21/08/2019
Thứ Tư tuần 20 thường
niên
Thánh Piô 10, giáo
hoàng.
Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh năm 1835 tại Ri-ê-sê, nước Ý. Sau khi làm linh mục, người
dấn thân thi hành việc mục vụ. Người làm giám mục Man-tô-va, rồi làm thượng phụ
giáo chủ Vê-nê-xi-a và cuối cùng, năm 1903, được chọn làm giáo hoàng. Người chu
toàn bổn phận của mình theo khẩu hiệu người đã chọn: “Canh tân mọi sự trong
Chúa Kitô” với lòng đơn sơ, đời
sống thanh bần và can đảm. Cùng với những đức tính ấy, người đã giúp các tín hữu
sống đạo nhiệt thành và đối phó với những sai lầm đang lan tràn trong Hội
Thánh. Người qua đời ngày 20 tháng 08 năm 1914.
BÀI ĐỌC I: Tl 9, 6-15
“Đang khi Chúa ngự trị giữa
chúng tôi, các ngươi đã nói: ‘Xin cho một vua cai trị chúng tôi'”.
Trích sách Thủ
Lãnh.
Khi ấy, mọi người Sikem và tất cả các gia tộc thành Mêllô tụ họp lại, rồi
kéo nhau đến gần cây sồi ở Sikem, và tôn Abimêlech lên làm vua.
Khi ông Giotham nghe tin ấy, liền đi lên đứng trên đỉnh núi Garizim, lớn
tiếng kêu lên rằng: “Hỡi người Sikem, hãy nghe ta, để Thiên Chúa cũng nghe các
ngươi. Các cây cối đều đến xức dầu phong một vị vua cai trị chúng, và nói cùng
cây ôliu rằng: ‘Hãy đi cai trị chúng tôi’. Cây ôliu đáp lại rằng: ‘Chớ thì ta
có thể bỏ việc sản xuất dầu mà các thần minh và loài người quen dùng, để được
lên chức cai trị cây cối sao?’ Các cây cối nói cùng cây vả rằng: ‘Hãy đến cầm
quyền cai trị chúng tôi’. Cây vả trả lời rằng: ‘Chớ thì ta có thể bỏ sự ngọt
ngào của ta, bỏ hoa trái ngon lành của ta, để được lên chức cai trị các cây cối
khác sao?’ Các cây cối nói với cây nho rằng: ‘Hãy đến cai trị chúng tôi’. Cây
nho đáp rằng: ‘Chớ thì ta có thể bỏ việc cung cấp rượu, là thứ làm cho Thiên
Chúa và loài người được vui mừng, để được lên chức cai trị các cây cối khác
sao?’ Tất cả những cây cối nói với bụi gai rằng: ‘Hãy đến cai trị chúng tôi’. Bụi
gai trả lời rằng: ‘Nếu các ngươi thật lòng đặt ta làm vua các ngươi, thì các
ngươi hãy đến nghỉ dưới bóng ta. Nhưng nếu các ngươi không muốn thì sẽ có lửa từ
bụi gai phát ra thiêu huỷ các cây hương nam núi Liban'”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 20, 2-3.
4-5. 6-7
Đáp: Lạy Chúa, do
quyền năng Chúa mà vua vui mừng (c. 2a).
Xướng:
1) Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng; do ơn Chúa phù trợ, vua
xiết bao hân hoan! Chúa đã ban cho sự lòng vua ao ước, và điều môi miệng vua
xin, Chúa chẳng chối từ.- Đáp.
2) Chúa đã tiên liệu cho vua được phước lộc may mắn, đã đội triều thiên
vàng ròng trên đầu vua. Nhờ Chúa giúp mà vua được vinh quang cao cả, Chúa khoác
lên người vua, oai nghiêm với huy hoàng. – Đáp.
3) Vua xin Chúa cho sống lâu, thì Chúa đã ban cho một chuỗi ngày dài tới
muôn muôn thuở. Chúa đã khiến vua nên mục tiêu chúc phúc tới muôn đời, Chúa đã
cho vua được hân hoan mừng rỡ trước thiên nhan. – Đáp.
ALLELUIA: Tv 118, 135
Alleluia, alleluia!
– Xin Chúa tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những
thánh chỉ của Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 20, 1-16a
“Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi
nhân lành chăng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: “Nước Trời giống
như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với
những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của
ông.
“Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài
chợ, ông bảo họ rằng: ‘Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công
cho các ngươi xứng đáng’. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng
trở ra và làm như vậy.
“Đến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo
họ rằng: ‘Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?’ Họ thưa rằng:
‘Vì không có ai thuê chúng tôi’. Ông bảo họ rằng: ‘Các ngươi cũng hãy đi làm vườn
nho ta’.
“Đến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: ‘Hãy gọi những kẻ làm
thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết’. Vậy
những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những
người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi
người một đồng. Đang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: ‘Những người
đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà
ông kể họ bằng chúng tôi sao?’ Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng:
‘Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với
tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau
hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh
tị, vì tôi nhân lành chăng?’
“Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết”.
Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Lòng Quảng Ðại
Của Thiên Chúa
Dụ ngôn Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài cho dân chúng được
các nhà chú giải xếp thành hai loại: tỷ dụ và dụ ngôn. Loại tỷ dụ là thể văn mà
toàn bộ những chi tiết đều mang ý nghĩa nòng cốt, còn các chi tiết phụ chỉ làm
cho câu truyện thêm thú vị và khiến người đọc quan tâm chú ý đến ý chính mà
thôi.
Câu truyện về những người thợ vào làm vườn nho của chủ là một dụ
ngôn. Chủ đề chính của dụ ngôn là mối liên hệ của con người với
Thiên Chúa trên bình diện ân sủng.
Trong lúc các Rabbi Do thái thường tính toán phần thưởng Thiên Chúa ban
cho mọi việc lành, thì cách tính toán sòng phẳng theo công bình giao hoán này
hoàn toàn bị dụ ngôn làm đảo lộn, vì nếu chúng ta tính với Chúa, Ngài sẽ tính với
chúng ta, và chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc và chúng ta sẽ
là kẻ thiệt thòi.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để cảnh cáo người Do thái không nên so đo,
phân bì với người tội lỗi hay người ngoại giáo được ơn Chúa trở lại và thừa hưởng
Nước Trời, bởi vì Nước Trời là phần thưởng nhưng không do lòng quảng đại của
Chúa, chứ không do lòng đạo đức hay công nghiệp của con người. Câu trả lời của
Chúa Giêsu cho những kẻ phàn nàn kêu trách nêu bật lòng quảng đại của Thiên
Chúa: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với
tôi một quan sao; cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người
vào làm sau chót này cũng được bằng bạn, tôi không có quyền được tùy ý sử dụng
của cải tôi sao?". Thiên Chúa đối xử tốt với mọi người, Ngài ban ơn cho mọi
người chỉ vì lòng thương của Ngài mà thôi. Còn con người thì dễ bị cám dỗ, ghen
tỵ, hẹp hòi, muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy xét xem mình đã có thái độ nào đối với người khác, nhất là
khi thấy họ được sự lành? Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tính ghen tỵ và cho
chúng ta sống quảng đại với mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 20 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Judg 9:6-15; Mt 20:1-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự khác biệt giữa Vua Trời và vua chúa trần gian
Vua chúa trần gian trước khi được lên ngôi hứa hẹn rất nhiều với dân
chúng, nhưng một khi đã lên ngôi rồi, họ quên hết những gì đã hứa với dân
chúng, hay nếu có thi hành, cũng chẳng được bao nhiêu. Trái lại, Thiên Chúa
trung thành giữ tất cả những gì Ngài hứa với con người, cho dẫu con người không
trung thành với những gì họ hứa. Hơn nữa, Ngài luôn tìm cách để giúp đỡ những
người nghèo khó, tội lỗi, hay yếu kém hơn.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa Thiên Chúa và các
nhà lãnh đạo trần thế. Trong Bài Đọc I, Abimelech trở về quê hương để vận động
những người đồng hương tôn mình lên làm vua, vì ông biết họ có khuynh hướng chọn
những người đồng hương để có thể nhờ vả sau này. Một khi đã được làm vua,
Abimelech quên hết ân nghĩa và thẳng tay trừng trị những người đã tôn ông lên
làm vua. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu ví Nước Trời như một gia chủ mướn thợ vào
làm vườn nho của mình. Ông thỏa thuận với thợ lương công nhật là một đồng một
ngày. Sau đó, ông trở ra và kêu gọi nhiều thợ nữa vào làm vườn nho với những giờ
khác nhau. Chiều đến, khi trả công, các người làm việc sớm than trách vì ông trả
những người đến làm sau bằng họ. Gia chủ tuyên bố ông đã công bằng trả cho họ
những gì ông và họ đã thỏa thuận; họ không có quyền ngăn cản ông thương xót và
rộng lượng cho những người làm việc sau.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy nghe tôi đây, thì Thiên Chúa
cũng sẽ nghe các người.
1.1/
Lý do dân chúng Shechem tôn Abimelech lên làm vua: Abimelech là con của Thủ Lãnh
Gideon với một nàng hầu mà chúng ta đã đọc ngày hôm qua. Gideon có nhiều vợ nên
có rất nhiều con, tất cả hơn 70 người. Mẹ của Abimelech sinh ra ở Shechem. Đó
là lý do Abimelech trở về quê hương để thuyết phục những người đồng hương tôn
ông nên làm vua, với những lời lẽ như sau: “Xin bà con hỏi các thân hào Shechem
xem điều nào tốt cho các vị: để cho 70 người, tức là tất cả các con ông Gideon
(Jerubbaal) cai trị các vị; hay để một người cai trị các vị mà thôi? Xin các vị
nhớ cho tôi là anh em ruột thịt của quí vị.”
Abimelech rất khôn lanh vì biết dân chúng sẽ vì tình đồng hương mà tôn
ông nên làm vua với hy vọng sẽ được hưởng những lợi nhuận sau này. Bấy giờ tất
cả thân hào Shechem cùng toàn dân Bethmillo họp lại, kéo đến tôn Abimelech lên
làm vua, bên cạnh cây sồi trước bia đá ở Shechem. Abimelech dùng tiền thâu được
của đồng hương Shechem, thuê du đãng đi giết các anh em cùng cha của mình tại
Ophrah, tất cả là 70 người trên cùng một tảng đá; chỉ có Jotham là người con út
của Gideon thoát khỏi.
1.2/
Ông Jotham vạch trần nguy hiểm của việc tấn phong này: Khi người ta báo tin ấy cho ông
Jotham, ông liền lên đứng trên đỉnh núi Gerizim, cất tiếng gọi và nói với những
người kia rằng: “Hỡi các thân hào Shechem! Hãy nghe tôi đây, thì Thiên Chúa
cũng sẽ nghe các người.” Sau đó, ông kể cho họ nghe một dụ ngôn về các cây cối
đã lên đường đi xức dầu phong một vua cai trị chúng. Dụ ngôn được dùng để chỉ
nói lên một điều quan trọng mà thôi. Trong dụ ngôn này, Jotham muốn ám chỉ vị
vua đó chính là Abimelech, và cây cối chính là dân chúng ở Shechem. Abimelech
được ví như một “bụi gai,” có nghĩa là một người không xứng đáng và không tài đức,
chỉ được tôn làm vua sau khi cây cối đã bị tất cả các cây khác từ chối lời mời
làm vua. Jotham báo trước tai hại mà người Shechem sẽ phải lãnh nhận từ
Abimelech, khi bụi gai nói với các cây cối: “Nếu quả thật các ngươi xức dầu
phong ta làm vua cai trị các ngươi, thì hãy tới nương náu dưới bóng ta; bằng
không, lửa sẽ bốc ra từ bụi gai và sẽ thiêu rụi các cây bá hương Lebanon!” Sau
khi Abimelech lên làm vua, ông đã thẳng tay trừng trị dân thành Shechem và họ
cũng toa rập với nhau để chống lại ông.
2/ Phúc Âm: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với
bạn.
2.1/
Dụ ngôn các thợ làm vườn nho: Chúa Giêsu nói: “Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã
ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.”
(1) Lương công nhật là một đồng: Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi
ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc.
(2) Thợ vào làm những giờ khác nhau: Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra,
thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các
anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.” Họ liền
đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy.
(3) Lý do tại sao vào làm trễ: Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy
còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đây suốt
ngày không làm gì hết?” Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi.” Ông bảo họ: “Cả
các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!” Những người này chỉ làm có một tiếng đồng hồ
mà thôi.
2.2/
Cách trả lương của gia chủ: Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả
công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm
trước nhất.” Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được
mỗi người một quan tiền.
(1) Phản ứng của các thợ làm trước nhất: Khi đến lượt những người vào làm
trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi
người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này
chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người
đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.”
(2) Phản ứng của gia chủ: Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ:
“Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một
quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào
làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định
đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”
(3) Áp dụng của dụ ngôn: Nhiều nhà chú giải đã áp dụng dụ ngôn này cho:
+ Người Do-thái và Dân Ngoại: Mặc dù người Do-thái được Thiên Chúa chọn
trước, nhưng ơn cứu độ được phân phối đồng đều cho cả người Do-thái lẫn Dân Ngoại.
+ Người đạo gốc và tân tòng: Người đạo gốc, cho dù đã theo Chúa lâu năm,
cũng được Chúa thưởng đồng đều như người tân tòng mới trở lại đạo, dù chỉ một
ngày.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Thiên Chúa luôn trung thành với những gì Ngài hứa. Chúng ta hãy đặt trọn
vẹn niềm tin tưởng nơi Ngài. Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế chẳng cứu nổi ai
như Abimelech.
– Chúng ta đừng áp dụng tiêu chuẩn trần gian cho Chúa. Hãy để Chúa là
Thiên Chúa khi Ngài rộng lượng thi ân cho tất cả mọi người.
– Thiên Chúa luôn công bằng, nhưng cũng rất nhân từ và khoan dung. Chúng
ta trông cậy vào lòng nhân từ của Thiên Chúa hơn là đòi hỏi Ngài phải công bằng.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
21/08/19 – THỨ TƯ TUẦN 20 TN
Th. Piô X, giáo hoàng
Mt 20,1-16a
CÔNG BẰNG KIỂU THIÊN CHÚA
“Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì
là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt
20,15)
Suy niệm: Những thợ làm vườn đến trước
khó chịu với ông chủ, cho rằng ông không công bằng khi trả lương cho người đến
sau cũng bằng với lương của mình. Nếu hiểu công bằng là trả lại cho người khác
điều họ đáng được nhận, thì ông chủ không hề xử bất công, vì ông đã trả cho họ
một quan tiền, lương một ngày công vào thời đó. Cách hành xử rộng lượng với những
thợ đến sau, thậm chí với thợ của “giờ thứ mười một,” ông chủ vườn nho – hình ảnh
của Thiên Chúa – cho thấy ông hoàn toàn tự do thực thi sự công chính của mình
vượt lên trên cách tính toán thông thường của con người, mà là tính toán theo
cung cách của Thiên Chúa: công bằng theo kiểu Thiên Chúa có nghĩa là mọi người
đều được hưởng dư tràn ơn phước, được bình đẳng với nhau trên Nước Trời. Qua
cung cách phi thường ấy, Thiên Chúa thể hiện tình yêu thương với mọi người.
Mời Bạn: Muốn hiểu được Chúa, con
người cần phải xác tín Ngài là Đấng có quyền năng trong mọi sự, nhưng cũng là Đấng
đầy tình yêu thương. Là con cái Chúa chúng ta cũng cư xử quảng đại với nhau,
không vì bị ép buộc, cũng không chiều theo cảm tính theo kiểu thế gian, nhưng
nhắm tới lợi ích tối hậu của họ trên Nước Trời.
Sống Lời Chúa: Tôi tập cư xử “cách tốt bụng”
với anh chị em, đừng đặt nặng vấn đề lợi lộc, trả ơn…
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cảm tạ
Chúa đã yêu thương cho con được có mặt trên đời, và tiếp tục gìn giữ con qua sự
quan phòng yêu thương của Chúa. Xin ban cho con một tâm hồn bao dung để con sống
quảng đại với mọi người. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Vì tôi tốt bụng (21.8.2019 – Thứ
tư Tuần 20 Thường niên)
Suy niệm
Sau khi anh thanh niên giàu có từ chối lời mời của Đức Giê-su,
ông Phêrô đã đại diện anh em hỏi Thầy:
“Chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì ?”
Thầy Giêsu đã đáp lại bằng một câu trả lời khá dài.
Họ sẽ được xét xử các chi tộc Ít raen, được gấp trăm về mọi sự,
và nhất là được hưởng sự sống đời đời (Mt 19, 27-30).
Như thế ở đây Nước Trời được coi như một phần thưởng,
một sự trả công Chúa dành cho những ai dám từ bỏ hy sinh.
Các môn đệ cho đi, và rồi họ sẽ được lại.
ông Phêrô đã đại diện anh em hỏi Thầy:
“Chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì ?”
Thầy Giêsu đã đáp lại bằng một câu trả lời khá dài.
Họ sẽ được xét xử các chi tộc Ít raen, được gấp trăm về mọi sự,
và nhất là được hưởng sự sống đời đời (Mt 19, 27-30).
Như thế ở đây Nước Trời được coi như một phần thưởng,
một sự trả công Chúa dành cho những ai dám từ bỏ hy sinh.
Các môn đệ cho đi, và rồi họ sẽ được lại.
Bài Tin Mừng hôm nay nằm ngay sau câu chuyện trên.
Dưới một góc độ nào đó thì cả hai có nội dung rất khác nhau,
nhưng bổ túc cho nhau, để ta có một cái nhìn quân bình về Thiên Chúa.
Thiên Chúa không phải chỉ là Đấng công bằng,
thưởng công cho những gì chúng ta đã vất vả cố gắng.
Người còn là Đấng quảng đại, tốt lành và giàu lòng xót thương.
Dụ ngôn về “người thợ giờ thứ mười một” cho thấy điều đó.
Thật ra phải gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về “Ong chủ độ lượng”.
Dưới một góc độ nào đó thì cả hai có nội dung rất khác nhau,
nhưng bổ túc cho nhau, để ta có một cái nhìn quân bình về Thiên Chúa.
Thiên Chúa không phải chỉ là Đấng công bằng,
thưởng công cho những gì chúng ta đã vất vả cố gắng.
Người còn là Đấng quảng đại, tốt lành và giàu lòng xót thương.
Dụ ngôn về “người thợ giờ thứ mười một” cho thấy điều đó.
Thật ra phải gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về “Ong chủ độ lượng”.
Trong thế giới thời Đức Gíê-su, người ta mướn thợ buổi sáng
và trả công cho thợ buổi chiều theo lề luật (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15).
Lương công nhật là một quan tiền (denarius),
tiền này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản.
Dụ ngôn hôm nay có nhiều nét khác thường mà không có lời giải thích.
Ong chủ vườn nho tự mình ra chợ mướn người, thay vì viên quản lý.
Những người thợ đứng suốt ngày ngoài chợ (c.6)
lại không được ông chủ thấy và mướn từ đầu, dù ông ra chợ nhiều lần.
Chỉ nhóm thợ đầu tiên mới được thuê với tiền công rõ ràng,
còn ba nhóm sau chỉ được hứa sẽ trả “hợp lẽ công bằng” (c.4).
Cuối cùng ba nhóm giữa bị bỏ rơi, để chỉ tập trung vào nhóm đầu và cuối.
Dụ ngôn này trở nên hết sức khác thường
với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước.
Những người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều)
cả ngày làm có một tiếng, được trả một quan tiền.
Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã làm từ sáng sớm,
“đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại bị nắng nôi thiêu đốt” (c.12).
Nhưng rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền.
Chúng ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ
để xem họ sẽ sửng sốt, thất vọng, buồn bực, tức giận và cằn nhằn ra sao.
Có lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện như vậy.
Phản ứng này cũng là phản ứng giận dữ của người anh cả
khi biết cha mình đã tiếp đón linh đình sự trở về của đứa con hư hỏng.
Đối với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất công.
Bất công nằm ở chỗ làm nhiều. làm ít, nhận lương như nhau.
Nhưng ông chủ không cho đây là một sự bất công,
vì ông đã trả cho nhóm thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.
và trả công cho thợ buổi chiều theo lề luật (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15).
Lương công nhật là một quan tiền (denarius),
tiền này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản.
Dụ ngôn hôm nay có nhiều nét khác thường mà không có lời giải thích.
Ong chủ vườn nho tự mình ra chợ mướn người, thay vì viên quản lý.
Những người thợ đứng suốt ngày ngoài chợ (c.6)
lại không được ông chủ thấy và mướn từ đầu, dù ông ra chợ nhiều lần.
Chỉ nhóm thợ đầu tiên mới được thuê với tiền công rõ ràng,
còn ba nhóm sau chỉ được hứa sẽ trả “hợp lẽ công bằng” (c.4).
Cuối cùng ba nhóm giữa bị bỏ rơi, để chỉ tập trung vào nhóm đầu và cuối.
Dụ ngôn này trở nên hết sức khác thường
với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước.
Những người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều)
cả ngày làm có một tiếng, được trả một quan tiền.
Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã làm từ sáng sớm,
“đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại bị nắng nôi thiêu đốt” (c.12).
Nhưng rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền.
Chúng ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ
để xem họ sẽ sửng sốt, thất vọng, buồn bực, tức giận và cằn nhằn ra sao.
Có lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện như vậy.
Phản ứng này cũng là phản ứng giận dữ của người anh cả
khi biết cha mình đã tiếp đón linh đình sự trở về của đứa con hư hỏng.
Đối với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất công.
Bất công nằm ở chỗ làm nhiều. làm ít, nhận lương như nhau.
Nhưng ông chủ không cho đây là một sự bất công,
vì ông đã trả cho nhóm thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.
Những câu cuối của dụ ngôn là những câu đẹp nhất,
những câu nói lên bản chất sâu xa của tấm lòng Thiên Chúa.
“Tôi muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c. 14).
Tôi muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh, tôi muốn họ bằng anh :
đó là ước muốn, là chọn lựa của Thiên Chúa.
Tình thương của Người phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối,
người làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít.
“Chẳng lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn
với tài sản của tôi sao?” (c. 15).
Thiên Chúa giàu sang nên có quyền rộng rãi thi ân cho kẻ Người muốn.
Chẳng ai có thể bắt Người phải đối xử công bình theo kiểu con người.
Chẳng ai có quyền hạch hỏi Người vì Người quá sức độ lượng (c.12).
“Hay mắt của anh xấu xa vì tôi tốt lành” (c. 15).
Con mắt xấu xa là con mắt khó chịu vì kẻ khác bằng mình, dù không đáng,
ghen tỵ với may mắn và hạnh phúc bất ngờ của người khác.
Đức Giêsu khẳng định mình là người tốt lành,
đặc biệt trong cách cư xử của Người đối với những tội nhân.
Anh trộm lành trên thập giá cũng là người thợ giờ thứ mười một.
Anh được hưởng những gì mà người khác phải nỗ lực cả đời.
những câu nói lên bản chất sâu xa của tấm lòng Thiên Chúa.
“Tôi muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c. 14).
Tôi muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh, tôi muốn họ bằng anh :
đó là ước muốn, là chọn lựa của Thiên Chúa.
Tình thương của Người phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối,
người làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít.
“Chẳng lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn
với tài sản của tôi sao?” (c. 15).
Thiên Chúa giàu sang nên có quyền rộng rãi thi ân cho kẻ Người muốn.
Chẳng ai có thể bắt Người phải đối xử công bình theo kiểu con người.
Chẳng ai có quyền hạch hỏi Người vì Người quá sức độ lượng (c.12).
“Hay mắt của anh xấu xa vì tôi tốt lành” (c. 15).
Con mắt xấu xa là con mắt khó chịu vì kẻ khác bằng mình, dù không đáng,
ghen tỵ với may mắn và hạnh phúc bất ngờ của người khác.
Đức Giêsu khẳng định mình là người tốt lành,
đặc biệt trong cách cư xử của Người đối với những tội nhân.
Anh trộm lành trên thập giá cũng là người thợ giờ thứ mười một.
Anh được hưởng những gì mà người khác phải nỗ lực cả đời.
Nói cho cùng, vấn đề không phải là đáng hay không đáng.
Chẳng ai xứng đáng để vào thiên đàng, kể cả các thánh.
Hạnh phúc Nước Trời là một ơn ban
hơn là một sự trả công hay phần thưởng.
Thiên Chúa vượt lên trên sự sòng phẳng có tính mua bán của con người.
Người không phải là nhà buôn, nhưng là người cha tốt lành.
Cha thương cả hai con, cả đứa ở nhà phục vụ lẫn đứa bỏ đi bụi đời.
Thậm chí đứa hư hỏng hay tật nguyền lại được quan tâm hơn.
Ông chủ vườn nho thương cả những người
đứng ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn.
Có thể vì họ kém khả năng, kém may mắn hơn những người khác chăng?
Chẳng ai xứng đáng để vào thiên đàng, kể cả các thánh.
Hạnh phúc Nước Trời là một ơn ban
hơn là một sự trả công hay phần thưởng.
Thiên Chúa vượt lên trên sự sòng phẳng có tính mua bán của con người.
Người không phải là nhà buôn, nhưng là người cha tốt lành.
Cha thương cả hai con, cả đứa ở nhà phục vụ lẫn đứa bỏ đi bụi đời.
Thậm chí đứa hư hỏng hay tật nguyền lại được quan tâm hơn.
Ông chủ vườn nho thương cả những người
đứng ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn.
Có thể vì họ kém khả năng, kém may mắn hơn những người khác chăng?
Người thợ giờ thứ mười một đã làm được gì cho vườn nho của ông chủ?
Chắc chẳng được bao nhiêu.
Nhưng anh ấy đã đứng chờ suốt ngày.
Thế giới này lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một,
“những người không được ai mướn” (c.7),
những người cứ đứng chờ vậy thôi, suốt ngày, suốt đời,
những người được nhận trễ, chẳng biết mình sẽ được trả lương ra sao.
chỉ biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.
Những người này khác với những người làm từ sáng,
biết chắc mình sẽ được trả công một quan tiền.
Chắc chẳng được bao nhiêu.
Nhưng anh ấy đã đứng chờ suốt ngày.
Thế giới này lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một,
“những người không được ai mướn” (c.7),
những người cứ đứng chờ vậy thôi, suốt ngày, suốt đời,
những người được nhận trễ, chẳng biết mình sẽ được trả lương ra sao.
chỉ biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.
Những người này khác với những người làm từ sáng,
biết chắc mình sẽ được trả công một quan tiền.
Dụ ngôn không nói đến việc người làm cuối reo lên vì được trả công hậu hỹ.
Nhưng chắc là đã có những tiếng reo.
Thiên đàng đầy ắp những tiếng reo như thế,
kinh ngạc, ngỡ ngàng, thán phục, tri ân…
Chẳng có ai vào thiên đàng mà lại không reo lên
vì thấy những gì gọi là công đức của mình chỉ là chuyện nhỏ,
quá nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng.
Người ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của những người
mà ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được.
Thiên Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho.
Người còn thấy cả thời gian chờ.
Nhiều khi chờ còn mệt hơn làm việc.
Nhưng chắc là đã có những tiếng reo.
Thiên đàng đầy ắp những tiếng reo như thế,
kinh ngạc, ngỡ ngàng, thán phục, tri ân…
Chẳng có ai vào thiên đàng mà lại không reo lên
vì thấy những gì gọi là công đức của mình chỉ là chuyện nhỏ,
quá nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng.
Người ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của những người
mà ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được.
Thiên Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho.
Người còn thấy cả thời gian chờ.
Nhiều khi chờ còn mệt hơn làm việc.
Đừng cằn nhằn! hãy vui với niềm vui của Thiên Chúa,
Đấng hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ,
vì lòng tốt của Ngi không sao hiểu được.
Hãy vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá khứ của họ.
Chúng ta không có quyền buồn như người con cả, khi cha đang vui.
Hãy đổi cái nhìn của mình về Thiên Chúa.
Như thế chúng ta cũng sẽ thay đổi cách cư xử với anh em.
Đấng hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ,
vì lòng tốt của Ngi không sao hiểu được.
Hãy vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá khứ của họ.
Chúng ta không có quyền buồn như người con cả, khi cha đang vui.
Hãy đổi cái nhìn của mình về Thiên Chúa.
Như thế chúng ta cũng sẽ thay đổi cách cư xử với anh em.
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu, con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
Nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
Mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
Và giữa ánh sáng,
Cũng có những bóng mờ đe dọa.
Chúa đã làm người như chúng con,
Nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
Mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
Và giữa ánh sáng,
Cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
Xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
Xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
Xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
Xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
Dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
Đối diện với những thách đố
Vì biết rằng cuối cùng
Chiến thắng thuộc về người
Có niềm hy vọng lớn hơn. Amen
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
Dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
Đối diện với những thách đố
Vì biết rằng cuối cùng
Chiến thắng thuộc về người
Có niềm hy vọng lớn hơn. Amen
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21 THÁNG TÁM
Chuẩn Mực Của Hoạt
Động Con Người
Chúng ta đọc thấy
trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công Đồng Vatican II: “Hoạt động của con
người phát xuất từ con người nên qui hướng về con người… Nếu được hiểu cho
đúng, thì sự phát triển đáng giá hơn mọi của cải có thể thu tích được. Giá trị
con người hệ tại ở “cái mình là” hơn hệ tại ở “cái mình có”. Cũng vậy, tất cả
cái gì con người làm để đạt tới một mức độ công bình cao hơn, một tình huynh đệ
rộng lớn hơn và một trật tự nhân đạo hơn trong các tương quan xã hội, đều quí
trọng hơn các tiến bộ kỹ thuật, bởi vì, các tiến bộ ấy tuy có thể cung cấp chất
liệu cho sự thăng tiến con người, nhưng tự chúng mà thôi không thể thực hiện được
công cuộc thăng tiến ấy…
“Đây là tiêu chuẩn của
hoạt động con người: mọi hoạt động con người phải phù hợp với lợi ích đích thực
của nhân loại theo như ý định và ý muốn của Thiên Chúa, lại phải giúp con người,
cá nhân cũng tập thể, trau dồi và thực hiện ơn gọi phổ quát của mình” (MV 35;
59).
Cũng chính Hiến Chế
trên tuyên bố: “Trật tự xã hội và tiến bộ của nó phải luôn luôn nhằm ích lợi của
các nhân vị, bởi vì trật tự của muôn vật phải lệ thuộc vào trật tự của các nhân
vị chứ không ngược lại. Trật tự xã hội phải phát triển mỗi ngày một hơn, phải đặt
nền tảng trên chân lý, xây dựng trong công bình, nuôi sống nhờ tình yêu. Thánh
Thần Chúa, Đấng điều khiển những biến chuyển thời gian và canh tân bộ mặt trái
đất với sự quan phòng kỳ diệu, đang hiện diện trong cuộc tiến hóa này” (MV 26).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 21/8
Thánh Piô X, giáo
hoàng
Tl 9, 6-15; Mt 20,
1-16a.
LỜI SUY NIỆM: “Cầm lấy phần
của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng
bạn đó.”
Tất cả chúng ta đang ở trong Giáo Hội của Chúa, mọi thành phần dân Chúa đều được
Chúa quan tâm yêu thương như nhau. Mỗi người đều là quan trọng đối với Chúa.
Chúa cứu chuộc từng người một, từng hoàn cảnh của mỗi người. Không ai có quyền
đòi hỏi sự ưu tiên cho mình. Điều quan trọng là mỗi người phải chu toàn bổn phận
của mình với ơn ban của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Xin ban cho mỗi người trong chúng con, luôn biết chu toàn bổn
phận của mình, với ơn ban của Chúa với lòng ao ước những người chung quanh
chúng con cũng nhận ra tình yêu của Chúa trong cuộc sống. Để cùng nhau sống
tình yêu thương với nhau.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 21-08
Thánh PIÔ X
GIÁO HOÀNG (1835 –
1914)
Thánh Piô X giáo hoàng
tên thật là Giuseppe Melchierre Sartô, sinh tại làng Riese miền Venetia, ngày
02 tháng 6 năm 1835. Cha Ngài ông Giovanni Battista Sartô thành hôn với mẹ Ngài
là bà Margherita Samon, nhỏ hơn ông tới một nửa số tuổi. Vì vậy lên 17 tuổi,
Ngài đã mồ côi cha. Làm nghề chạy giấy của xã, ông Giovanni Battista làm cha một
gia đình nghèo túng. Chết đi ông cũng lại một gia đình càng túng quẫn hơn nữa.
Tuy nhiên nhờ lòng đạo đức của cả hai ông bà mà gia đình này đã góp phần đào tạo
nên một vị thánh lớn cho Giáo hội.
Ngay từ nhỏ, học tại
trường làng, Giuseppe đã tỏ ra có nhiều triển vọng, Ngài luôn là một học sinh
giỏi đứng đầu lớp học. Theo phong tục thời đó, dù đã vào ban giúp lễ từ hồi 7
tuổi, mãi tới năm 11 tuổi, Giuseppe mới được rước lễ lần đầu. Những ngày tháng
mong đợi có lẽ đã khiến Ngài khi lên giáo hoàng sau này, đã cho phép trẻ em được
rước lễ vỡ lòng khi vừa tới tuổi khôn và nhiệt tình cổ võ lòng tôn sùng bí tích
Thánh Thể. Trước bàn thờ Đức Mẹ, dịp rước lễ lần đầu, Giuseppe đã khấn dâng
mình cho Chúa.
Từ lâu rồi Ngài đã
nuôi ý định này nhưng không dám tỏ bày với cha mẹ. Nhưng khi biết được ý định của
con, mẹ Ngài đã hết sức tán thành, cha Ngài ngập ngừng vì thấy gia đình nghèo
túng, nhưng rồi cũng quảng đại vâng theo ý Chúa. Mọi người đều vui mừng vì quyết
định của Giuseppe, nhất là cha sở Riese. Cha phó dạy tiếng Latinh cho Ngài. Khi
đã đủ lực theo bậc trung học ở Castelfrancô cách Riese 7 cây số ngàn. Suốt 4
năm trời Ngài thường vác giầy trên vai, để tiết kiệm, và đi bộ tới trường rồi lại
đi bộ về nhà. Chính lý tưởng làm linh mục là sức mạnh giúp Ngài kiên trì như vậy.
Hết 4 năm tại
Castelfrancô, năm 1850, Giuseppe lên đại chủng viện Padua. Gia đình Giuseppe
nghèo, cha sở xin được cho Ngài một học bổng, giáo dân trong họ hằng năm quyên
tiền giúp đỡ Ngài. Thật là những nghĩa cử cao đẹp đối với một ơn gọi. Năm 17 tuổi,
ông thân sinh qua đời, Giuseppe muốn bỏ về giúp mẹ và săn sóc cho 7 đứa em. Lại
một nghĩa cử cao đẹp khác vun trồng cho ơn gọi Giuseppe chín mùi: mẹ Ngài không
chấp nhận ý kiến, mà quyết tâm dâng con cho Chúa. Trong nếp sống nghèo khó
nhưng lại giàu lòng quảng đại ấy, Giuseppe đã tiến tới chức linh mục ngày 28
tháng 9 năm1858, lúc 23 tuổi.
Sau ngày mở tay tại
quên nhà, cha Giuseppe đi nhận phó xứ Tombolo, chín năm sau Ngài được bổ nhiệm
làm chính xứ Salzano. 17 năm làm phó xứ rồi chính xứ, cha Giuseppe sống đời hy
sinh tận tụy với giáo dân, nhất là với những người nghèo khó. Không hề ao ước
danh vọng, Ngài lại được chiếu cố, được tín nhiệm vào chức vụ cao hơn. Đức Giám
mục Trevise mời Ngài về làm chưởng ấn toà giám mục, kiêm nhiệm chức vụ giám đốc
chủng viện.
Luôn luôn Ngài thi
hành các chức vụ bề trên giao phó một cách chu đáo.
Năm 1884, đức Lêô
XIII, Đấng mà Ngài sẽ kế vị đặt Ngài làm giám mục cai quản điạ phận Mantua,
Ngài muốn từ khước nhưng đã vâng lời và quyết nên mọi sự cho mọi người. – Dân
chúng sẽ thấy tôi luôn kiên trì trong chức vụ, luôn hiền từ và đầy bác ái.
Ôm hôn mẹ hiền, Ngài
cho mẹ em chiếc nhẫn giám mục của mình. Mẹ Ngài cũng sung sướng cho Ngài xem
chiếc nhẫn cưới của mình và nói : – Không có chiếc nhẫn của mẹ thì chẳng có chiếc
nhẫn của con.
Phải thật nhân đức mới
có thể đường dầu với tình trạng đáng thương của giáo phận: chủng viện gần như
trống rỗng, dân chúng chịu ảnh hưởng của tâm điểm, thệ phản thuyết phóng túng
nên lòng đạo đức sa sút, chẳng còn nhiệt tâm gì với việc tông đồ, với đời sống
nội tâm. Sợ hãi, nhưng đức cha Sartô bắt tay ngay vào việc canh tân. Ngài đi
kinh lý khắp điạ phận rộng lớn.
Những cuộc tiếp xúc
thường xuyên và thân mật này đã tạo nên những bước tiến cụ thể. Khi mùa gặt đã
tới, Ngài lên tiếng kêu gọi cho ngân quỹ vơi cạn của chủng viện và được đáp ứng
quảng đại. Ngài triệu tập một hội nghị để trao đổi và để đón nhận các ý kiến.
Ngài luôn lo bảo vệ sự toàn vẹn đức tin và không muốn chấp nhận sự sống nhượng
bộ khi không được phép : – Người ta phải tranh đấu nơi thanh thiên bạch nhật.
Công việc ngày một nhiều,
nhưng Ngài vẫn thường xuyên thăm viếng các giáo xứ. Buổi sáng kia tới nhà thờ một
họ đạo, Ngài thấy giáo dân đứng chờ trước toà giải tội, Ngài vào ngồi tòa, khiến
cha sở tới nơi phải bối rối. Trợ giúp hàng giáo sĩ về luân lý lẫn tài chánh đó
là nét đặc trưng trong chức vụ của Ngài.
Mỗi hoạt động của vị
giám mục thánh thiện đều tạo thành tiếng vang. Năm 1893, Đức Leo XIII đặt Ngài
làm hồng y giáo chủ Vevetia. Lần này Ngài mau mắn vâng lời.
– Khi vị đại diện Chúa
Kitô mở lời, không phải là lúc để nghiệm xét, mà là vâng phục. Không được phép
cân nhắc lệnh truyền để tìm giảm thiểu mức độ vâng phục…
Đức Hồng y tiếp tục
cùng một chương trình canh tân. Ngài xây dựng nhiều thánh đường, cô nhi viện,
chủng viện và một phân khoa giáo luật. Ngài can đảm thiết lập thông tấn xã công
giáo. Ngài đến nhà thờ và tranh đấu cho việc tông trọng luật Chúa.
Ngày 08 tháng 7 năm
1903, đức Lêô XIII từ trần. Đức Hồng y giáo chủ Sartô phải đi vay tiền mua vé về
họp mật nghị bầu giáo hoàng. Trong mật nghị, Đức Hồng y Puzyna cai quản Krakow
cho biết hoàng đế nước Áo phủ quyết Đức Hồng y Rampella quốc vụ khanh của Đức
Lêô XIII mới từ trần. Cuộc bỏ phiếu đầu 1 tháng 8, Đức Sarto chỉ được 5 phiếu.
Đức Hồng y Gibbons người Mỹ xin Ngài đừng phủ quyết cuộc bầu cử và đến cuộc đầu
phiếu thứ 7 ngày 4 tháng 10, Ngài được 50/62 (vì sự kiện trên, sau này người ra
hiến chế Comomissum Nobis để ngăn chận mọi mưu toan chính trị tìm khuynh đảo
các cuộc bầu cử giáo hoàng).
Sau kết quả cuộc bầu cử,
Đức hồng y niên trưởng đến hỏi: – Chúng tôi đã nhân danh Thiên Chúa tiến cử
Ngài làm giáo hoàng, Ngài có ưng thuận không ?
Sau giây phút yên lặng
trong nước mắt giàn dụa, Ngài nghẹn ngào trả lời ?
– Ước gì tôi không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.
– Ước gì tôi không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.
Thấy câu trả lời chưa
rõ, Đức hồng y niên trưởng hỏi lại lần nữa và Ngài trả lời : – Tôi xin nhận như
nhận một thánh giá.
– Vậy Ngài muốn nhận tên gì ?
– Vì tôi phải chịu khổ nên tôi nhận tên của những vị đã phải đau khổ. Tôi nhận tên là Piô.
– Vậy Ngài muốn nhận tên gì ?
– Vì tôi phải chịu khổ nên tôi nhận tên của những vị đã phải đau khổ. Tôi nhận tên là Piô.
Thế là cuộc bầu cử
giáo hoàng đã xong. Lễ đăng quang được cử hành ngày 09 tháng 8 năm 1903. Trong
thông điệp đầu tiên, E Supreni Apostolatus ngày 04 tháng 10 năm 1903 Ngài công
bố: “Nếu người ta muốn hỏi chúng tôi một châm ngôn phát xuất tự đáy lòng, tôi sẽ
luôn nói rằng: canh tân mọi sự trong đức Kitô”.
Suốt triều đại giáo
hoàng, Đức Piô X đã thực hiện châm ngôn ấy. Ngài cho phép các trẻ em nhỏ rước lễ
sớm khi vừa tới tuổi khôn và khuyến khích việc rước lễ hàng ngày. Với thông điệp
Pascendi ngày 08 tháng 9 năm 1908 kết án thuyết duy tâm. Ngài sửa lịch và sách
nguyện, canh tân thánh nhạc và truyền dùng trong cả Giáo hội, Ngài thiết lập
các viện nghiên cứu âm nhạc và kinh thánh tại Roma. Ngài khởi đầu công cuộc hệ
thống hóa giáo luật…
Về phương diện chinh
trị, Ngài tạo ra sự dễ dàng trong việc liên lạc giữa Giáo hội và vương quốc Ý.
Khi tổ chức lại các bộ và các toà án, cùng giáo triều Roma, tông hiến Sapienti
Consiliô năm 1908 cho thấy dấu hiệu sẫn sàng chấp nhận việc để mất các quốc gia
của Giáo hội, cũng không cần đến cơ cấu cai trị dân sự làm khuôn mẫu. Ngay từ
năm 1905 Ngài đã cương quyết từ khước hoà ước Napolêon và chấp nhận sự phân biệt
Giáo hội với quốc gia vì biết rằng sự nghèo khó của Giáo hội Pháp là có lợi
hơn.
Giữa những công chuyện
hóc búa này, Đức Piô X không bao giờ thực sự cảm thấy mình được ở nhà. Ngài là
“tù nhân ở Vaticanô”. Một lần tiếp xúc với các bạn cũ, Ngài bật khóc : – Xem
người ta đưa tôi lên ghế này đây.
Tìm lại nếp sống cũ,
Ngài đưa các em về Roma để giặt ủi và may vá đồ. Khi đau bệnh, Ngài xin linh mục
là cháu cho rước lễ. Ngài còn đưa cả cha tuyên úy và người nấu ăn từ Venetia về.
Thích sống thanh đạm, Ngài bỏ các nghi thức nhỏ nhặt và nhiều truyền thống nặng
hình thức khác. Khi Ngài qua đời người ta còn thấy trong túi áo Ngài những vật
của một học sinh: con dao nhỏ và mẫu bút chì.
Năm 1914 vào năm thứ
11 sau khi Đức piô được bầu làm giáo hoàng, Au Châu lâm vào cảnh chiến tranh.
Ngài ngã bệnh, Ngài dâng lễ cuối cùng, ngày lễ Mông Triệu và qua đời ngày 20
tháng tám, người ta nói rằng: Ngài bị vỡ tim vì lo buồn cho nhân loại, 9 năm sau
đã bắt đầu hồ sơ phong thánh và ngày 03 tháng 6 năm 1951 Ngài được phong chân
phước, ngày 29 tháng 5 năm 1954, sau 40 năm qua đời Ngài được phong hiển thánh.
(daminhvn.net)
21 Tháng Tám
Kẻ Thù Trong Mơ
Ðời Trang Công, nước Tề, có một
người đàn ông nọ đêm nằm cứ thấy chiêm bao có một người to lớn, mặc áo vải quần
gai, đeo gươm đi vào tận nhà ông mắng chửi, rồi lại nhổ vào mặt mà đi... Ông ta
giật mình tỉnh dậy, ngồi suốt đêm, bực dọc, không tài nào ngủ lại được.
Sáng hôm sau, ông nói chuyện với
một người bạn với lời lẽ như sau: "Từ thuở nhỏ đến giờ, tôi vốn là một người
hiếu dũng, đến nay đã 60 tuổi rồi, chưa hề bị ai làm nhục. Thế mà đêm hôm qua,
có người đã đến làm nhục tôi. Tôi quyết tìm cho kỳ được kẻ ấy để báo thù. Nếu
tìm thấy nó thì tốt, bằng không chắc tôi phải chết mất".
Kể từ sáng hôm ấy, ngày nào ông
ta cũng cùng với người bạn ra đứng ngoài đường để rình cho được kẻ thù trong giấc
mơ. Ba ngày trôi qua, nhưng ông ta vẫn chưa thấy được kẻ thù.
Ðã tức tối vì bị kẻ thù làm nhục,
nay lại hậm hực thêm vì không tìm thấy kẻ thù, ông ta trở về nhà uất người lên
và chết.
Nhà diễn giả hùng biện nhất của
đế quốc La Mã là Cicero có nói: "Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của
chính mình". Câu chuyện của người nằm mơ thấy kẻ thù, để rồi đi tìm kẻ thù
và cuối cùng, tự hủy hoại chính mình phải chăng không là một minh họa cho câu
nói của Cicero. Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình, bởi vì con
người tự tạo cho mình kẻ thù để tự tiêu diệt chính mình.
Chúa Giêsu không đến để chối bỏ sự hận thù, nhưng trái lại bày tỏ bộ mặt
thực của nó và đánh bại nó. Thù hận là dấu chỉ sự thống trị của Satan, kẻ thù
đúng nghĩa nhất. Chính Satan gieo sự thù hận trong lòng người và đặt con người
vào thế chống đối và tiêu diệt nhau.
Chúa Giêsu đã đánh bại kẻ thù ấy bằng chính cái chết yêu thương tha thứ của
Ngài. Chỉ có yêu thương và tha thứ mới có thể là thứ khí giới tiêu diệt được kẻ
thù. Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta thứ khí giới ấy. Ngài đã không ngừng nói với
chúng ta: "Hãy yêu thương kẻ thù ngươi, hãy làm ơn cho kẻ thù ghét
ngươi".
Nếu con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình, thì quả thực
chúng ta phải bắt đầu tiêu diệt nó ngay chính trong chúng ta. Chính khi chúng
ta cưu mang cừu hận là lúc chúng ta tự tạo nên kẻ thù và tự tiêu diệt chính
mình. Chính khi chúng ta khước từ tha thứ và làm ơn cho những kẻ thù ghét hãm hại
chúng ta, là chính lúc chúng ta tự giam hãm trong hận thù để rồi tự hủy hoại
chính mình.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét