11/08/2019
Chúa Nhật 19 Thường Niên năm C
(phần I)
BÀI ĐỌC
I: Kn 18, 6-9
"Như Chúa
đã làm hại đối thủ thế nào, Chúa cũng đã làm cho chúng tôi được vẻ vang như vậy".
Trích
sách Khôn Ngoan.
Chính
đêm ấy, cha ông chúng ta đã biết trước, để biết chắc mình đã tin tưởng vào lời
thề nào mà được can đảm. Dân Chúa đã mong đợi sự giải thoát những người công
chính và sự tiêu diệt kẻ thù. Vì như Chúa đã làm hại đối thủ thế nào, Chúa cũng
kêu gọi để làm cho chúng tôi được vẻ vang như vậy.
Vì những
con cái thánh thiện của các tổ phụ tốt lành đã lén lút tế lễ, và đồng tâm thiết
lập luật thánh thiện, ấn định rằng những người công chính sẽ đồng hưởng vinh nhục,
may rủi đều nhau; như vậy là họ đã xướng lên trước bài ca tụng của các tổ phụ.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 32, 1 và 12. 18-19. 20 và 22
Đáp:
Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).
1)
Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa; ca ngợi là việc của những kẻ lòng
ngay. Phúc thay quốc gia mà Chúa là chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp
riêng mình. - Đáp.
2)
Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Ngài, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng
của Ngài, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ
hàn. - Đáp.
3)
Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Đấng phù trợ và che chở chúng
con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy
ở nơi Ngài. - Đáp.
BÀI ĐỌC
II: Dt 11, 1-2, 8-19
"Ông mong
đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Đấng sáng lập".
Trích
thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh
em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng
điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng tốt.
Nhờ đức
tin, Abraham đáp lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến xứ ông sẽ được lãnh làm gia
nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đến cư ngụ
trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người, sống trong lều trại, cũng
như Isaac và Giacóp, những kẻ đồng thừa tự cùng một lời hứa. Vì chưng, ông mong
đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Đấng sáng lập.
Nhờ đức
tin mà ngay cả bà Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà đã già, bởi vì bà
tin rằng Đấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do tự một người, mặc dầu người
đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số như sao trên trời và như cát
bãi biển.
Chính
trong đức tin mà tất cả những kẻ ấy đã chết trước khi nhận lãnh điều đã hứa,
nhưng được nhìn thấy và đón chào từ đàng xa, đồng thời thú nhận rằng mình là lữ
khách trên mặt đất. Những ai nói những lời như thế, chứng tỏ rằng mình đang đi
tìm quê hương. Giá như họ còn nhớ đến quê hương dưới đất mà họ đã lìa bỏ, chắc
họ có đủ thời giờ trở về. Nhưng hiện giờ họ ước mong một quê hương hoàn hảo
hơn, tức là quê trời. Vì thế, Thiên Chúa không ngại để họ gọi mình là Thiên
Chúa của họ, vì Người đã dọn sẵn cho họ một thành trì.
Nhờ đức
tin, khi bị thử lòng, Abraham đã dâng Isaac. Ông hiến dâng con một mình, ông là
người nhận lãnh lời hứa, là người đã được phán bảo lời này: "Chính nơi Isaac
mà có một dòng dõi mang tên ngươi". Vì ông nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền
làm cho kẻ chết sống lại, do đó, ông đã đón nhận con ông như một hình ảnh.
Đó là lời Chúa.
Hoặc
bài vắn này: Dt
11, 1-2, 8-12
Anh
em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng
điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng tốt.
Nhờ đức
tin, Abraham đáp lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến xứ ông sẽ được lãnh làm gia
nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đến cư ngụ
trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người, sống trong lều trại, cũng
như Isaac và Giacóp, những kẻ đồng thừa tự cùng một lời hứa. Vì chưng, ông mong
đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Đấng sáng lập.
Nhờ đức
tin mà ngay cả bà Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà đã già, bởi vì bà
tin rằng Đấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do tự một người, mặc dầu người
đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số như sao trên trời và như cát
bãi biển. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA:
Ga 14, 5
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống: không ai
đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
PHÚC
ÂM: Lc 12, 32-48
"Các con
hãy sẵn sàng".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ,
vì Cha các con đã vui lòng ban nước trời cho các con. Các con hãy bán những của
các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng
không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm
hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó.
"Các
con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ
đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ
nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt
chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về
mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này
là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch
nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con
Người sẽ đến".
Phêrô
thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi
người?" Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn
ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc
cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật
các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy
nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái,
ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó
không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung.
Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm
theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những
sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì
sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều
hơn". Đó là lời Chúa.
Hoặc
bài vắn này: Lc 12, 35-40
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn
cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về
gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh
thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại
hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì
phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này là nếu chủ nhà biết giờ
nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các
con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Đó là lời Chúa.
Suy niệm : Tỉnh thức và cảnh giác
Hẳn
chúng ta còn nhớ giáo huấn của Lời Chúa trong Chúa nhật trước. Các bài Thánh
Kinh hôm đó nhắc nhở chúng ta đang khi sinh sống ở trần gian đừng quên nghĩ đến
tương lai và định mệnh cuối cùng của mình. Như vậy Lời Chúa hôm nay rõ ràng muốn
tiếp tục giáo huấn chúng ta theo phương hướng ấy.
Bài
sách Khôn ngoan cho chúng ta thấy con cái Israel vì đã được báo trước về tương
lai nên đã bình tĩnh xử sự trong hiện tại như thế nào? Và thư Hipri nêu cao
gương sáng của Abraham khi đã tin vào tương lai thì vững vàng tiến bước trên đường
trần gian làm sao? Cuối cùng trong bài Tin Mừng Ðức Giêsu dạy chúng ta phải làm
gì đang khi chờ đợi ngày Chúa trở lại? Nếu chúng ta muốn tìm hiểu lại các bài
Kinh Thánh hôm nay theo diễn tiến thời gian, thì chúng ta hãy bắt đầu với thư
Hipri, rồi đến bài sách Khôn ngoan, và sau hết chúng ta sẽ đọc lại bài Tin Mừng.
1.
Bài Thư Hipri
Chúng
ta biết thư Hipri là một bản văn đầy tính cách an ủi. Tác giả muốn khuyến khích
các tín hữu của Chúa đang gặp khủng hoảng về đức tin. Chương 11 mà hôm nay
chúng ta trích đọc một đoạn về Abraham, trình bày gương sáng đức tin của các tổ
phụ, để có "cả đám mây nhân chứng lớn lao dường ấy quanh ta, thì cả ta nữa
ta hãy... nắm lấy kiên nhẫn, chạy vào trận tuyến chờ ta, đăm nhìn lên Ðấng khơi
nguồn và viên thành đức tin là Ðức Giêsu" (12,1-2).
Nhưng
trước hết tác giả đã muốn định nghĩa đức tin là gì và khẳng định đó là nhân đức
chung của mọi tổ phụ. Hơn nữa các người được vinh quang như ngày nay, hoàn toàn
nhờ ở đức tin.
Vậy
"tin là cách chiếm hữu điều còn trong hy vọng, là phương nhận thức các thực
tại người ta không thấy". Các tổ phụ tin khi họ chắc chắn rằng các điều
Chúa đã hứa cho họ về tương lai sẽ xảy đến cho họ và các điều vô hình Người nói
với họ đều có thực.
Abraham
là người đầu tiên có một đức tin như vậy. Chúa nói với ông ở đất Haran:
"Hãy đi khỏi xứ sở ngươi... đến đất Ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ cho ngươi thành một
dân lớn". Abraham tin vào lời đó và đã ra đi, chẳng hiểu sẽ đi đến chỗ
nào, nhưng chắc chắn Chúa sẽ hướng dẫn mình đến đất sẽ trở thành quê hương xứ sở
của mình và mình sẽ có con đàn cháu đống ở đó. Chính niềm tin đã đưa ông lên đường;
và cũng chính niềm tin đã khiến ông không dừng lại lấy nơi nào làm quê hương
không phải là nơi Chúa sẽ chỉ cho. Do đó, ở đâu và qua chỗ nào, ông cũng luôn sống
trong lều vải, cũng như Isaac và Giacóp con cháu ông sau này, luôn luôn đợi
ngày được xây đô thị cư ngụ vĩnh viễn theo ý Chúa sắp đặt.
Ðang
khi ấy từ ngày này qua ngày khác, tháng trước qua tháng sau, năm cũ qua năm mới,
Abraham bình tĩnh nhưng không khỏi nóng ruột muốn biết Chúa sẽ thực hiện Lời
Chúa thế nào để ông có con đàn cháu đống làm nên một dân đông nhiều như sao
trên trời như cát ngoài biển. Lời hứa này có lẽ còn khó tin hơn cả lời hứa về đất
đai, vì cả Sara bạn ông và chính ông đều đã già nua tuổi tác. Dù vậy Abraham vẫn
tin. Ông vẫn một mực tin vào Lời Chúa, cả khi Người bảo đem Isaac vừa lớn lên
giết đi để tế lễ Người. Ông giơ tay sẵn sàng đem giết đứa con độc nhất đang khi
vẫn ý thức một cách chắc chắn rằng miêu duệ mình sẽ không sức nào đếm nổi. Lòng
tin thật lạ lùng. Nó là động lực của những hành động phi thường không thể nào
hiểu thấu. Nó là bình an vững bền cho tâm hồn con người đang lữ hành trần gian.
Nó mở cửa đời sau cho người ta bước vào một cách bình thản.
Tác
giả thư Hipri hôm nay viết: "Thể theo lòng tin, các người ấy đã chết hết
thảy mà không lĩnh được các điều đã hứa, nhưng chỉ nhìn xa xa và với
chào". Các người ấy ở đây không những là Abraham và Sara, mà còn là Isaac
và Giacóp, là Môsê và hết thảy các tổ phụ. Sách Ðệ Nhị Luật kể, Chúa đã đưa
Môsê lên núi Nêbô. Người chỉ cho ông thấy tất cả đất hứa ở đằng xa. Con cái
Israel sẽ vào, nhưng chính ông sẽ không được đến đất ấy (34,1-4).
Abraham
và hết thảy các tổ phụ một cách nào đó cũng như Môsê. Họ chỉ được thấy đất hứa
và tương lai dân tộc ở đàng xa, tức là trong niềm tin. Nhưng như vậy cũng đã đủ
là lẽ sống cho họ. Họ tin vào Lời Chúa và lời hứa của Người. Họ từ bỏ mọi sự
khác để sống phù hợp với niềm tin ấy. Nếu họ đã nản chí thì họ đã trở về quê
hương cũ, nơi họ xuất phát và khởi hành. Nhưng vì tin và tiếp tục tin, họ luôn
coi mình là lữ khách và kiều dân ở mọi nơi chưa phải là đất hứa. Và họ coi tất
cả mọi sự không thuộc về Lời Hứa đều không quan trọng.
Thái
độ này là điều mà phụng vụ muốn khuyên chúng ta hôm nay, chúng ta hãy đi trên
đường đời như Abraham và các tổ phụ. Hãy nhìn Lời Hứa ở đàng xa và với chào.
Hãy để cho tương lai và định mệnh ấy đưa chúng ta lên đường và cất bước không
nao núng trong khi vui cũng như lúc âu sầu. Ðức tin đã cho chúng ta một hướng
đi, thì trong những ngày u tối nhất chúng ta vẫn thấy sáng sủa; và khi gặp những
cản trở to lớn, chúng ta vẫn không sờn lòng. Ðang khi ấy chúng ta đừng quên có
"cả một đám mây nhân chứng lớn lao ở quanh ta" và có thể nói đang
cùng ta tiến bước. Ðó không phải chỉ là gương sáng của tiền nhân mà còn là Hội
Thánh. Dân Chúa đang cuốn ta cùng đi. Bài sách Khôn ngoan có thể giúp chúng ta
suy nghĩ thêm về điểm này.
2.
Bài Sách Khôn Ngoan
Những
chương cuối cùng của tác phẩm này suy nghĩ về các biến cố trong việc xuất hành
của con cái Israel ra khỏi Ai Cập. Và đoạn chúng ta đọc hôm nay ngẫm suy về
chính đêm lịch sử đã giải thoát người Do Thái. Ðêm này, các tổ phụ đã được biết
trước. Không những Chúa đã báo trước cho Abraham (Khởi nguyên 15,13-14) mà
chính Môsê mới đây cũng bảo cho con cái Israel biết (Xh 12,21-28). Họ chỉ biết,
nếu họ có niềm tin. Họ có tin vào Chúa và lời của Người, họ mới chờ đợi cái đêm
hôm ấy. Niềm tin đây là niềm tin của tất cả cộng đồng, chứ không phải là niềm
tin của từng cá nhân nữa. Tất cả cộng đồng con cái Israel đêm nay sống một niềm
tin chung. Toàn thể dân Chúa chờ đợi đêm nay để thấy các thánh được cứu độ và
thù địch bị diệt vong. Thế nên, họ hội họp nhau, dâng lễ vật vượt qua, thi hành
các thánh chỉ, nhất trí một lòng cùng chung phúc may và hiểm họa, biểu hiện niềm
tin duy nhất bằng cách cất tiếng hát.
Thực
ra tác giả Khôn ngoan đã không hoàn toàn chỉ mô tả chính đêm Vượt qua. Ông đã
nhìn vào lễ nghi Vượt qua ở thời ông để diễn lại đêm lịch sử nguyên thủy. Các
ông đọc lại lịch sử càng cho chúng ta thấy ý nghĩa phong phú cứu độ của biến cố
Xuất hành. Và chúng ta sung sướng ghi nhận những suy nghĩ của ông.
Với
ông chúng ta thấy rằng con cái Israel đã được giải thoát nhờ niềm tin, một niềm
tin vững vàng căn cứ nguyên vào Lời Chúa. Niềm tin này toàn dân phải sống. Hết
thảy phải hội họp nhau trong đêm ấy, phải chắc chắn hành động cứu độ sắp xảy đến.
Phải thi hành mọi chỉ thị của Chúa, phải nhất trí đồng hội đồng thuyền sẵn sàng
chịu chung phúc họa.
Niềm
tin này thật ra trong đêm lịch sử đầu tiên đã không được hoàn toàn như vậy. Hôm
ấy con cái Israel chưa có kinh nghiệm và chưa thấy cánh tay mạnh mẽ của Chúa...
Chính từ ngày thấy Chúa giải thoát dân bằng cánh tay hùng mạnh, người ta mới có
kinh nghiệm và khuyến khích để tin vào những lần giải cứu khác mà Chúa nói là sẽ
còn kỳ diệu hơn nữa. Tác giả sách Khôn ngoan là một trong những người tin mạnh
mẽ vào hành động cứu độ của Chúa trong tương lai. Ông viết lại đêm xuất hành thời
Môsê, tô điểm cho nó bằng niềm tin của ông, để khuyến khích con cái Israel mỗi
khi ăn lễ Vượt qua và mỗi khi trông chờ ơn cứu độ, phải có niềm tin vững vàng,
niềm tin tập thể, niềm tin Chúa sẽ cứu cộng đồng trong đó có mình.
Do đó
nếu bài thư Hípri lấy gương Abraham để khuyến khích mỗi người chúng ta luôn
luôn tiến bước về tương lai với niềm tin vững chắc, thì với bài sách Khôn ngoan
này, phụng vụ muốn nhắc nhở chúng ta đặt niềm tin tương lai vào sự gắn bó với tập
thể là Hội Thánh.
Dân
Chúa hãy cử hành các buổi lễ Vượt qua là mầu nhiệm thánh thể trong một niềm tin
chung. Dân Chúa mỗi khi gặp nhau, hãy một lòng một ý tiến về tương lai. Niềm
tin tập thể đã giải cứu con cái Israel thế nào thì sẽ giúp dân mới vượt qua huy
hoàng hơn nữa. Chúng ta không tiến về tương lai một mình, nhưng cùng với toàn
thể nhân loại được cứu độ. Chúng ta phải cất cao bài hát của các tổ phụ, tức là
nói lên niềm tin vững vàng phấn khởi vào Thiên Chúa và Lời Hứa của Người.
Nhưng
nói như vậy có lẽ vẫn chưa cụ thể. Bài Tin Mừng Luca hôm nay truyền lại cho
chúng ta giáo huấn rõ ràng hơn của Chúa.
3.
Bài Tin Mừng Luca
Thoạt
đầu Chúa nói với tất cả các môn đệ, tức là với hết thảy mọi người tin Chúa. Về
sau Chúa nói riêng với các tông đồ tức là với những người có trách nhiệm trong
Hội Thánh.
Với tất
cả mọi người, Ðức Giêsu có một lời khích lệ âu yếm, Người nói: "Ðừng sợ, hỡi
đàn chiên nhỏ bé, vì Cha các ngươi đã khấng ban nước Trời cho các ngươi".
Lời nói vắn tắt nhưng rất thâm thúy. Nó có sức an ủi vì khêu lên niềm tin vững
vàng. Nó cho chúng ta thấy rõ Chúa thấu suốt hoàn cảnh hiện tại của chúng
ta..., nhưng Người cũng khẳng định thân phận của chúng ta rất tốt đẹp.
Hiện
tại chúng ta là những con chiên nhỏ, vừa nhỏ vừa ít ỏi, vừa nhỏ vì yếu thế. Hội
Thánh luôn luôn như vậy vừa ít số vừa không có thế lực. Thường khi chỉ là con
thuyền nhỏ trong cơn bão táp trần gian. Nhưng Chúa bảo đừng sợ vì Chúa Cha đã
khấng ban Nước Trời cho chúng ta.
Hơn nữa,
Hội Thánh đang là chính Nước Trời ấy có sự sống phong phú của Thiên Chúa và nắm
vững mọi phương tiện cứu rỗi. Những ai tin như vậy sẽ thấy bình an và vững vàng
trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Tuy
nhiên đức tin không phải chỉ là cái nhìn bình an. Nó là khởi điểm và là động lực.
Nó đã làm cho Abraham lên đường và giúp ông luôn luôn cất bước cho đến hết cuộc
đời. Nó đã khiến con cái Israel tập họp trong đêm xuất hành để vượt qua. Nó
cũng phải đưa chúng ta vào hành động.
Vì thế
Chúa nói với tất cả các môn đệ: Các ngươi hãy xắn áo đai lưng và đèn chong
sáng, tức là cả đêm ngày luôn ở tư thế làm việc và sẵn sàng. Người Do Thái mặc
áo dài lụng thụng, nên khi làm việc vừa phải sắn lên, vừa phải đai lại.
Ðó
cũng còn là thái độ Chúa đòi khi họ ăn lễ Vượt qua (12,11). Nó nói lên ý nghĩa
sẵn sàng. Còn khi nói phải chong đèn sáng, dĩ nhiên có ý tưởng bảo phải tỉnh thức
và cảnh giác; nhưng cũng có ý nói: Tất cả chúng ta đã là con cái sự sáng, con
cái của ban ngày, nên luôn luôn phải làm việc và làm việc trong sáng. Chúng ta
cũng có thể nhớ lại lễ nghi rửa tội trong đó có việc trao nến sáng để nhắc nhở
con cái Chúa phải nên như ánh sáng thế gian và phải giữ đèn sáng đi đón Chúa.
Ở
đây, Chúa cũng gợi lên ý tưởng này. Người tự ví mình như người chủ đi ăn cưới
chẳng biết lúc nào về. Phúc cho đầy tớ nào còn thức để mở cửa ngay cho chủ khi
ông vừa về tới nhà. Nhưng Chúa không phải là người chủ thường...
Chẳng
người chủ nào làm như Người đã làm và sẽ làm. Người sẽ cho đầy tớ Người là
chúng ta ngồi vào bàn ăn và Người sẽ đi dọn bữa cho chúng ta. Với bất cứ người
nào sẵn sàng mở cửa khi Chúa gõ, Người cũng sẽ đi vào nhà linh hồn người ấy,
ban máu thịt, ân sủng và Lời Người cho họ làm lương thực và Người cũng sẽ dùng
bữa ăn tại nhà người ấy.
Và
không những được thêm ơn, những tâm hồn sẵn sàng đón Chúa như vậy còn được đảm
bảo chẳng khi nào mất ơn. Kẻ trộm vào nhà sao được khi người trong nhà tỉnh thức?
Chúa dùng toàn kiểu nói và hình ảnh thông thường để chúng ta dễ hiểu ý Người.
Nhưng chúng ta không được dừng lại ở hình ảnh và kiểu nói. Còn phải đi xa hơn để
thấy thái độ tỉnh thức mà Chúa căn dặn ở đây chính là sự cởi mở, nhậy cảm và là
một thứ linh tính và giác quan và những điều có hệ đến Nước Trời, tức là đến
Chúa và Hội Thánh, đến ơn cứu độ của Người hằng muốn ùa vào trong đời sống của
chúng ta qua các biến cố to nhỏ hằng ngày. Chỉ khi nào người ta giữ tâm hồn cởi
mở và nhạy cảm đối với những gì có thể làm tăng ơn Chúa và mở rộng Nước Người,
lúc đó họ mới là con người sắn áo đai lưng và chong đèn sáng, họ mới có tư thế
con người làm việc và sẵn sàng.
Một đức
tin như vậy mới sống động và tích cực. Nó mới giống đức tin của Abraham và của
cộng đồng dân Chúa nói trong các bài Kinh Thánh nói hôm nay.
Riêng
đối với những người có trách nhiệm trong Hội Thánh Chúa muốn căn dặn qua câu trả
lời cho Phêrô. Họ phải tỏ ra quản lý trung thực và khôn ngoan. Không những phải
tỉnh thức và sẵn sàng đón chủ trở về, mà trong khi chờ đợi còn phải phục vụ gia
nhân cho tươm tất đầy đủ; xả kỷ, yêu thương chứ không trục lợi, gắt gỏng, tàn
ác. Kẻ biết rõ ý chủ mà không thi hành sẽ bị loại bỏ và coi như phường bất tín,
tức là ra khỏi sản nghiệp dành cho những người có niềm tin. Còn ai hiểu biết ý
chủ ít hơn, sẽ không bị phạt nặng bằng.
Thiết
tưởng Chúa nói như vậy cũng đã đủ cho chúng ta suy nghĩ. Người luôn trung tín
giữ mọi điều Người đã hứa. Không lời hứa nào đầy đủ hạnh phúc hơn Lời Người đã
nói với chúng ta trong đức tin. Chính khi gọi chúng ta tin Người, Người đã hứa
ban cho chúng ta mọi sự. Abraham đã nhận thấy như vậy và đã tin. Và vì tin ông
đã có một đời sống tích cực như thế. Con cái Israel cũng đã tin lời Chúa như thế
và đã thi hành chỉ thị của Người. Họ đã được Người đưa vào hứa địa, nơi chảy sữa
và mật.
Ðến
lượt chúng ta có cả một đám mây nhân chứng lớn lao dường ấy quanh ta, thì cả
chúng ta nữa, chúng ta cũng hãy chạy vào trận tuyến chờ ta...! Và lời thư Hípri
nói tiếp: "Chúng ta hãy đăm đăm nhìn lên Ðức Giêsu, Ðấng khơi nguồn và
viên thành đức tin".
Chúng
ta hãy nhìn lên Người trong mầu nhiệm Thánh Thể này, Người chứng tỏ một niềm
tin lớn lao dường nào khi ra đi chịu chết. Người làm lễ vượt qua của Người với
đầy lòng tin, hoàn thành niềm tin của Abraham khi ra đi và của con cái Israel
khi xuất hành... Người khơi đức tin lên nơi chúng ta để dự lễ rồi chúng ta sống
đạo, sống đức tin, nhạy cảm với mọi sự có hệ đến phần rỗi của mọi người và tìm
phục vụ trong yêu thương chứ không tìm ích kỷ trong hại người.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ
Nhật 19 Thường Niên, Năm C
Bài
đọc: Wis 18:6-9; Heb
11:1-2, 8-12 (19); Lk 12:32-48.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin tưởng và trung thành giữ Lời Thiên Chúa.
Có
nhiều người tin vào câu nói: “Phải thấy mới tin; tin mà không thấy là tin dị
đoan” mà chẳng cần kiểm chứng gì cả. Có nhiều điều sai trái trong câu này. Thứ
nhất, khi một người nói tin, là anh tin vào điều anh chưa thấy; nếu đã thấy rồi
thì không cần phải tin nữa. Ví dụ, chẳng ai nói: “Tôi tin là tôi đã tìm được số
bạc mà tôi đã đánh mất;” nhưng chỉ nói “Tôi đã tìm được số bạc mà tôi đã đánh mất.”
Thứ hai, khi một người nói: “tin mà không thấy là tin dị đoan” là một điều hàm
hồ, vì có những điều người đó vẫn tin mặc dù không thấy. Ví dụ, chẳng ai thấy
hơi thở, nhưng nếu thấy một người đang sống, anh phải tin là người ấy có hơi thở;
hay chẳng ai thấy dòng điện chạy, nhưng chẳng ai dám đưa tay sờ vào ổ điện.
Các
bài đọc hôm nay dẫn chứng niềm tin vào Thiên Chúa không phải là dị đoan; nhưng
là niềm tin có kiểm chứng bằng những lời Thiên Chúa hứa và các việc Ngài làm.
Trong bài đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan lặp lại lời hứa ban Đất Hứa của Thiên
Chúa cho các tổ phụ. Ngài bắt đầu thực hiện trong đêm ấy, khi Ngài đưa dân ra
khỏi miền đất nô lệ của Ai-cập, lang thang trong sa mạc 40 năm, và sau cùng cho
họ định cư trong Đất Hứa, “vùng đất chảy sữa và mật.” Trong bài đọc II, sau khi
đã cho một định nghĩa chính xác về niềm tin, tác giả Thư Do-thái dẫn chứng bằng
những ví dụ lịch sử cho thấy những lời Thiên Chúa hứa và những việc Thiên Chúa
làm luôn tương xứng với nhau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ phải
tin tưởng và tỉnh thức chuẩn bị cho Ngày Thiên Chúa đến, Ngày mà họ sẽ được
lãnh nhận tất cả những gì Thiên Chúa hứa ban cho các đầy tớ trung thành và khôn
ngoan.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Đêm ấy đã được báo
trước cho cha ông chúng con.
Đêm
Vượt Qua là một biến cố vĩ đại mà không người Do-thái nào không biết, vì họ phải
cử hành mỗi năm theo như luật Đức Chúa truyền. Mỗi khi cử hành biến cố này, họ
nhắc nhở cho nhau uy quyền và tình thương của Đức Chúa dành cho họ, để họ biết
sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa. Mỗi khi con cái Israel quên Đức Chúa và
các Lề Luật của Ngài, Đức Chúa truyền cho các nhà lãnh đạo và các ngôn sứ nhắc
nhở cho dân chúng nhớ lại biến cố này, để biết quay trở lại và tin vào Ngài.
1.1/ Đêm
Vượt Qua của dân tộc Do-thái: Đức
Chúa đã báo trước cho ông Moses và ông Aaron biết những gì xảy ra trong đêm ấy.
Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vào tất cả các nhà của người Ai-cập để tàn sát
tất cả các con đầu lòng của loài người cũng như loài vật; nhưng các thiên thần
sẽ không vào những nhà nào có máu bôi trên cửa, mà ông Moses đã bí mật nói cho
toàn dân phải làm khi giết con chiên Vượt Qua.
1.2/ Những
gì đã xảy ra trong đêm ấy: Sự
thật đã xảy ra như thế. Khi thấy các con đầu lòng của người Ai-cập bị tiêu diệt,
vua Pharaoh và toàn dân đã phải xin ông Moses ra lệnh cho dân Do-thái phải tức
khắc rời bỏ đất Ai-cập. Rồi khi vua Pharaoh đổi ý đuổi theo để bắt dân Do-thái
trở lại, toàn bộ chiến xa và quân đội của nhà vua đã bị nhận chìm trong Biển Đỏ.
Khi con cái Israel chứng kiến tất cả những cảnh tượng xảy ra trong đêm đó, họ
nhận ra uy quyền và tình thương của Thiên Chúa dành cho họ, và họ hát lên những
bài ca để ca tụng Thiên Chúa. Từ đó đến nay, họ vẫn giữ truyền thống cử hành trọng
thể Lễ Vượt Qua mỗi năm, bằng việc giết con chiên tinh tuyền để ăn với bánh
không men và rau đắng. Sự kiện này muốn nhắc nhở cho con cái Israel biết khi Đức
Chúa hứa điều gì, Ngài sẽ làm; cho dẫu những điều Ngài hứa vượt quá khả năng bà
sự tiên liệu của con người.
2/ Bài
đọc II: Các tổ phụ tin rằng
Đấng đã hứa là Đấng trung tín.
2.1/ Định
nghĩa đức tin: Tác giả Thư
Do-thái định nghĩa đức tin như sau: “Đức tin là điều chính yếu (hupostasis)
của những gì ta hy vọng, là sự xác tín cho những điều ta không thấy.” Chúng ta
có thể chia định nghĩa này làm hai để phân tích.
(1) Đức
tin là điều chính yếu (hupostasis) của những gì ta hy vọng: Chữ chính yếu
đây được dùng như bản thể khi nói Đức Kitô đồng bản thể với Đức Chúa Cha. Đức
tin và đức cậy đi đôi với nhau, cái gì là chính yếu của đức tin thì cũng là như
vậy của đức cậy. Đức tin là một sự thuyết phục của lý trí làm cho con người tin
tưởng Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã hứa. Sự tin tưởng này mạnh đến độ
làm cho con người cảm thấy tâm hồn được vui vẻ và bình an.
(2)
Nó là sự xác tín cho những điều ta không thấy: Đức tin chứng minh cho lý trí những
thực tại mà không thể hiểu bởi trí khôn con người. Đức tin là một sự đồng ý chắc
chắn của linh hồn về những mạc khải thần linh và những gì liên quan đến chúng.
Tuy nhiên, đức tin và lý trí không mâu thuẫn nhau, nếu một người nhận ra lý trí
con người có giới hạn của nó. Điều con người không hiểu không có nghĩa là điều ấy
không có, nhưng vì trí khôn con người yếu kém chưa hiểu được điều đó. Ví dụ, cắt
nghĩa triết học cho học sinh tiểu học.
Hơn nữa,
đức tin là một trong ba nhân đức đối thần; gọi là đối thần vì có đối tượng là
Thiên Chúa hay những sự thuộc về Thiên Chúa. Con người chỉ có thể hiểu những đối
tượng vật chất trong thế giới con người. Con người tự mình không có khả năng để
tin vào Thiên Chúa, nên họ cần được sự trợ giúp của Thiên Chúa qua mạc khải và
ơn thánh, để họ có thể tin vào Ngài.
2.2/ Hai
ví dụ về đức tin của tiền nhân: Thiên Chúa không để con người phải vật lộn với đức tin, nhưng
Ngài ban cho con người trí khôn để hiểu biết lịch sử của những người đã đặt niềm
tin vào Ngài. Tác giả Thư Do-thái dẫn chứng cho độc giả rất nhiều niềm tin của
các tổ phụ trong quá khứ; trình thuật hôm nay chỉ đề cập đến hai tổ phụ.
(1) Đức
tin của tổ phụ Abraham: Theo truyền thống của Do-thái cũng như Ả-rập, tổ phụ
Abraham là người rất nghiêng về lý trí. Truyền thống Do-thái kể: Abraham không
thể thờ lạy thần mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao, vì tất cả đều mọc lên rồi
lặn xuống theo qui luật của Đấng Tạo Dựng chúng. Truyền thống Hồi-giáo kể: Cha
của Abraham là Terah, ông không chỉ thờ 12 thần, mỗi thần cho một tháng, mà còn
có cả một xưởng để làm các thần. Ngày kia có một bà mang đồ ăn đến cúng cho các
thần. Abraham lấy một cây gậy đánh bể tất cả các thần, rồi đặt cây gậy vào tay
một thần to lớn. Khi cha ông trở về hỏi lý do tại sao các thần bị đập bể, ông
chỉ vào một thần còn sót lại và nói với cha: chính thần này vì ham ăn nên đã đập
vỡ các thần kia. Khi cha ông bảo là chuyện không thể xảy ra, ông liền nói với
cha đừng thờ và đừng bán các thần đó nữa.
Abraham
có một niềm tin vững mạnh vào Thiên Chúa đến nỗi Ngài bảo gì, ông làm như vậy.
(2) Đức
tin của tổ mẫu Sarah: Việc có con trong lúc cả Abraham và Sarah đã trên 90 tuổi
là điều không thể đối với con người. Bà đã bật cười khi bà nghe người khách hứa
với Abraham: “Độ rày sang năm, Sarah vợ ông sẽ cưu mang cho ông một con trai”
(Gen 18:12), vì bà nghĩ bà không còn rung cảm gì khi nghĩ đến chuyện chăn gối nữa,
chứ đừng nói tới việc có con. Đức Chúa sửa dạy bà: “Nào có điều kỳ diệu nào vượt
sức Đức Chúa?”
Thế
mà mọi chuyện đã xảy ra đúng như lời Đức Chúa hứa. Mùa Xuân năm sau, Đức Chúa
trở lại thăm, và ông bà đã có một người con trai. Ông Abraham được 100 tuổi khi
sinh đứa con là Isaac. Hai ông bà đặt tên cho con là Isaac, tiếng Do-thái có
nghĩa là “nụ cười.” Bà Sarah nói: “Thiên Chúa đã làm cho tôi cười; tất cả những
ai nghe biết sẽ cười tôi." Bà còn nói: "Ai dám báo trước cho ông
Abraham rằng Sarah sẽ cho con bú? Thế mà tôi đã sinh cho ông một con trai, khi
ông đã về già!" (Gen 21:6-7).
3/
Phúc Âm: "Đừng sợ, vì
Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.”
Lời hứa
ban Nước Trời cho các môn đệ đước Chúa Giêsu nhắc lại nhiều lần; vì thế, các
tín hữu không thể sống như không có Nước Trời. Họ phải sống đời này với cặp mắt
luôn hướng về đời sau. Họ không được tích trữ của cải đời này, nhưng phải biết
dùng nó cho các công cuộc bác ái, để tích trữ cho họ kho tàng không hư nát trên
trời, “một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng,
mối mọt không đục phá.” Chúa Giêsu liệt kê hai điều kiện để được chấp nhận vào
làm công dân Nước Trời.
3.1/ Phải
tỉnh thức chờ đợi ngày Chúa đến.
Làm
sao có thể tỉnh thức mà chờ đợi mọi lúc? Chúa Giêsu trả lời: Hãy luôn sống như
thể chủ đến bất cứ lúc nào. Một ví dụ cụ thể giúp chúng ta hiểu điều này là khẩu
hiệu “Sắp Sẵn” và cách huấn luyện của phong trào Hướng Đạo. Các em được huấn
luyện về mọi chuyên môn như: mưu sinh thoát hiểm, cứu thương, nấu ăn, bơi lội...
Mục đích là để các em luôn có những kiến thức và khả năng này trong mình, để
khi phải đương đầu với những nguy hiểm xảy ra, các em biết giải quyết làm sao.
Trên bước đường thiêng liêng cũng thế, các tín hữu phải tập luyện và phát triển
tất cả các nhân đức mà Kinh Thánh dạy như ba nhân đức đối thần tin, cậy, mến; bốn
nhân đức trụ khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ; cùng tất cả các nhân đức
khác; nhất là đừng mang một tội trọng nào trong người cả, khi nỡ phạm phải tìm
dịp xưng ngay.
Trình
thuật hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta ngày Chúa đến không nhất thiết là Ngày Tận
Thế, có thể là ngày cuối cùng của đời mình; vì ngày chúng ta chết có khác gì
ngày tận thế của cuộc đời chúng ta đâu.
3.2/ Phải
trung thành phục vụ trong khi chờ đợi Chúa đến.
Ông
Phêrô hỏi: "Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi
người?" Chúa Giêsu đáp: "Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn
ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo
đúng giờ đúng lúc?” Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, tất cả mọi người đều ở
trong vai trò lãnh đạo, chỉ khác là là lãnh đạo nhiều người hay ít người thôi.
Các cha mẹ lãnh đạo các con của mình, linh mục lãnh đạo giáo xứ, Đức Giáo Hoàng
lãnh đạo cả hoàn cầu. Lãnh đạo theo cách thức của Thiên Chúa là phải hy sinh và
phục vụ; chứ không phải lạm dụng quyền hành để bắt người khác phục vụ, hay để
áp đảo những người dưới quyền mình. Mọi quyền hành đến từ Thiên Chúa và họ sẽ
phải chịu trách nhiệm với Ngài.
Sau
cùng, Chúa Giêsu nói về sự thưởng phạt và trách nhiệm. Ai chu toàn bổn phận sẽ
được thưởng, ai không chu toàn sẽ bị phạt. Người đã được học biết chịu trách
nhiệm nặng hơn người không biết. Ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và
ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Không một điều gì là không thể đối với Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ giới hạn
Ngài vào sự suy nghĩ và cách thức của con người.
-
Chúng ta cần phải xác tín những gì Thiên Chúa hứa Ngài sẽ thực hiện. Nếu Ngài
đã hứa ban Nước Trời cho những kẻ tin tưởng và làm theo ý Ngài muốn, Ngài sẽ thực
hiện. Điều quan trọng là chúng ta phải luôn tỉnh thức và trung thành phục vụ
anh/chị/em.
LM. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
11/08/2019
CHÚA NHẬT TUẦN 19 TN – C
Lc 12,32-48
Lc 12,32-48
NHƯ NGƯỜI TÔI TỚ TRUNG TÍN
“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho
sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ
cửa, là mở ngay.” (Lc
12,35-36)
Suy niệm: Một
triết gia nọ nói rằng “Con người sinh ra để chết”. Chúng ta không nghĩ
như ông, vì con người sinh ra ở đời để sống, cái chết chỉ là một khoảnh khắc chấm
dứt sự sống này và chuyển tiếp sang một sự sống mới, chứ không phải là cùng
đích của kiếp người. Cái chết chắc chắn sẽ đến với từng người, nhưng lại đến
cách bất ngờ, rất bất ngờ. Trong cuộc sống, để tránh những điều bất ngờ, chúng
ta thường có sự chuẩn bị trước: binh lính tập trận, lính cứu hỏa thực tập chữa
cháy… Trong bài Tin Mừng, để giúp ta chuẩn bị trước bất ngờ của sự chết, để khi
sự chết đến, ta khỏi bất ngờ, Chúa làm như một người chủ đi vắng. Ta hãy có tư
thế sẵn sàng như người đầy tớ ban đêm đợi chủ trở về, không phải với tâm trạng
sợ sệt, nhưng tin tưởng và hy vọng. Chủ về bất cứ giờ nào cũng hài lòng vì thấy
người tôi trung đang chu toàn nhiệm vụ.
Mời Bạn: Đừng
chia cuộc sống thành những giây phút có Chúa hiện diện và Chúa đi xa. Bạn lúc
nào cũng đang sống, đang làm việc dưới cái nhìn yêu thương chăm sóc của Chúa.
Sống Lời Chúa: Dù
học hành tại trường, lao động tại xí nghiệp, buôn bán giữa chợ đời, thư giãn
nơi giải trí, nghỉ ngơi tại gia đình, hãy luôn nhớ rằng mình đang hoạt động
trong Chúa, theo tinh thần của con cái trung tín với Chúa.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa, Chúa muốn chúng con trưởng
thành như những con người tự do thật sự, vì thế, Chúa ẩn mình mặc dù vẫn hiện
diện bên chúng con. Xin cho chúng con luôn trung tín và sẵn sàng theo tinh thần
của Chúa. Amen.
(5
phút Lời Chúa)
CHỦ VỀ
Mọi quyền bính trong Hội Thánh bắt nguồn từ Ðức Kitô. Quyền bính là phương tiện để phục vụ Dân Chúa, nhưng nó có thể bị lạm dụng để phục vụ cho bản thân.
Suy niệm:
Ðức Giêsu tự ví mình như một ông chủ.
Ông chủ vắng nhà vì đi ăn cưới tới khuya.
Chắc chắn ông sẽ về, nhưng chẳng rõ vào giỡ nào.
Vì thế người đầy tớ giữ cửa phải chờ đợi.
Phúc cho đầy tớ nào còn tỉnh thức khi chủ về.
Chẳng những hạnh phúc cho anh ta, mà cho cả ông chủ.
Ông vui sướng khi thấy đầy tớ còn chờ mình,
nhạy cảm với tiếng gõ cửa đầu tiên,
mau mắn ra mở cửa, trong tay cầm đèn sáng.
Sau đó ông chủ đã làm một hành vi quá đỗi bất ngờ.
Từ địa vị ông chủ, ông đã hạ mình làm người tôi tớ.
Ông thắt lưng, mời các đầy tớ vào bàn ăn và phục vụ.
Ông chủ vắng nhà vì đi ăn cưới tới khuya.
Chắc chắn ông sẽ về, nhưng chẳng rõ vào giỡ nào.
Vì thế người đầy tớ giữ cửa phải chờ đợi.
Phúc cho đầy tớ nào còn tỉnh thức khi chủ về.
Chẳng những hạnh phúc cho anh ta, mà cho cả ông chủ.
Ông vui sướng khi thấy đầy tớ còn chờ mình,
nhạy cảm với tiếng gõ cửa đầu tiên,
mau mắn ra mở cửa, trong tay cầm đèn sáng.
Sau đó ông chủ đã làm một hành vi quá đỗi bất ngờ.
Từ địa vị ông chủ, ông đã hạ mình làm người tôi tớ.
Ông thắt lưng, mời các đầy tớ vào bàn ăn và phục vụ.
Ông chủ không cố ý về vào lúc đầy tớ đang ngủ.
Ðức Giêsu cũng không đến bất ngờ để bắt quả tang ai.
Ngài mời gọi con người kiên trì chờ đợi.
Chờ đợi là một thách đố của tình yêu.
Người biết chờ cũng là người biết yêu.
Thật ra, Chúa không đến bất ngờ.
Chúa chỉ đến bất ngờ với ai không sẵn sàng tỉnh thức.
Chúa chỉ bất ngờ khi chúng ta nghĩ rằng
Ngài không thể đến vào lúc này, trong hoàn cảnh này.
Nếu chúng ta tin Chúa vẫn đến trong mọi tình huống
thì ta sẽ gặp được những bất ngờ thú vị.
Dù Ðức Giêsu ví mình đến bất ngờ như kẻ trộm,
nhưng Ngài không phải là Ðấng thích gieo tai ương.
Trái lại, Ngài thích đem đến những niềm vui bất ngờ.
Bất ngờ hơn cả là ta thấy Chúa phục vụ mình,
sống như người hầu bàn, cúi xuống rửa chân cho môn đệ.
Chúa là ông chủ thích phục vụ hơn là được cung phụng.
Thiên Ðàng là nơi Thiên Chúa tiếp tục phục vụ nhân gian,
Ngài thết tiệc cho nhiều người từ đông sang tây tham dự.
Ðức Giêsu cũng không đến bất ngờ để bắt quả tang ai.
Ngài mời gọi con người kiên trì chờ đợi.
Chờ đợi là một thách đố của tình yêu.
Người biết chờ cũng là người biết yêu.
Thật ra, Chúa không đến bất ngờ.
Chúa chỉ đến bất ngờ với ai không sẵn sàng tỉnh thức.
Chúa chỉ bất ngờ khi chúng ta nghĩ rằng
Ngài không thể đến vào lúc này, trong hoàn cảnh này.
Nếu chúng ta tin Chúa vẫn đến trong mọi tình huống
thì ta sẽ gặp được những bất ngờ thú vị.
Dù Ðức Giêsu ví mình đến bất ngờ như kẻ trộm,
nhưng Ngài không phải là Ðấng thích gieo tai ương.
Trái lại, Ngài thích đem đến những niềm vui bất ngờ.
Bất ngờ hơn cả là ta thấy Chúa phục vụ mình,
sống như người hầu bàn, cúi xuống rửa chân cho môn đệ.
Chúa là ông chủ thích phục vụ hơn là được cung phụng.
Thiên Ðàng là nơi Thiên Chúa tiếp tục phục vụ nhân gian,
Ngài thết tiệc cho nhiều người từ đông sang tây tham dự.
Ðức Giêsu tự ví mình như một ông chủ vắng nhà.
Ông chủ này không độc đoán, nắm hết mọi quyền hành.
Ông tin vào con người và giao trách nhiệm cho họ.
Người quản gia được cử làm đại diện cho ông
để cắt đặt công việc và phân phát lương thực cho đầy tớ.
Mọi quyền bính trong Hội Thánh bắt nguồn từ Ðức Kitô.
Quyền bính là phương tiện để phục vụ Dân Chúa,
nhưng nó có thể bị lạm dụng để phục vụ cho bản thân.
Ðánh đập tôi trai tớ gái, chè chén say sưa
vì nghĩ rằng còn lâu chủ mới về:
đó vẫn là những nguy cơ rình rập các vị lãnh đạo.
"Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho mọi người?"
Một tông đồ như Phêrô cũng có thể bị phạt.
Tông đồ là người đã biết ý chủ
nên sẽ bị đòn nhiều hơn nếu không làm theo ý đó.
Ông chủ này không độc đoán, nắm hết mọi quyền hành.
Ông tin vào con người và giao trách nhiệm cho họ.
Người quản gia được cử làm đại diện cho ông
để cắt đặt công việc và phân phát lương thực cho đầy tớ.
Mọi quyền bính trong Hội Thánh bắt nguồn từ Ðức Kitô.
Quyền bính là phương tiện để phục vụ Dân Chúa,
nhưng nó có thể bị lạm dụng để phục vụ cho bản thân.
Ðánh đập tôi trai tớ gái, chè chén say sưa
vì nghĩ rằng còn lâu chủ mới về:
đó vẫn là những nguy cơ rình rập các vị lãnh đạo.
"Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho mọi người?"
Một tông đồ như Phêrô cũng có thể bị phạt.
Tông đồ là người đã biết ý chủ
nên sẽ bị đòn nhiều hơn nếu không làm theo ý đó.
Vừa hiền lành bao dung, vừa đòi hỏi nghiêm túc.
Vừa đòi đầy tớ phải phục vụ, vừa phục vụ như đầy tớ.
Có bao nét tương phản nơi khuôn mặt ông chủ Giêsu!
Chúng ta có phải là đầy tớ trung tín và khôn ngoan không?
Vừa đòi đầy tớ phải phục vụ, vừa phục vụ như đầy tớ.
Có bao nét tương phản nơi khuôn mặt ông chủ Giêsu!
Chúng ta có phải là đầy tớ trung tín và khôn ngoan không?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin ban cho chúng con những linh mục
có trái tim thuộc trọn về Chúa,
nên cũng thuộc trọn về con người.
xin ban cho chúng con những linh mục
có trái tim thuộc trọn về Chúa,
nên cũng thuộc trọn về con người.
Xin cho chúng con những linh mục
có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng,
một trái tim đủ lớn
để chứa được mọi người và từng người,
nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng,
một trái tim đủ lớn
để chứa được mọi người và từng người,
nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện,
có tình bạn thân thiết với Chúa
để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
có tình bạn thân thiết với Chúa
để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện,
có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho.
tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.
có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho.
tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.
Cuối cùng, xin cho chúng
con những linh mục
có trái tim của Chúa,
say mê Thiên Chúa và say mê con người,
hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên
và dẫn đưa chúng con
đến với Chúa là Nguồn Sống thật.
có trái tim của Chúa,
say mê Thiên Chúa và say mê con người,
hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên
và dẫn đưa chúng con
đến với Chúa là Nguồn Sống thật.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG TÁM
Thiên Chúa Đã
Yêu Thế Giới Đến Nỗi …
“Thế giới ở đây
là thế giới của con người, thế giới ấy, người Kitôhữu tin là đã được tình yêu của
Đấng Tạo Hóa tác thành và bảo trì. Thế giới ấy, đã rơi vào ách nô lệ tội lỗi,
nhưng, nhờ Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại mà bẻ gãy uy quyền của Thần Dữ,
đã được giải thoát để thay hình đổi dạng theo dự định của Thiên Chúa mà tiến tới
sự viên mãn” (MV 2).
Định nghĩa ấy gồm
tóm toàn bộ giáo thuyết về sự quan phòng, hiểu như kế hoạch vĩnh cửu của Thiên
Chúa trong công trình sáng tạo, hoặc hiểu như sự hoàn thành chung cục của vũ trụ.
Điều này đặc biệt đúng đối với thế giới con người theo như “được tiền định
trong Đức Kitô”, Đấng là trung tâm và là nguồn gốc của mọi sự.
Bằng cách này,
Vatican II làm cho sắc bén giáo huấn tín lý của Công Đồng Vatican I: “Thiên Chúa
gìn giữ và điều khiển mọi loài Ngài đã dựng nên với sự quan phòng của Ngài, từ
chân trời này tới chân trời kia (Kn 8,1). ‘Tất cả đều trần trụi và phơi bày trước
mặt Ngài’ (Dt 4,13), ngay cả những gì xảy ra thông qua sáng kiến tự do của tạo
vật” (Dei Filius, DS 3003).
Ngay từ đầu, Hiến
Chế Vui Mừng và Hy Vọng tập chú đến một vấn đề vừa liên quan với chủ đề của
chúng ta ở đây vừa bức thiết với con người hiện đại: Bằng cách nào sự phát triển
của Nuớc Thiên Chúa và sự phát triển của thế giới có thể hòa điệu với nhau?
- suy tư 366
ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR
HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
11 – 8
Chúa
Nhật XIX Thường niên
Kn
18,6-9; Dt 11,1-2.8-19; Lc 12,32-48.
Lời
suy niệm: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh
em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.”
Sống
trong một xã hội mà con người đang cố tranh giành nhau của cải vật chất và quyền
lực về cho mình. Thì Chúa Giêsu lại đang nhìn con cái Người như những đoàn
chiên bé nhỏ, Người mong muốn con cái Người hoàn toàn tin tưởng vào sự chăn dắt,
chăm sóc, gìn giữ và bảo vệ của chính Người, không phải lo sợ đói khát hay bị bỏ
rơi: “Đừng sợ”. Vì chính Chúa Cha đã vui lòng ban Nước của Ngài cho tất cả những
ai tin tưởng vào Con Một của Ngài.
Lạy
Chúa Giêsu. Xin cho mỗi thành viên trong gia đình chúng con luôn luôn là những
con chiên bé nhỏ của Chúa và chỉ biết trông cậy vào một mình Chúa mà thôi.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
11-08
Thánh
CLARA
Đồng
Trinh (1193 - 1253)
Thánh
Clara sinh năm 1193 tại Assisi miền Umbria. Thuộc dòng họ danh gái Offreducciô.
Người ta nói thánh nữ sinh ra với nụ cười trên môi và không bao giờ thấy Ngài
khóc. Ngài dành nước mắt để tưới chân Chúa Giêsu chịu đóng dinh. Nghe biết một
thanh niên giàu có đã trở nên người nghèo thành Assisi, người thiếu nữ danh giá
cảm kích trước mẫu gương của thánh nhân. Trong khi gia đình nhắm cưới gả cho
nàng, thì nàng chỉ nhắm đến cuộc sống sám hối khiêm hạ. Sau khi nghe bài giảng
của thánh nhân, Ngài đã đi tới quyết định.
Khi ấy
thánh Clara 18 tuổi. Vào ngày Lễ Lá, 18 tháng 3 năm 1212, thánh nữ ăn mặc sang
trọng tới nhà thờ chính tòa dự lễ. Theo thói quen, các bà tiến lên nhận lá từ
tay Đức giám mục. Hôm ấy Clara quá xúc động, khiến chính đức giám mục phải rồi
ghế đưa lá đến cho Ngài. Chiều về, Ngài đã cùng với một người bạn lén bỏ nhà
theo lối cửa hậu rồi theo ánh đuốc tới gặp thánh Phanxicô tại Porsiuncola...
Giai
thoại thật cảm động, một cô gái 18 sang trọng đã bỏ tất cả những gì là quen thuộc
và an toàn để đi theo Đấng vô hình, còn Phaxicô 30 tuổi không có lấy một xu
dính túi đã nhận lấy trách nhiệm về cả tinh thần lẫn vật chất đối với cô. Giữa
đêm xuân trong rừng cây và dưới ánh đuốc của đoàn anh em. Clara buông xõa mái
tóc huyền trên bàn thờ cho Phanxicô cắt bỏ. Hành động hoàn toàn ngoại lệ và
không với một chút quyền hạn theo giáo luật. Phanxicô đã lãnh bản ly dị của
Clara đối với thế gian, rồi gởi đi vào một nữ tu viện Benedicto gần đó.
Biến
cố nổ lớn làm cả thành phố xúc động. Thế gian kết án Clara. Ong Monaldo, cậu
thánh nữ đến nhà dòng bắt thánh nữ về, nhưng Ngài ôm cứng chân bàn thờ quyết chọn
Chúa mà thôi. Phanxicô dẫn thánh nữ tới một nữ tu tu viện Bênêdictô khác, cùng
với em của mình là Anê. Sau cùng Phanxicô thiết lập cho Clara và cộng đoàn đã tăng
số một tu viện tại San Damianô, nơi đây bà Ortolanta, mẹ của thánh nữ cũng nhập
dòng. Trong một thời gian cộng đoàn độc lập như những người hành khất đầu tiên.
Phanxicô viết cho cộng đoàn một bản luật sống vắn gọn, đòi kỷ luật gắt gao và
chay tịnh khắc khổ.
Dầu vậy,
Clara con người đi xa hơn cả ước muốn của thánh Phanxicô. Năm 1215 Phanxicô đặt
Clara làm tu viện trưởng và có lẽ đã trao cho Ngài một bản luật dòng thánh
Bênêdictô. Nhưng một mục chương nói rằng sự đơn sơ và nhiệt tình của chị em khiến
cộng đoàn tăng số rất nhanh.
Vào
những năm cuối đời thánh Phanxicô, mọi liên hệ với San Đômianô bị gián đoạn.
Câu chuyện hay về bữa ăn tối với Clara không được chính xác lắm. Nhưng cơn đau
cuối cùng Phanxicô đã được Clara cho trú ngụ trong một mái chòi bằng lá cây ở cổng
tu viện Damianô, nơi Phaxicô trước tác bài ca mặt trời. Ngài ban phép lành cuối
cho Clara rồi về Porziuncola và qua đời tại đó. Ngài cũng xin anh em đưa xác về
Assisi qua ngã San Đamianô. Thánh Clara và chị em tiếp rước và có dịp chiêm ngưỡng
các vết thương ở tay và chân Ngài.
Clara
thực hiện đúng lý tưởng của người nghèo thành Assisi. Đức Innôcentê III đã đích
thân ban phép cho Ngài được giữ đức nghèo khó tuyệt đối. Nhưng Đức Grêgôriô IX
nguyên là hồng y Ugôlinô đã muốn cải sửa luật cho phép nhà dòng có đất đai nhà
cửa. Clara cưỡng lại và năm 1228 đã được hưởng đặc ân như sở nguyện. Ngài đã
thưa với Đức Grêgôriô: - Thưa Đức Cha, xin tha tội cho chúng con, nhưng đừng
tha cho con khỏi theo lời Chúa.
Năm
1247, một lần nữa đức Innocentê IV kiểm soát lại luật thánh Phanxicô, muốn sống
đời khó nghèo truyệt đối. Luật này được Đức Innocente chấp thuận vội vã, hai
ngày trước khi thánh nữ qua đời. Năm 1893 người ta tìm thấy sắc chỉ nguyên thủy
trong mộ thánh nữ.
Cuộc
sống còn được ghi nhớ bởi cuộc tàn phá năm 1241 của vua Frêdêrico II, nhờ lời cầu
nguyện đắc lực của Ngài. Trong cơn bệnh của Ngài, Đức hồng y Rainalđô, tức là đức
giáo hoàng Alexandrô sau này, đã đến trao mình Chúa và khuyyên nhủ thánh nữ,
thánh nữ trả lời: - Từ khi nếm thử chén đắng và cuộc tử nạn của Chúa, con thấy
không còn gì làm con đau đớn nữa.
Sau
khi chúc lành cho các nữ tu đến thăm, Ngài nói với mình: - Hãy an tâm, ngươi đã
theo đúng đường, cứ tin tưởng vì Chúa tạo thành đã thánh hiến và không ngừng
gìn giữ ngươi, đã yêu ngươi với tình mẹ thương con, ôi lạy Chúa xin chúc tụng
Chúa vì đã dựng nên con.
Thánh
nữ qua đời ngày 11 tháng năm 1253 và năm 1255 được tôn phong hiển thánh.
(daminhvn.net)
11
Tháng Tám
Cô Bạn Của Thánh Phanxicô Assisi
Một
trong những cuốn phim có giá trị diễn tả về cuộc đời của thánh Phanxicô thành
Assisi mới được thực hiện cách đây vài năm đa thi vị hóa vai trò của Clara, vị
thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay. Ðạo diễn của cuốn phim đã giới thiệu Clara
qua hình ảnh một nữ tài tử trẻ đẹp với mái tóc vàng óng ả, thích tung tăng chạy
nhảy giữa cánh đồng hoa hướng dương chạy dài mút mắt.
Trong
thực tế, quãng đời thanh xuân của Clara đã cống hiến nhiều chi tiết có thể được
sử dụng làm chất liệu để quay phim. Vào tuổi trăng tròn 15, Clara đã từ chối kết
hôn vì tâm hồn của nàng bị xúc động mãnh liệt qua lời rao giảng có chiều sâu của
Phanxicô. Từ đó cho đến lúc Clara trút hơi thở cuối cùng, Phanxicô là một người
bạn tinh thần, một cha linh hướng của nàng.
Lúc
lên 18 tuổi, Clara thoát ly gia đình và trong một buổi lễ đơn sơ cử hành vào
đêm, nàng đã cởi bỏ những xiêm y đắt tiền để mặc lấy một chiếc áo dòng bằng vải
thô, đã thay chiếc dây nịt quý giá bằng một sợi dây thắt lưng đơn sơ và đã để
cho Phanxicô cắt mái tóc óng ả của mình tượng trưng cho tinh thần từ bỏ.
Khi
một số thiếu nữ khác cùng một chí hướng, kể cả Agnes, em gái của Clara, theo
chân nàng vào tu viện, họ đã bắt đầu một cuộc sống nghèo nàn, khổ hạnh và ẩn dật,
cắt đứt mọi giao tiếp với thế giới bên ngoài. Họ đi chân không, ngủ trên nền
nhà, không ăn thịt và giữ thinh lặng hầu như hoàn toàn. Ðó là những dấu hiệu
bên ngoài biểu lộ ý hướng bên trong của họ muốn sống khó nghèo theo tinh thần
Phúc Âm như Ðức Giêsu đã dạy.
Ðế sống
cuộc đời từ bỏ, các nữ tu dòng thánh Clara khước từ quyền sở hữu của bất cứ của
cải nào, kể cả với tính cách là của chung.
Nhu cầu
lương thực hằng ngày được giải quyết bằng của bố thí. Khi Ðức Thánh Cha khuyên
họ giảm bớt cách thực hành sống nghèo cách tuyệt đối như vậy, Clara đã khẳng
khái trả lời: "Thưa Ðức Thánh Cha, chúng con cần cha tha tội, chứ chúng
con không mong ước cha tha chúng con khỏi những bổn phận phải giữ để trung tín
dõi theo chân Chúa Giêsu".
Trong
bốn bức tường tu viện tại San Ðamianô gần Assisi, Clara ân cần chăm sóc các bệnh
nhân, khiêm nhượng hầu bàn và rửa chân cho các nữ tu sau khi họ đi cầu thực trở
về và dành nhiều thời giờ để tâm hồn chìm sâu trong kinh nguyện. Các nữ tu đồng
thời thuật lại rằng: Khi Clara cầu nguyện xong, mặt chị chiếu sáng làm chói mắt
mọi người.
Trong
27 năm cuối đời, Clara bị đau ốm luôn, nhưng chị đã thu hút được nhiều Giám Mục,
Hồng Y, kể cả các giáo chủ đến để tham khảo ý kiến của chị.
(Lẽ
Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét