi.
Ngài mở tay, chúng thoả thuê ơn phước.
Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi;
lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi.
Sinh
khí của Ngài, Ngài gửi tới,
là chúng được dựng nên,
và Ngài đổi mới mặt đất này.
Vinh hiển CHÚA, nguyện muôn năm tồn tại,
công trình CHÚA làm Chúa được hân hoan!
Chúa nhìn đất thấp, đất sợ run lẩy bẩy,
Người chạm núi cao, núi toả khói mịt mù.
là chúng được dựng nên,
và Ngài đổi mới mặt đất này.
Vinh hiển CHÚA, nguyện muôn năm tồn tại,
công trình CHÚA làm Chúa được hân hoan!
Chúa nhìn đất thấp, đất sợ run lẩy bẩy,
Người chạm núi cao, núi toả khói mịt mù.
Suốt
cuộc đời, tôi sẽ ca mừng CHÚA,
sống ngày nào, xin đàn hát kính Thiên Chúa của tôi.
Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả,
đối với tôi, niềm vui là chính CHÚA.
Ước gì tội nhân phải biệt tích cõi đời,
bọn bất lương sạch bóng chẳng còn ai.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
sống ngày nào, xin đàn hát kính Thiên Chúa của tôi.
Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả,
đối với tôi, niềm vui là chính CHÚA.
Ước gì tội nhân phải biệt tích cõi đời,
bọn bất lương sạch bóng chẳng còn ai.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
7. Lời
nguyện kết
Lạy
Chúa Cha tốt lành và thánh thiện, tình yêu của Cha đã làm cho chúng con trở
thành anh chị em và thúc giục chúng con đến quây quần trong Hội Thánh của Cha để
ca tụng với đời sống mầu nhiệm của sự hiệp thông. Chúa kêu gọi chúng
con để chia xẻ chiếc bánh, hằng sống và muôn đời, Chúa đã ban cho chúng con từ
trời. Xin Chúa hãy giúp chúng con cũng biết cách bẻ bánh, trong tình
yêu của Đức Kitô, chiếc bánh trần thế của chúng con, để cơn đói cơ thể và tinh
thần của chúng con có thể được no thỏa. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét