25/10/2019
Thứ Sáu tuần 29 thường niên
BÀI ĐỌC
I: Rm 7, 18-25a
“Ai sẽ cứu tôi
thoát khỏi cái xác chết này?”
Trích thư Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tôi
biết rằng sự lành không ở trong tôi, nghĩa là trong huyết nhục của tôi. Vì
chưng ước muốn thì tôi vẫn có, nhưng làm cho sự lành nên hoàn hảo thì không sao
được. Bởi vì sự lành tôi muốn thì tôi không làm, còn sự dữ tôi không muốn thì
tôi lại làm. Thực ra nếu tôi làm điều tôi không muốn, thì bấy giờ không phải
chính tôi làm điều đó, nhưng là sự tội ở trong mình tôi. Thành ra khi tôi muốn
làm sự lành, tôi nhận thấy trong tôi có lề luật, vì sự dữ vẫn kèm bên tôi. Theo
như con người bên trong, tôi cũng ưa thích lề luật Thiên Chúa: nhưng tôi thấy
trong chi thể tôi có một lề luật khác đối địch với lề luật tâm thần tôi, và
giam hãm tôi dưới ách lề luật sự tội trong chi thể tôi. Tôi là con người vô
phúc! Ai sẽ cứu tôi khỏi cái xác chết này? Cảm tạ Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta. Như thế, chính tôi lấy tâm thần mà phục vụ lề luật Thiên
Chúa; còn về xác thịt, thì vâng phục lề luật của sự tội. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 118, 66. 68.
76. 77. 93. 94
Đáp: Lạy
Chúa, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài (c. 68b).
Xướng:
1) Xin Chúa dạy con sự
thông minh và lương tri, vì con tin cậy vào các chỉ thị của Ngài. –
Đáp.
2)Chúa là Đấng tốt
lành và nhân hậu, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài. – Đáp.
3)Xin Chúa tỏ lòng
thương hầu uỷ lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa. – Đáp.
4)Nguyện Chúa xót
thương cho con được sống, vì luật pháp Ngài là sự sung sướng của con. –
Đáp.
5)Đời đời con không
quên những huấn lệnh của Ngài, bởi lẽ đó mà Ngài đã ban cho con được sống. –
Đáp.
6)Con thuộc về Chúa,
xin Chúa cứu độ con, vì con tìm kiếm huấn lệnh của Ngài. – Đáp.
ALLELUIA: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia!
– Chúa phán: “Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết
nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 12, 54-59
“Các ngươi biết tìm hiểu diện mạo
trời đất? Còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu?”
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán bảo dân chúng rằng: “Khi các ngươi xem thấy đám mây nổi lên ở phía tây, lập
tức các ngươi nói rằng: Trời sắp mưa; và sự thật xảy ra như thế. Và khi gió nam
thổi đến, thì các ngươi nói: Trời sắp nóng nực. Và việc đã xảy ra như thế. Hỡi
những kẻ giả hình, các ngươi biết tìm hiểu diện mạo của trời đất, còn về thời đại
này, sao các ngươi không tìm hiểu? Tại sao các ngươi không tự mình phê phán điều
gì phải lẽ? Thế nên, khi ngươi cùng với kẻ đối phương ra trước mặt quan quyền,
thì đang lúc đi dọc đường, ngươi hãy cố lo liệu cho ổn thoả với nó đi, kẻo nó
lôi ngươi đến trước quan toà, và quan toà trao ngươi cho lý hình và lý hình tống
ngươi vào ngục. Ta bảo cho ngươi hay, ngươi sẽ không thể ra khỏi đó cho đến khi
nào trả xong đồng xu cuối cùng”.
Suy niệm
Trên kia chúng ta đã
nói về lời khẳng định của Phaolô rằng Lề Luật là một lý do khiến cho tội tràn
lan, và những chỉ trích của các đối thủ của Phaolô chống lại ngài. Tuy nhiên mục
tiêu của Thánh Tông Đồ chỉ là muốn vạch ra rằng Lề Luật tự nó không có sức biến
đổi và cứu rỗi con người; nó chỉ cho thấy điều gì là đúng và điều gì là sai, và
rốt cuộc chỉ nhấn mạnh vào những điều sai sót của con người. Đây là lý do tại
sao Phaolô nói không một chút hoài nghi rằng Lề Luật là tốt lành và thánh thiện,
nhưng vấn đề là ở chỗ vì có Lề Luật mà tội lỗi, sự vi phạm các giới luật, được
tỏ lộ trong tất cả tính chất nghiêm trọng của nó. Lề Luật đặt ra trước mặt con
người con đường sống và con đường chết.
Thánh Phaolô biết rất
rõ tấn kịch nội tâm mà mỗi người trải qua, đặc biệt khi chúng ta cố gắng đi
theo con đường trọn lành. Nhờ lý trí và ý chỉ, con người hiểu và muốn làm điều
tốt, tuân theo các giới răn, nhưng họ gặp một khuynh hướng, một xung lực
thúc đẩy làm điều xấu. Nó cho thấy chúng ta là nô lệ và cần một sức lực giải
phóng mà chúng ta không có. Chúng ta sinh ra không có tội cá nhân, nhưng chúng
ta mang những vết tích của tội và tình trạng rối loạn hoàn vũ, và chịu những hậu
quả của nó. Thực vậy, Thánh Phaolô nói, “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm,
nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:19). Con người trải nghiệm sự
mâu thuẫn bi thảm này và tự hỏi: ai có thể giải phóng tôi khỏi cái “tôi” xác thịt
yếu đuối này, để trải nghiệm cái “tôi” mới, được chữa lành và đẹp lòng Thiên
Chúa? Thánh Phaolô biết Đức Giêsu là nguồn duy nhất của ân sủng và ơn cứu chuộc.
Vì thế ngài mời gọi chúng ta cùng với ngài ca ngợi và tạ ơn Thiên Chúa, để
chúng ta có thể cầu nguyện cùng với thánh vịnh gia: “Xin Chúa lấy tình thương
mà an ủi, theo lời đã hứa với tôi tớ Ngài đây. Xin chạnh lòng thương cho con được
sống” (Tv 119:76-77).
Ai trung thành giữ luật
thì phải cẩn thận để khỏi rơi vào trọng tội kiêu ngạo, giống như người Pharisêu
trong đền thờ khinh dể người khác, tự coi mình là công chính trước mặt Thiên
Chúa, đi ngược lại lời Kinh Thánh nói: “Trước thánh nhan Ngài chẳng có người
nào là công chính” (Tv 143:2). Cũng có thể là người ấy không có can đảm để
đi bước tiếp theo mà chính Lề Luật dẫn đưa. Người tuân giữ các giới răn
thì ở trên con đường dẫn tới sự sống đời đời, như được thấy trong câu chuyện của
người thanh niên đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được
sự sống đời đời?” (Lc 18:18). Chúa xác nhận rằng chàng thanh niên này đang đi
đúng đường. Điều quan trọng ở đây là con đường này đã dẫn anh ta tới gặp Đức
Giêsu để tiếp tục tìm kiếm, vì Đức Giêsu là “đường” dẫn tới sự sống (x. Ga
14:6) và là “cửa” dẫn vào Nước Trời (x. Ga 14:6). Khi Phaolô nhờ ánh sáng ân sủng
hiểu được điều này, ngài đã không do dự đi theo con đường của Đức Giêsu với tất
cả sức lực, con tim và trí khôn. Nhưng chàng thanh niên kia vì rất giàu nên đã
không có can đảm giống như Phaolô.
Khi Đức Giêsu nói với
đám đông là những người biết phân biệt các dấu hiệu của thiên nhiên nhờ kinh
nghiệm và trí tuệ của họ, Đức Giêsu chê trách họ hai điều: họ không biết nhận
ra thời hiện tại và không biết phán đoán điều gì là đúng. Họ biết giải thích về
thời giờ và thời tiết, nhưng họ không thể nhận ra sự hiện diện của thời giờ cứu
rỗi. Trong bài giảng mở đầu sứ vụ của Người tại hội đường Nadarét, Người trích
sách ngôn sứ Isaia và tuyên bố rằng Người đang khai mở Năm của Đức Chúa, cái
“hôm nay” của ơn cứu độ, trong đó các lời hứa của Sách Thánh được ứng nghiệm
(x. Lc 4). Bắt đầu từ đó, tất cả những điều Đức Giêsu nói và làm là một sứ
mạng loan báo Tin Mừng không biết mỏi mệt. Nhiều người nghe Người giảng và thấy
các việc Người làm thì kinh ngạc và ngợi khen Thiên Chúa, “Hôm nay, chúng ta đã
thấy những chuyện lạ kỳ!” (Lc 5:26). Khi các môn đệ ông Gioan Tẩy Giả đến hỏi
Người có thật là Đấng Mêsia hay họ phải đợi một vị khác, Đức Giêsu trả lời họ bằng
cách chỉ ra những kết quả của công việc loan báo Tin Mừng: “Người mù được thấy,
kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ
nghèo được nghe tin mừng” (Lc 7:22). Và nếu một mặt, Đức Giêsu buồn phiền vì sự
bách hại và chống đối bởi các giới chức quan quyền đạo và đời, bởi những người
giàu sang quyền thế không chịu ăn năn sám hối và từ chối mọi cơ hội hối cải,
thì mặt khác, Người vui mừng hân hoa khi nhìn thấy niềm vui và sự đơn sơ của những
con người thấp hèn đón nhận ánh sáng lời của Người và trở thành những môn đệ của
Người để đi vào Nước Trời. Vì vậy, hoan hỉ trong Thánh Thần, Đức Giêsu thốt lên
lời ca tụng tạ ơn Cha, Đấng đã che giấu những điều này với những kẻ khôn ngoan
thông thái, nhưng đã mặc khải cho những kẻ bé mọn.
Trong tình trạng có những
rủi ro cao, chúng ta phải quan tâm ít hơn tới việc giải thích những hiện tượng
tự nhiên, và chăm chú nhiều hơn vào việc phân định giờ của lịch sử và giờ
của Thiên Chúa. Cách tiếp cận thứ hai này sẽ ít thiệt hại hơn cách tiếp cận bị
Đức Giêsu chỉ trích. Vì sự mặc khải về Đấng Mêsia cơ bản là việc của ân sủng,
điều cấp bách và có tính quyết định là phải chớp thời cơ tiếp nhận ngay lúc nó
được tỏ lộ, mở rộng tối đa lòng mình ra cho những kết quả của nó là ơn cứu độ.
Điều này chỉ có thể xảy ra bằng cách tự do và vâng phục đáp lại những lời kêu gọi
đặc biệt của sự hoán cải mà Chúa đã nói trên đường đi lên Giêrusalem. Cũng cần
đặc biệt chú ý tới các dấu chỉ cụ thể của thời khắc này mà sự hiện diện của Đức
Kitô làm cho phong phú bằng một sự mới mẻ tuyệt đối, tạo cho nó một ý nghĩa lịch
sử và quan phòng tuyệt vời cho phần rỗi của chúng ta.
(Trích 31 bài giảng
của uỷ ban loan báo Tin Mừng trong tháng truyền giáo ngoại thường 10/2019)
Nguồn: Uỷ ban loan
báo Tin Mừng
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 29 TN, Năm
lẻ
Bài đọc: Rom
7:18-25a; Lk 12:54-59.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải biết suy xét cho chín chắn
để tìm ra sự thật.
Trên hành trình đi tìm
sự thật, con người có thể dùng nhiều cách khác nhau. Con người có thể dùng lý
luận, dựa vào điều đã biết để tìm ra điều chưa biết. Con người có thể dùng kinh
nghiệm, những gì đã xảy ra trong những hoàn cảnh tương tự, chắc chắn sẽ xảy ra
cho lần tới. Con người có thể tin vào những gì Thiên Chúa dạy qua các nhà lãnh
đạo và các tiên tri. Hay có thể dùng tổng hợp của tất cả các cách.
Các Bài Đọc hôm nay mời
gọi con người hãy biết suy xét để tìm ra sự thật và tin theo. Trong Bài Đọc I,
dựa vào lý luận và kinh nghiệm cá nhân, Phaolô muốn chứng minh cho người
Do-thái biết Lề Luật không có sức mạnh để thúc đẩy con người làm điều thiện và
giải thoát con người khỏi tội; đó là lý do họ phải tin Thiên Chúa gởi Đức Kitô
đến để giải thoát con người khỏi tội, và giúp con người có sức mạnh vượt thắng
tội lỗi. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói với các khán giả của Ngài: nếu trí khôn
và kinh nghiệm có thể giúp họ nhận ra những hiện tượng trong trời đất; chúng
cũng có thể giúp họ nhận ra những điều tốt xấu trong lãnh vực luân lý mà họ phải
thi hành. Nếu họ không chịu suy xét để nhận ra và hành động, họ sẽ phải lãnh nhận
mọi hậu quả của hành động của họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lề Luật giúp con người biết thiện, biết ác; nhưng không cho
sức mạnh để làm.
1.1/ Con người có thể nhận
ra đâu là thiện, ác: Để hiểu lý luận của
Phaolô, chúng ta cần hiểu lý luận của người Do-thái. Đối với họ, Lề Luật của
Thiên Chúa đủ để giải thoát và làm cho con người được cứu độ. Đối với thánh
Phaolô, Lề Luật chỉ giúp con người phân biệt giữa thiện và ác, chứ không cung cấp
cho con người sức mạnh để làm.
Phaolô dùng lý luận và
kinh nghiệm để thuyết phục những người Do-thái như sau: “Tôi biết rằng sự thiện
không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi
có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự
ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì
không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Bởi đó
tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện
ngay.”
1.2/ Con người có thể muốn,
nhưng không có khả năng làm điều thiện: Theo
kinh nghiệm, từ chỗ biết đến chỗ làm là điều không dễ: có những người biết rất
nhiều, nhưng không bao giờ chịu hành động theo những gì họ biết; nhiều khi còn
hành động hoàn toàn ngược lại. Thánh Phaolô diễn tả sự giằng co này như sau:
“Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa; nhưng trong các
chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật
của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi
thể tôi. Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải
chết này?” Chính Đức Kitô cũng đề phòng các môn đệ của Ngài về sự nguy hiểm của
xác thịt và việc cần phải tỉnh thức: “Tinh thần thì mau mắn; nhưng xác thịt thì
nặng nề.”
Để giúp con người làm
lành tránh dữ, con người không chỉ dựa vào Lề Luật; nhưng phải tin vào Đức
Kitô, Đấng Thiên Chúa Cha gởi tới để giúp con người thoát khỏi cuộc chiến nội
tâm này. Với Đức Kitô, con người có thể làm lành tránh ác như Phaolô tuyên bố:
“Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” Phaolô không giải thích
chi tiết làm sao Đức Kitô giúp con người tránh tội và sống công chính trong
trình thuật hôm nay; nhưng trong chương 8 kế tiếp, Phaolô so sánh về cuộc sống
theo xác thịt và cuộc sống theo ân sủng của Thánh Thần. Truyền thống của Giáo Hội
cũng nhấn mạnh tới cuộc sống nhân đức có được do ân sủng của Thiên Chúa và sự
chế ngự xác thịt của con người sẽ giúp các tín hữu tránh tội và sống công
chính.
2/ Phúc Âm: Phải biết dùng trí khôn để tìm ra sự thật.
2.1/ Kiến thức về thời tiết:
Cha ông chúng ta ngày xưa, tuy không có các
dụng cụ dùng để tiên đoán thời tiết như chúng ta ngày nay, biết dùng kinh nghiệm
để tiên đoán thời tiết; và lưu truyền cho con cháu bằng những câu thơ đơn giản,
dễ hiểu, và dễ nhớ. Chẳng hạn: “Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy,Cơn đàng
Nam vừa làm vừa chơi.” Ý nghĩa: Khi thấy mây đen kéo tới từ phía Đông của
Việt Nam, nghĩa là từ Biển Nam Hải đi tới, là chắc chắn sẽ có mưa. Vì thế, phải
chạy cho nhanh chóng kẻo bị ướt; nhưng khi thấy mây đen kéo tới từ phía Nam,
thì sẽ không có mưa, cứ việc thong thả làm hay chơi.
Đức Giêsu cũng dùng
kinh nghiệm như thế khi nói với đám đông rằng: “Khi các người thấy mây kéo lên ở
phía Tây, các người nói ngay: “Mưa đến nơi rồi,” và xảy ra đúng như vậy. Khi thấy
gió Nồm thổi, các người nói: “Trời sẽ oi bức,” và xảy ra đúng như vậy. Ý nghĩa:
Khi mây đen kéo tới từ phía Tây của Do-Thái, nghĩa là từ Biển Mediterranean đưa
tới, là chắc chắn sẽ có mưa; khi gió Nồm (gió từ phía Nam) thổi tới là trời sẽ
oi bức, vì thổi qua sa mạc.
2.2/ Kiến thức về thời
gian: Vào thời đại của Chúa Giêsu, mọi người
đều trông đợi Đấng Thiên Sai tới để giải phóng dân tộc. Theo các Sách Tiên Tri,
Thiên Chúa sẽ cho những dấu để dân nhận biết khi nào Đấng Thiên Sai tới; chẳng
hạn, theo Sách Tiên tri Isaiah: “Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo
tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá
cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân” (Isa 61:1). Nhưng khi
Chúa Giêsu nhắc cho họ biết, chính Ngài là Đấng tiên tri Isaiah đã loan báo (Lc
4:21), họ vẫn không tin vào Ngài. Đó là lý do tại sao hôm nay Chúa trách họ:
“Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời, thì các người biết nhận xét, còn
thời đại này, sao các người lại không biết nhận xét?”
2.3/ Dùng kiến thức tâm
lý để chuẩn bị cuộc sống tương lai: Để chuẩn
bị đối diện với sự công bằng của Thiên Chúa trong Ngày Phán Xét, Chúa trưng dẫn
một ví dụ về kiện cáo mà con người vẫn thường làm: “Thật vậy, khi anh đi cùng đối
phương ra toà, thì dọc đường hãy cố gắng giải quyết với người ấy cho xong, kẻo
người ấy lôi anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa
phát lại tống anh vào ngục. Tôi bảo cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó trước
khi trả hết đồng xu cuối cùng.” Ý nghĩa: công bằng là phải trả cho người khác
những gì thuộc về họ. Nếu đã đối xử bất công với người khác thì hãy đền trả họ
càng sớm càng tốt; nếu không, sẽ phải đền trả nơi tòa án và sẽ phải chịu tù đày
nữa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Con người là con vật
biết suy xét: biết dùng kinh nghiệm quá khứ để rút ra kinh nghiệm sống cho hiện
tại; đồng thời, biết dùng những gì xảy ra trong hiện tại để mưu ích cho tương
lai. Chúng ta đừng vội tin những gì người khác nói khi chưa suy xét cẩn thận,
và đừng để cho người khác hay thế gian điều khiển cuộc sống của chúng ta.
– Sau khi đã tìm ra sự
thật, chúng ta phải có can đảm để sống theo và làm chứng cho sự thật, thì mới
có thể sinh lợi ích cho chúng ta và cho mọi người.
– Chúng ta không thể tự
mình tránh tội và sống công chính mà không có ơn thánh của Đức Kitô. Chúng ta
phải năng lãnh nhận các bí-tích để có sức mạnh tránh tội và luyện tập nhân đức.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
25/10/2019 – THỨ SÁU TUẦN 29 TN
Lc 12,54-59
NHẬN RA DẤU CHỈ THỜI ĐẠI
Đức Giê-su nói với đám đông: “Cảnh sắc đất trời, thì các người
biết nhận xét, còn thời đại này, sao các người lại không biết nhận xét?” (Lc
12,56)
Suy niệm: Theo kinh nghiệm dân
gian, người Do-thái biết rằng khi mây kéo lên ở phía tây, trời sẽ có mưa;
hoặc thấy gió nồm thổi, họ biết ngay trời sẽ oi bức (x. Lc 12,54-55). Chúa
Giê-su muốn họ dùng kinh nghiệm ấy để “đọc” các dấu chỉ của thời đại, hầu có thể
ứng phó kịp thời với những đổi thay. Cái khó nhất trong đời sống đức tin là tỉnh
táo nhận ra cái nào là dấu chỉ đáng quan tâm, cũng như nhạy bén nhận ra ý Chúa
mời gọi phải làm gì qua những dấu chỉ ấy. Các đạo sĩ từ phương Đông đã nhận ra
Con Thiên Chúa chào đời qua dấu chỉ ánh sao lạ. Rồi Đấng Cứu Thế xuất hiện, với
lời rao giảng khôn ngoan, với những phép lạ kỳ diệu, lẽ ra phải là một dấu chỉ
lớn nhất cho người đương thời, thế nhưng họ thiếu nhạy bén để nhận ra chân tướng
của Ngài. Hầu như các dấu chỉ không dễ dàng nhận biết, đúng là Nước Trời chỉ mạc
khải cho những người bé mọn.
Mời Bạn: Giáo Hội đang phải đương đầu
với những khủng hoảng, có người bi quan nghĩ rằng không thể vượt qua. Còn bạn,
qua những sự kiện đó, bạn có thể đọc ra được dấu chỉ tích cực để nhận biết Chúa
đang mời gọi bạn làm gì để xây dựng Hội Thánh không?
Sống Lời Chúa: Noi gương Mẹ Ma-ri-a, hãy
ghi nhớ và suy niệm trong lòng những gì đang xảy ra để nhận biết và thực thi
thánh ý Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Đấng
khôn ngoan và luôn dùng những cách thế khác nhau để bày tỏ thánh ý. Xin cho
chúng con một tinh thần sáng suốt trước những dấu chỉ của thời đại, hầu biết
phân biệt phải trái để luôn sống đẹp lòng Chúa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Nhận xét thời đại này (25.10.2019
– Thứ Sáu Tuần 29 TN)
Suy niệm:
Tục ngữ ca dao nước ta không thiếu những câu nói về thời tiết.
Kinh nghiệm dân gian cho phép dự đoán những gì sắp xảy ra.
Có những dấu hiệu báo trước cơn mưa hay dông bão.
“Sấm đàng đông vừa trông vừa chạy, sấm đàng nam vừa làm vừa chơi.”
Người dân nước Paléttin cũng có những kinh nghiệm tương tự.
“Mây kéo lên ở phía tây” là mây đến từ biển Địa Trung Hải.
Khi thấy mây từ biển tiến vào, người ta đoán mưa đến nơi rồi (c. 54).
Khi thấy gió từ phương nam thổi đến,
luồng gió nóng từ vùng núi Ả-rập,
người ta biết ngay thời tiết sẽ hết sức oi bức (c. 55).
“Và xảy ra đúng như vậy”, Đức Giêsu nhắc lại câu này hai lần.
Ngài cho thấy dự đoán của dân chúng về thời tiết ít khi sai.
Họ khá bén nhạy trước những dấu hiệu thay đổi nhỏ của trời đất.
Tiếc là dân chúng thời Đức Giêsu lại không đủ bén nhạy
để có thể nhận biết được ý nghĩa của những dấu chỉ
đang diễn ra trước mắt họ.
Đức Giêsu ngạc nhiên vì những người cùng thời với Ngài
không thấy được cái độc nhất vô nhị của thời đại họ đang sống.
Họ không cảm thấy hạnh phúc khi được Thiên Chúa đến viếng thăm.
Chính vì thế ơn cứu độ của Thiên Chúa có thể bị quên lãng.
“Hỡi những kẻ đạo đức giả!” Đức Giêsu đã gọi họ như thế (c. 56).
Tại sao các anh nhạy bén trước điều này, mà lại thờ ơ trước điều kia?
Thiếu bén nhạy về mặt tôn giáo cũng là cơn bệnh của con người thời nay.
Thiên Chúa vẫn nói với con người hôm nay qua các dấu chỉ.
Vấn đề là làm sao đọc được ý nghĩa của những dấu chỉ đó.
Thiên Chúa không hiện ra để dạy con người biết tôn trọng trái đất.
Nhưng những hậu quả mà con người phải chịu là lời nhắc nhở của Ngài.
Khi trái đất ấm dần lên, khi băng tan ra và mực nước biển dâng cao,
một số phần đất của quê hương ta sẽ bị chìm dưới nước.
Khi người dân chặt phá rừng, thì lụt lội và hạn hán là chuyện dĩ nhiên.
Cơn bệnh của thế kỷ cũng có thể là một lời nhắc nhở.
Thiên Chúa mời gọi vợ chồng sống chung thủy trong hôn nhân,
và mời các bạn trẻ sống trong sạch trước khi lập hôn ước.
Ngay cả cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cũng là một dấu chỉ.
Con người được mời gọi tìm ra những cơ cấu kinh tế vững vàng hơn,
để không bị một số ít nhà tư bản hay nước tư bản thao túng.
Mở mắt to để thấy, mở tai to để nghe, đó phải là thái độ của Kitô hữu,
vì hôm nay Thiên Chúa vẫn nói, vẫn làm nơi Đức Kitô, Con của Ngài.
Ngài vẫn nói với chúng ta qua hơn 90% người Việt Nam chưa biết
Chúa.
Ngài vẫn nói với ta khi có những bạn trẻ Kitô hữu nghiện ngập, hư hỏng.
Ngài vẫn mời chúng ta làm một điều gì đó cho bao người nghèo khó,
cho trẻ em thất học, cho những phụ nữ lỡ làng, cho những người neo đơn.
Chỉ xin cho ta cảm được chút gió nhẹ của Chúa trong đời ta.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.
Lm. Antôn Nguyễn
Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25 THÁNG MƯỜI
Liên Kết Với Nhau
Qua Phép Rửa
Đức Kitô đang nhắm đến
loại hiệp nhất nào? Ngài đang nói về sự hiệp nhất do Phép Rửa. Sự hiệp nhất này
được Thánh Phaolô quảng diễn trong Thư Galata: “Tất cả anh em, vì đã được thanh
tẩy trong Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô, và nên một trong Đức Kitô Giêsu ” (Gl
3,27-28)
Qua Phép Rửa, chúng ta
không chỉ được dìm vào trong nước mà trước hết đó là được dìm vào trong cái chết
cứu chuộc của Đức Kitô. Và cũng như cái chết của Đức Kitô đánh dấu sự bắt đầu của
cuộc sống mới như được vén mở nơi cuộc Phục Sinh, thì việc chúng ta được dìm
trong nước của bí tích Phép Rửa cũng đánh dấu sự bắt đầu của một cuộc sống mới.
Sự sống mới ấy chính
là sự sống do ân sủng, cùng một sự sống như được biểu hiện nơi cuộc Phục Sinh của
Đức Kitô. Đây chính là sự sống của Đức Kitô được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta
trong Chúa Thánh thần.
Sự sống đầy sức cứu độ
này chỉ có một mà thôi. Sự sống ấy hiện diện nơi tất cả những ai lãnh nhận Phép
Rửa. Đó là lý do tại sao bất cứ ai lãnh nhận Phép Rửa đều nên một trong Đức
Kitô. Phép Rửa vừa diễn tả vừa đạt được tiếng gọi hiệp nhất đối với mọi Kitôhữu.
Đó cũng là tiếng gọi hiệp nhất trong nhiệm thể Giáo Hội duy nhất, nhờ Thánh Thần.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by
Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 25/ 10
Rm 7, 18-25; Lc 12,
54-59.
LỜI SUY NIỆM: “Những
kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc trời thì các ngươi biết nhận xét, còn thời đại
này, sao các ngươi lại không biết nhận xét?”
Trong cuộc sống lắm người chỉ biết quan tâm đến những gì có thể làm ảnh hưởng đến
cuộc sống của mình, gia đình mình và những người thân thiết nhất của mình,
ngoài ra đều vô tâm, đặc biệt vô tâm đến những sự thiệt hại cho những người
đang sống chung quanh mình, cho xã hội mà mình đang chung sống; vô tâm với tiếng
nói lương tâm ngay thẳng trong con người của mình.
Lạy Chúa Giêsu. Trong cuộc sống của mỗi người trong chúng con đều có nhiều điều
đã làm bất hòa giữa những người anh chị em chung quanh của chúng con, cũng như
đã làm mất sự giao hòa với Chúa. Xin cho mỗi người trong chúng con biết làm hòa
với người và với Chúa khi chúng con còn thể làm được, khi đang còn sống.
Mạnh Phương
25 Tháng Mười
Con Chim Sáo
Trong một tập thơ
mang tựa đề “Có muôn nghìn lý do để sống”, Ðức Cha Helder Camera, vị giám mục
người Brazil nổi tiếng là vị tông đồ của người nghèo đã ghi lại câu chuyện ngụ
ngôn sau đây: Bên cạnh nhà tôi, có một con chim sáo quanh năm ngày tháng sống
giữa trời… Tôi vẫn có thói quen nói chuyện với nó. Một hôm, tôi hỏi chú sáo có
nơi ngủ nghỉ không. Nó ngạc nhiên trả lời: “Có chứ!… Màn là trời, chiếu là đất.
Có bao giờ thiếu đâu”.
Do những đòi hỏi của
trí khôn loài người, tôi mới hỏi nó: “Thế thì những lúc mưa gió, chú trú ngụ ở
đâu”. Nó nhanh nhẩu trả lời: “Bộ ông nghĩ là thỉnh thoảng tôi không cần tắm gội
sao?” Tôi hỏi nó có đói không. Con chim sáo mỉm cười đáp: “Ðiều mà tôi muốn là
được hót. Tôi sinh ra để hót mà…”. Và nó cất tiếng hót như sau: “Hỡi loài người
kiêu ngạo. Hãy nói cho ta biết đi: liệu ngươi không chết sao?”.
Tôi cứ nài nỉ để
chú sáo nhận món quà tôi biếu: đó là một ít bánh mì có thịt… Chú sáo lại được dịp
cười cợt sự ngây ngô của tôi. Nó bảo tôi: “Ông không biết là loài sáo chúng tôi
không có ăn bánh mì và thịt như các ông sao?”.
Lần kia, tôi hỏi
chú sáo có cầu nguyện không. Nó không hiểu được câu hỏi của tôi. Nó chỉ cười trả
lời: “Có mấy chú nhóc con lấy đá ném tôi. Nhưng tôi bay đi, tôi cười và tôi
hót”.
Một lúc nào đó, tôi
có ý nghĩ đưa con sáo vào bệnh viện để nhờ các bác sĩ tìm ra căn bệnh của nó và
chữa trị cho nó. Nhưng tôi chợt nhận ra rằng nó chỉ là một con chim.
Qua câu chuyện ngụ
ngôn trên đây, có lẽ Ðức Cha Helder Camera muốn gợi lên cho chúng ta cái thảm
trạng của con người ngày nay: chiến tranh, chết chóc, đau khổ đều phát xuất từ
chỗ con người không chấp nhận nhau. Ai cũng muốn người khác phải suy nghĩ như
mình, phải hành động như mình, phải sống như mình. Ý thức hệ nào cũng cho là ưu
việt và muốn áp đặt trên người khác ngay cả bằng bạo lực.
Ngày nay, con người mỗi
lúc một ý thức hơn về sự đa diện của các nền văn hóa, của các khuynh hướng
chính trị, của các tôn giáo… Sự trưởng thành của nhân loại được thể hiện qua
chính sự chấp nhận ấy: chấp nhận sự khác biệt của tha nhân, chấp nhận tư tưởng
của người khác. Khoan dung là thái độ mà con người ngày nay đang cần hơn bao giờ
hết.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét