06/12/2019
Thứ Sáu tuần 1 mùa
vọng
BÀI ĐỌC I: Is 29, 17-24
“Ngày đó mắt người mù sẽ được
xem thấy”.
Trích sách Tiên tri
Isaia.
Đây Chúa là Thiên Chúa phán: Không còn bao lâu nữa, Liban sẽ trở nên lùm
cây, và lùm cây sẽ trở nên cánh rừng. Ngày đó, người điếc sẽ được nghe lời Sách
Thánh, và từ bóng tối, mắt người mù sẽ được xem thấy. Những người hiền lành sẽ
càng thêm vui mừng trong Chúa, và những kẻ nghèo khó sẽ nhảy mừng trong Đấng
Thánh của Israel. Vì chưng, người ỷ thế sẽ thất bại, kẻ khinh người sẽ bị hổ
ngươi, người mưu toan gian ác sẽ bị tiêu diệt. Đó là kẻ dùng lời nói để cáo
gian người khác, kẻ ra cửa thành mà đánh lừa người xử kiện, kẻ lấy sự nhỏ nhoi
mà hiếp đáp người công chính. Vì thế, Chúa, Đấng cứu chuộc Abraham, phán cùng
nhà Giacóp lời này: Từ đây Giacóp sẽ chẳng còn phải hổ ngươi và đỏ mặt; nhưng
khi xem thấy con cháu mình là công trình của tay Ta, đang ca ngợi danh thánh Ta
giữa nhà Giacóp, thì chúng sẽ ngợi khen Đấng Thánh của Giacóp và tuyên xưng
Thiên Chúa Israel. Và tâm trí lầm lạc sẽ được hiểu biết; người lẩm bẩm sẽ học
biết lề luật. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 26, 1. 4.
13-14
Đáp: Chúa là sự
sáng và là Đấng cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Đấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Đấng
phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? – Đáp.
2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ
trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng
thánh điện của Ngài. – Đáp.
3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi
nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ
đợi Chúa. – Đáp.
ALLELUIA: Is 45, 8
Alleluia, alleluia!
– Hỡi các tầng trời, hãy đổ sương mai; hỡi ngàn mây, hãy mưa Đấng Công Chính, đất
hãy mở ra và trổ sinh Đấng Cứu Chuộc. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 9, 27-31
“Tin vào Chúa Giêsu, hai người
mù được chữa lành”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, có hai người mù chạy theo Chúa và kêu lớn
tiếng rằng: “Hỡi Con vua Đavít, xin thương chúng tôi”. Khi Chúa tới nhà, những
người mù tiến lại gần Chúa. Chúa Giêsu phán bảo họ: “Các ngươi có tin rằng Ta
có thể làm việc ấy không?” Họ thưa: “Lạy Thầy, có”. Bấy giờ Chúa sờ vào mắt họ
và phán: “Các ngươi tin thế nào, thì hãy được như vậy”. Mắt họ liền mở ra,
nhưng Chúa Giêsu truyền cho họ rằng: “Coi chừng, đừng cho ai biết”. Nhưng vừa
ra đi, họ liền đồn tiếng Người trong khắp miền ấy. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Lòng Tin Khiến Họ Ðược Chữa
Lành
Roberto Newman là một người mù từ lúc mới sinh, và mãi đến năm 50 tuổi, một
cuộc giải phẫu mới cho phép ông được thấy ánh sáng đầu tiên trong cuộc đời. Với
ánh sáng, toàn thể thế giới như thay đổi hẳn viễn tượng trong tâm trí ông với
những điều bấy lâu ông hằng tưởng tượng.
Khi được phỏng vấn, ông đã trả lời tờ báo Chicago như sau: "Ðược
nhìn thấy mọi vật quả là một diễm phúc trên đời. Tôi không ngờ rằng một giáo
thuyết đã dạy tôi sẽ nhìn thấy mọi vật quanh tôi và đêm về tôi có thể nhìn ngắm
các vì sao, những vật thể li ti của dãy ngân hà trên thiên không diệu vời. Bạn
sẽ chẳng bao giờ thấy chúng tuyệt vời đến thế nào đối với tôi".
Nhận xét của Roberto thật xác đáng. Những ai đã một lần mất đi ánh sáng
trong cuộc đời để rồi đánh giá trị của khả năng nhìn ngắm. Hôm nay thánh sử
Matthêu cũng thuật lại cho chúng ta câu chuyện hai người đang cần ánh sáng và
cuộc tìm kiếm của họ.
Thật vậy, ánh nắng chói chang của vùng sa mạc cùng với những cơn lốc thổi
cát bụi mịt mù và cách sống không mấy vệ sinh về đôi mắt đã khiến cho bệnh mù dễ
dàng phát sinh tại vùng Palestina. Chúng ta cũng phần nào thấy được điều này
qua con số bị mắc bệnh thường tìm đến với Chúa Giêsu. Tuy nhiên, dù có phải
đông người mắc chứng bệnh mù lòa thì không phải vì thế mà người mù lại an phận
với kiếp mù lòa của họ, nhưng cuộc sống của họ luôn luôn là một thao thức tìm
kiếm ánh sáng, gặp được cơ may có thể tìm thấy ánh sáng thì họ chẳng bao giờ bỏ
lỡ cơ hội.
Người mù Thành Giêricô đang ngồi ăn xin bên vệ đường, nhưng vừa nghe biết
Chúa Giêsu đi ngang qua, anh liền vội vàng lớn tiếng kêu xin: "Lạy Ngài
xin cứu chữa tôi". Những người chung quanh cản ngăn thì anh lại càng la to
hơn để rồi một khi đã nghe tiếng Chúa gọi, anh ta vứt bỏ tất cả để kịp đến với
Ngài.
Hai người mù trong trình thuật Tin Mừng hôm nay tuy không có những cử chỉ
như người mù Thành Giêricô, nhưng thái độ bền bỉ của họ cũng nói lên được tâm
trạng khát vọng sự sáng. Chúa Giêsu đã gặp họ dọc đường, họ lớn tiếng kêu xin
Người nhưng Ngài không chữa họ tại nơi đó, Ngài tiếp tục hành trình. Dù chưa được
Chúa đáp lời chữa ngay nhưng họ không thất vọng bỏ cuộc và vẫn tiếp tục theo
Ngài. Về đến nhà, họ tiến lại gặp Ngài để một lần nữa xin Ngài chữa lành. Câu hỏi
Chúa Giêsu đã đặt ra cho hai người mù là để gián tiếp diễn tả một câu hỏi khác:
"Các ngươi có tin Ta là Ðấng Cứu Thế không?" Vì theo các tiên tri khi
thời Ðấng Cứu Thế đến thì mọi bệnh tật sẽ được chữa lành như: người câm nói được,
người điếc được nghe, kẻ què được lành và người mù được thấy... Họ đáp:
"Có" và lòng tin đã khiến cho họ được chữa lành. Trước và sau khi được
chữa lành, người mù đều lớn tiếng. Lúc trước họ lớn tiếng vì lòng khát khao tìm
thấy ánh sáng, và lần sau họ cũng lớn tiếng với nỗi vui mừng đã được thấy ánh
sáng. Khi tìm được nỗi vui mừng thì dù Chúa Giêsu có ngăn cấm, họ vẫn cao rao
danh Ngài.
Thế giới hôm nay cũng đang có những luồng ánh sáng và cơn lốc tối mù lý
trí và lương tâm con người, bệnh mù này còn nguy hiểm hơn bệnh mù thể xác. Vì lắm
lúc con người đang mù mà vẫn cứ tưởng là mình sáng, hoặc có quá nhiều người mù
nên con người lại lấy số đông để khỏa lấp cơn bệnh. Phần nào như tâm trạng của
Tú Xương: "Thiên hạ có khi đang ngủ cả, viêc gì mà thức một mình ta".
Ðể chữa trị bệnh mù này cũng không dễ dàng gì, nó đòi hỏi con người phải
có một thái độ bền bỉ và vững tin vào Chúa Giêsu như hai người mù ở trên. Bước
theo Ngài nhưng nhiều lúc như bị Ngài bỏ quên không nhìn tới. Tha thiết tìm đến
Ngài thế mà chẳng được đoái hoài. Thất vọng để rồi buông xuôi bỏ cuộc thì con
người sẽ mãi mãi ở trong bóng tối, nhưng vững bước theo Ngài để rồi tuyên xưng
Ngài là Ðức Kitô thì con người sẽ tìm thấy ánh sáng, sẽ được nhìn ngắm những điều
tuyệt vời mà trước đấy họ chưa từng thấy và cũng chẳng ai có ngoài một mình
Thiên Chúa.
Ước mong rằng trong Mùa Vọng này, mỗi người trong chúng ta sẽ hiểu được
giá trị sự sáng Chúa đã đem đến cho trần gian, cũng như biết rõ tình trạng mù
lòa của mình để rồi chúng ta sẽ tìm đến với Ngài, bất chấp mọi khó khăn trở ngại
và nhờ vào lòng tin, chúng ta sẽ được chữa lành.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần I MV2
Bài đọc: Isa 29:17-24; Mt 9:27-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải kiên nhẫn
trước khi đạt được điều hy vọng.
Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Giáo Hội muốn các tín hữu mong đợi
không chỉ môt ngày hay chỉ ít giờ trước Thánh Lễ Nửa Đêm; nhưng là cả 4 tuần lễ.
Tại sao cần một thời gian dài chuẩn bị như thế? Lý do là để con người có dịp đọc
lại lịch sử ơn cứu độ qua Lời Chúa, hồi tâm và suy xét cuộc đời mình để nhìn ra
sự khác biệt giữa một người có Chúa và một người không có Chúa; những gì được
hưởng và những gì bị thua thiệt. Một khi nhìn ra những điều đó, con người sẽ nhận
thấy sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời; và sẽ nhiệt thành chuẩn bị để
có được Chúa trong cuộc đời. Các Bài đọc hôm nay giúp con người nhận ra sự cần
thiết đó. Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah cho dân thấy những lợi ích con người
sẽ được hưởng khi Đức Chúa can thiệp vào đời sống của dân Ngài. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu không phải chỉ chữa lành người mù, nhưng giúp các ông nhận ra lợi
ích của việc đặt trọn vẹn niềm tin và hy vọng nơi Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thị kiến về Ngày Đấng Thiên Sai sẽ
đến.
1.1/
Những lợi ích Đấng Thiên Sai sẽ mang đến cho dân Ngài:
(1) Con người thu thập mùa màng hoa trái: “Chỉ còn chút nữa, chút ít nữa
thôi, núi Liban sẽ lại thành vườn cây ăn trái, và vườn cây ăn trái sẽ sum sê
như một cánh rừng.”
(2) Mọi bệnh nhân sẽ được chữa lành: “Ngày ấy, kẻ điếc sẽ được nghe những
lời trong sách, mắt người mù sẽ thoát cảnh mù mịt tối tăm và sẽ được nhìn thấy.”
(3) Kẻ nghèo hèn sẽ được sống: “Nhờ Đức Chúa, những kẻ hèn mọn sẽ ngày
thêm phấn khởi, và vì Đức Thánh của Israel, những người nghèo túng sẽ nhảy múa
tưng bừng.”
(4) Ác nhân sẽ bị tiêu diệt: “Thật vậy, loài bạo chúa đã không còn nữa,
quân ngạo mạn sẽ phải tiêu vong, và mọi kẻ rắp tâm làm điều ác ắt sẽ bị diệt trừ:
đó là những kẻ dùng lời nói làm cho người ta bị kết tội, và cho người xử án tại
cửa công phải mắc bẫy; chúng dùng những lời lẽ vô căn cứ mà làm cho người công
chính bị gạt ra ngoài.”
1.2/
Nhà Israel sẽ nhận ra quyền năng Thiên Chúa và biết kính sợ Ngài: Sở dĩ Thiên Chúa để quân ngọai
bang giầy xéo Israel là vì họ đã không còn kính sợ và nghe theo Lời Chúa; nhưng
nếu họ biết ăn năn trở lại, họ sẽ nhìn thấy quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện
trên quân thù. Tiên Tri xác quyết một khi đã được Thiên Chúa chăm sóc, họ sẽ
không còn bị nhục nhã xấu hổ với quân thù: “Từ nay Jacob sẽ không còn phải xấu
hổ, từ nay nó sẽ không còn bẽ mặt thẹn thùng, vì khi Jacob nhìn thấy nơi nó những
công trình tay Ta đã làm, nó sẽ tuyên xưng danh Ta là thánh, sẽ tuyên xưng Đấng
Thánh của Jacob là thánh, và sẽ kính uý Thiên Chúa của Israel. Những người tâm
trí lầm lạc sẽ có được sự hiểu biết, và những kẻ ương ngạnh sẽ chấp nhận lời
răn dạy.”
2/ Phúc Âm: Các anh tin thế nào thì được như
vậy.
2.1/
Chúa thử 2 người mù: Trình thuật kể: “Đang khi Đức Giêsu ra khỏi nơi đó, thì có hai người mù
đi theo kêu lên rằng: “Lạy Con Vua David, xin thương xót chúng tôi!” Khi Đức
Giêsu về tới nhà, thì hai người mù ấy tiến lại gần.” Tại sao Chúa Giêsu không
chữa 2 người mù ngay khi còn trên đường, mà bắt họ chờ cho tới khi về đến nhà?
Thời gian chờ đợi làm cho con người biết đánh giá đúng những gì mình cần; vì điều
gì nhận được quá nhanh chóng và quá dễ dàng thường sẽ không giúp con người đánh
giá đúng điều mình nhận được, và dễ dàng coi rẻ hay hoang phí quà tặng. Chẳng hạn,
số tiền góp nhặt được do mồ hôi nước mắt làm ra sẽ làm con người cẩn thận trong
việc tiêu xài hơn là số tiền được thừa hưởng.
2.2/
Tuyên xưng đức tin: Trước khi ban ơn như họ xin, Chúa Giêsu nói với họ: “Các anh có tin là
tôi làm được điều ấy không?” Họ đáp: “Thưa Ngài, chúng tôi tin.” Bấy giờ Người
sờ vào mắt họ và nói: “Các anh tin thế nào thì được như vậy.” Mắt họ liền mở
ra. Chúa Giêsu đến không chỉ để làm phép lạ, nhưng để khơi dậy niềm tin của con
người vào Ngài. Rất nhiều người đến với Chúa chỉ vì để được phép lạ, mà quên đi
Đấng có uy quyền làm phép lạ. Họ quên đi phép lạ họ được hưởng chỉ xảy ra một lần,
nhưng cuộc đời họ còn cần biết bao những phép lạ khác nữa. Hơn nữa, họ đã không
nhìn ra được tình yêu và bao nhiêu ơn lành của Thiên Chúa đã dành sẵn cho họ.
Tin Mừng Gioan chú trọng nhiều hơn đến những gì xảy ra sau phép lạ, nhất
là những phản ứng khác nhau của con người.
2.3/
Bí mật của Đấng Thiên Sai: Trong Tin Mừng Marco, rất nhiều lần Chúa Giêsu muốn những người được chữa
lành phải giữ “bí mật của Đấng Thiên Sai.” Trường hợp hôm nay là một ví dụ điển
hình, Chúa Giêsu nghiêm giọng bảo họ: “Coi chừng, đừng cho ai biết!” Nhưng vừa
ra khỏi đó, họ đã nói về Người trong khắp cả vùng. Thông thường, những người nổi
tiếng có thói quen muốn nhiều người biết đến mình; tại sao Chúa Giêsu muốn họ
giữ bí mật phép lạ? Hơn nữa, ca tụng sự tốt lành của Thiên Chúa là điều cần nói
ra để mọi người được biết, tại sao Chúa lại ngăn cản? Có ít nhất 2 lý do tại
sao Chúa làm như thế:
(1) Lý do chính là vì Chúa không muốn con người quen thuộc với hình ảnh một
Đấng Thiên Sai uy quyền, có sức mạnh làm được mọi sự, và sẽ giải phóng dân
chúng, như truyền thống Do-Thái tin về Đấng Thiên Sai. Vì chẳng bao lâu nữa,
Chúa sẽ phải chịu mọi cực hình trong Cuộc Thương Khó, và ngay cả chịu chết trên
Thập Giá để chuộc tội cho con người. Khi nhìn thấy một Đấng Thiên Sai chịu mọi
cực hình như thế, liệu họ còn tin nơi Ngài nữa không? Họ cần học để biết Mầu
Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa qua con đường đau khổ.
(2) Một lý do nữa là Chúa không muốn con người đến với Chúa chỉ vì được
ơn bởi phép lạ, nhưng muốn họ đến với người vì thành thật tin yêu. Tình yêu đặt
căn bản trên lợi nhuận không phải là tình yêu thành thật. Ví dụ, không ai trong
con người muốn người khác yêu mình vì có nhiều tiền, có quyền lực để ban ơn …,
nhưng muốn họ yêu như mình là và trung thành đến cùng cho dù mình bị mất tất cả.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Hy vọng phải có thời gian chờ đợi để giúp con người nhận ra sự quan trọng
của điều mình mong muốn. Nếu mọi sự được ban quá dễ dàng và nhanh chóng, chúng
ta sẽ không đánh giá đúng được món quà nhận được và sẽ dễ dàng hoang phí nó.
– Món quà nhiều khi chỉ mang những giá trị bên ngòai, nhưng tình yêu của
người cho còn có giá trị hơn bội phần. Rất nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta
đã không nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, cha mẹ, và tha nhân; mà chỉ để ý đến
quà tặng.
– Thiên Chúa không muốn chúng ta đến với Ngài chỉ để xin ơn; một khi đã đạt
được điều mong muốn là không nhớ gì đến Ngài nữa, và chạy theo đủ mọi thứ bụt
thần chóng qua. Ngài muốn chúng ta đến với Ngài bằng một tình yêu chân thật, học
hỏi để có khôn ngoan của Thiên Chúa, và biết sống thế nào để được hưởng hạnh
phúc chân thật và bình an đời đời.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
06/12/2019 – THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 1 MV
Th. Ni-cô-la, giám mục Mt 9,27-31
CHIA SẺ MỘT NIỀM VUI
Họ đã nói về Người trong khắp cả vùng. (Mt 9,31)
Suy niệm: Hai người mù được Đức Giê-su chữa lành; Người yêu cầu
họ giữ kín chuyện này. Nhưng họ đã không thể kín miệng; họ công bố về Người
trong khắp cả vùng! Đơn giản bởi vì họ không thể không công bố. Họ cảm nghiệm
được niềm vui quá lớn lao. Và niềm vui ấy tự động bộc phát ra qua lời nói, qua
tâm tư ý nghĩ, qua toàn thể con người của họ. Thật vậy, đành rằng Chúa Giê-su
truyền cho các Tông Đồ loan báo Tin Mừng, nhưng thúc đẩy các ông dấn thân trong
sứ mạng chủ yếu không vì, và càng không chỉ vì đây là một mệnh lệnh mà còn vì
đó là một tin vui nữa. Tân Ước, nhất là Công Vụ Tông Đồ, cho thấy rằng các Tông
Đồ loan báo Tin Mừng tiên vàn không phải để thi hành một mệnh lệnh cho bằng để
chia sẻ một niềm vui.
Mời Bạn: Bạn có thực sự vui vì được Chúa chữa lành tật bệnh
tâm hồn không? Điều gì sẽ xảy ra khi người ta nghe bạn loan báo ‘Tin Vui’ nhưng
họ không nhận thấy bạn vui? Điều gì sẽ xảy ra khi bạn cảm nghiệm thực sự sâu sắc
một niềm vui lớn lao? Mời bạn nhìn lại cuộc sống của mình để cảm nghiệm niềm
vui được gặp Chúa, được Người chữa lành, và để được thúc đẩy chia sẻ niềm vui
này cho anh chị em xung quanh.
Sống Lời Chúa: Người ta không thể chia sẻ cái mình không có. Bạn
không thể loan báo niềm vui được gặp Chúa và được Chúa chữa trị nếu bạn đã
không thực sự gặp Người và đã không cảm nghiệm sự đụng chạm của Người. Đời sống
cầu nguyện, vì thế, là yếu tố quyết định của nhiệt tâm và hiệu quả tông đồ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho
chúng con niềm vui được Chúa cứu độ.
(5 Phút Lời Chúa)
Suy Niệm : Mắt họ liền mở ra
Suy niệm:
Ở Việt Nam hiện nay có khoảng 500 ngàn người bị mù hai mắt,
và 900 ngàn người mù một mắt.
Tỉ lệ người mù như thế là cao so với nhiều nước khác.
Bao cố gắng được đưa ra để giảm số người bị mù,
trong đó có việc mổ cho 350 ngàn người mắc bệnh đục thủy tinh thể.
Người ta hy vọng nhờ đóng góp của các ân nhân,
sẽ có 100 ngàn người nghèo được mổ trong năm 2010.
Hạnh phúc biết bao cho ai lần đầu tiên thấy khuôn mặt người thân,
thấy được màu xanh của lá và phân biệt được sáng với chiều.
Hạnh phúc cho ai lần đầu tiên đi đứng mạnh dạn một mình
mà không cần bàn tay dắt hay cây gậy khua phía trước.
Ở nước Palestin thời xưa cũng có nhiều người mù.
Mù thường bị coi như một hình phạt của Thiên Chúa (Đnl 28, 28-29).
Người mù hẳn là người bị đứng ngoài lề xã hội.
Vào thời y khoa còn kém, người mù phải chịu cảnh tăm tối suốt đời.
Nỗi đau của người mù cũng ảnh hưởng trên cả đất nước.
Chính vì thế khi nói đến thời đại hạnh phúc của Đấng Mêsia,
Isaia nhiều lần nhắc đến chuyện người mù được sáng mắt (Is 35, 5; 42, 7).
Trong bài đọc 1 ta vừa nghe (Is 29, 18), ngôn sứ Isaia viết:
“Mắt người mù sẽ thoát cảnh mù mịt tối tăm, và sẽ được nhìn thấy.”
Được nhìn thấy bằng đôi mắt nghĩa là được mở ra với thế giới bên ngoài.
Tiếp xúc bằng mắt vẫn có cái gì vượt trội hơn tiếp xúc bằng tay hay tai.
Khi chữa lành những người mù và những tật bệnh khác,
Đức Giêsu khai mở thời đại thiên sai (x. Mt 11, 2-6).
Ngài cho thấy Nước Thiên Chúa nay đã đến.
Khi hai anh mù gọi Đức Giêsu là Con vua Đavít (c. 27),
họ nhìn nhận Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai.
Bởi thế họ hy vọng Ngài sẽ cho họ quà tặng của thời thiên sai.
“Xin thương xót chúng tôi” là xin đưa chúng tôi ra khỏi cảnh mù lòa.
Đức Giêsu đã muốn chữa hai anh một cách kín đáo, tại nhà của Phêrô.
Ngài không chữa cho họ ngay lập tức, nhưng lại hỏi họ một câu rất lạ:
“Các anh có tin là tôi có thể làm được điều ấy không?” (c. 28).
Chỉ khi họ tuyên xưng niềm tin vào quyền năng của Ngài,
Đức Giêsu mới mở mắt cho họ bằng một lời và một chạm nhẹ (c. 29).
Niềm vui quá lớn khiến họ không giữ được lặng thinh (c. 31).
Giáng Sinh là lễ của Ánh sáng, Ánh sáng ngay giữa đêm đen.
Ơn của Mùa Vọng là ơn thoát ra khỏi cảnh tăm tối mù lòa.
Mù lòa đâu phải chỉ là chuyện của 37 triệu người mù trên thế giới.
Mù lòa về chính mình, mù lòa vì không thấy những Ladarô trước cửa,
mù lòa về chính những người trong gia đình, trong giáo xứ,
mù lòa vì không thấy Chúa vẫn đang hiện diện gần bên,
những mù lòa ấy cũng nguy hiểm không kém và cần được chữa lành.
Xin Giêsu đụng vào mắt tôi để tôi được sáng,
và để tôi giúp người khác cũng được thấy ánh sáng Giêsu.
Cầu nguyện:
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu dãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
6 THÁNG MƯỜI HAI
Sinh Bởi Thánh Thần
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng
trên bà” (Lc 1,35). Giáo Hội nhận Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, làm nguyên mẫu
(prototype) của mình. Chân lý này được diễn tả bởi Công Đồng trong chương cuối
Hiến Chế Giáo Hội. Hôm nay, một lần nữa, chúng ta ý thức về chân lý này.
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng
trên bà”. Trong ánh sáng của những lời ấy, Mẹ Thiên Chúa đã không được nhìn thấy
như là nguyên mẫu và là hình ảnh của Giáo Hội đó sao?
Giáo Hội được khai sinh qua biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống vào ngày Lễ
Ngũ Tuần. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ khi các vị đang tề tựu
trong Căn Gác Thượng cùng với Đức Ma-ri-a. Giáo Hội được khai sinh khi “quyền
năng Đấng Tối Cao” tuôn tràn Thánh Thần trên các Tông Đồ để giúp họ vượt thắng
những yếu đuối của mình và khỏi vấp ngã khi phải đương đầu với sự bách hại vì
Tin Mừng.
Mừng kính Đức Ma-ri-a Vô Nhiễm, phụng vụ dẫn chúng ta trở về với buổi ban
đầu của lịch sử sáng tạo và cứu độ. Thật vậy, thậm chí phụng vụ đưa chúng ta trở
về trước cả buổi bình minh sáng tạo nữa.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 06/12
Thánh Nicôla, Giám
mục
Is 29, 17-24; Mt 9,
27-31.
LỜI SUY NIỆM: Khi Đức Giêsu về tới nhà, thì hai người mù ấy tiến lại gần. Người nói với
họ: “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?” Họ đáp: “Thưa Ngài, chúng
tôi tin”
Chúa Giêsu luôn
đáp lại lời cầu xin Người với đức tin, bằng cách chữa lành bệnh tật, hoặc tha
thứ tội lỗi: “Cứ về bình an, lòng tin của anh đã cứu chữa anh, các anh tin thế
nào thì được như vậy…”
Lạy Chúa Giêsu.
Chúa luôn nhận lời cầu nguyện. Xin cho chúng con luôn đặt mình trước mặt Chúa để
cầu xin những nhu cầu cần thiết cho phần xác cũng như phần hồn, để nhận được ơn
chữa lành và sự bình an của Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 06-12: Thánh
NICÔLA
Giám Mục – (Thế kỷ
IV)
Thánh Nicôla, vị đại thánh bình dân, nhưng chỉ tìm được tiểu sử 200 năm
sau khi Ngài chết. Người ta có thể nói rằng: Ngài đích thực là giám mục Myra,
đã hiện ra với vua Constantinô trong một giấc mơ. Sau đó dường như các nhà chép
sữ lại lẫn lộn với Nicola người Simon đã bị tù dưới thời Diocletianô, đã xây một
tu viện và được chôn cất tại vương cung thánh đường thành Myra. Trừ sự kiện
trên, nảy sinh ra nhiều huyền thoại và hơn nghìn năm sau, thánh Nicôla nhân hậu
đã thành danh tiếng khắp thế giới.
Huyền thoại kể lại rằng, ở Patara, thuộc tỉnh Lycia, hai vợ chồng giàu có
Anna và Euphêmiô vì không con đã cố gắng tìm an ủi trong công việc từ thiện.
Thiên Chúa chúc lành cho lòng bác ái của họ. Cuối cùng họ có được một mụn con
và đăt tên cho con là Nicôla, có nghĩa là “sự chiến thắng của dân”. Đây cũng là
tên cậu Ngài, vị giám mục Myra.
Ông cậu đã tiên đoán rằng: Nicôla sẽ là “Mặt trời soi chiếu thế gian”.
Khi mới tắm rửa lần đầu, con trẻ đặc biệt này đã chắp tay, đứng trong thau nước
hai giờ liền, mắt hướng về trời. Thứ tư và thứ sáu, Ngài không chịu bú cho tới
chiều để ăn chay. Chị vú nuôi sợ Ngài chết, nhưng trái lại, Ngài đã trở nên một
con trẻ kiêu hùng.
Nicôla có nhiều đức tính tốt như một trẻ em gương mẫu. Cha mẹ mất sớm.
Nicôla thừa hưởng một gia tài kếch xù. Nhưng Ngài lại coi tất cả tài sản này
như của Chúa cho vay. Người phân phát cho những người bất hạnh và thực hiện đức
bác ái như một sự tế nhị dễ thương. Chẳng hạn một người cha có ba cô con gái,
ông tính cho con làm nghề bất lương để có tiền cưới hỏi. Nhưng rồi đêm kia, ông
thấy ba túi vàng chuyển qua cửa sổ, và có thể làm lễ cưới hỏi cách lương thiện
cho các cô. Khi biết được người cho, ông đến xin thánh Nicôla cầu cho ơn tha thứ
cho dự tính đáng chúc dữ của mình. Rồi bất kể sự ngăn cấm của thánh nhân, ông
đã kể lại khắp nơi cử chỉ bác ái của thánh nhân đã thực hiện để cứu 3 người phụ
nữ khỏi cảnh bất lương như thế nào.
Nicôla đã ao ước hiến đời mình cho Thiên Chúa. Ông cậu giám mục của Ngài
khi sắp chết đã truyền chức và đặt Ngài làm bề trên tu viện thánh Sion. Khi
Ngài du hành qua Thánh địa, cơn bão nổi lên, các hành khách run sợ, Nicôla cầu
nguyện cho họ và các cơn sóng dịu xuống, con tàu êm đềm theo đuổi cuộc hành
trình. Những cuộc can thiệp khác nữa làm cho thánh Nicôla trở thành Đấng bảo trợ
những người vượt biển. Các thủy thủ làm chứng rằng khi bị đắm chìm, nhớ cầu tới
Ngài là thấy Ngài đến cầm tay lái đưa tới cảng, rồi biến đi…
Khi những người thoát nạn tới nhà nguyện tu viện tạ ơn, người ta ngạc
nhiên vì thấy vị cứu tinh của mình đang chìm đắm trong kinh nguyện như không hề
rời bỏ nơi này. Họ không cầm nổi những lời tán tụng biết ơn xuất phát tự cõi
lòng, nhưng thánh nhân bảo họ: “Hãy chỉ nên ngợi khen Chúa về cuộc cứu thoát
này, bởi vì đối với tôi, tôi chỉ là một tội nhân và một đầy tớ vô dụng”.
Và Ngài đã cho biết rằng, nguy hiểm họ vừa trải qua là hình phạt vì các tội
kín, cũng như sự hối lỗi của các thủy thủ đã cứu thoát họ.
Nicôla xuống Alexandria là nơi Ngài đã chữa lành các bệnh nhân, rồi đi
thăm thánh Antôn ở Ai cập. Sau cùng, Ngài đến Giêrusalem kính các nơi thánh và
trải qua ít tuần trong hang mà Thánh Gia đã dừng lại khi trốn qua Ai cập. Nơi
đây, sẽ xây cất một thánh đường thánh Nicôla. Vừa mới trở về Myra, nơi các tu
sĩ đang nóng lòng chờ đợi cha họ trở về, Ngài đã tăng gấp một cách lạ lùng đống
bánh cho cả trăm người ăn.
Giám mục Myra qua đời, các giám mục miền Lycia cân nhắc để chọn vị mục tử
mới. Một sứ giả từ trời xuống báo tin cho vị niên trưởng biết, người được chọn
là linh mục Nicôla ngày mai sẽ tới mhà thờ trước hết. Trời vừa sáng, Nicôla tới
nhà thờ theo lòng sốt sắng và nghe loan báo mình làm giám mục. Ngài muốn chạy
trốn, nhưng phải theo ý nguyện của Đấng Cao Cả hơn mình, trời cao chúc lành cho
Ngài: dịp lễ đầu tay, thánh Nicôla đã làm cho một em bé bị phỏng sống lại. Từ kỷ
niệm này, người ta hay kêu cầu thánh nhân những khi gặp nguy hiểm vì lửa.
Trở thành mục tử cả dân, thánh nhân rất cưng chiều những người bị áp bức,
mồ côi, bênh hoạn và tù tội hơn. Ban đêm, Ngài cầu nguyện, nghỉ một chút trên đất,
ăn ngày một bữa, mặc áo quần khiêm tốn khác với hình ảnh ngày nay nhiều. Những
y phục lộng lẫy theo hình vẽ ấy, Ngài chỉ mặc vào những ngày đại lễ.
Đời sống tín hữu xáo trộn vì những cuộc bách hại: vị giám mục bị lưu đày,
đánh đập. Cuộc trở lại của vua Constantinô đem lại tự do. Trên đường về, Ngài
rao giảng Chúa Kitô, cải hóa lương dân, phá đổ các đền thờ và ngẫu tượng. Ngài
làm nhiều phép lạ như mưa. Các thế hệ tương lai, còn kể lại huyền thoại của ba
đứa trẻ bị một đồ tể tham lam độc ác cắt cổ và để trong thùng muối ướp thịt đã
sống lại nhờ lời cầu nguyện của thánh Nicôla.
Các truyện có nhiều thêm thắt như: Truyện người gian giảo có cây gậy đầy
vàng, truyện đứa trẻ bị quỉ giả bộ ăn xin bóp cổ, nhưng đã được thánh nhân cứu
sống, truyện thánh nhân dàn xếp giữa thày thuốc với bệnh nhân hiếm muộn con
cái, hứa tặng chén vàng mà khi được lại không giữ lời hứa. Gần với sự thực hơn
là việc các nhà buôn lúa gạo ở Sycily nhờ sự bao bọc lạ lùng của giám mục đã
nuôi những người đói mà không giảm thiểu của dự trữ. Vua Constantinô cũng mơ thấy
thánh nhân đến gặp để cứu cuộc xử tội bất công của ba viên chức. Sau đó các người
bị giữ kêu cầu Ngài giải cứu và được nhận lời bằng một phép lạ. Thế là các nạn
nhân bị xử oan hay kêu cầu Ngài.
Sau khi hoàn tất bao nhiêu việc lành thiêng liêng lẫn vật chất, thánh
Nicôla muốn vào cõi đời đời. Bảo vệ giáo thuyết công giáo tinh tuyền, Ngài đã
chống lại lạc giáo tham dự cộng đồng Nicea. Khi thấy sắp kết thúc cuộc đời.
Ngài muốn lui về tu viện, nơi mà buổi thiếu thời Ngài đã tự hiến cho Thiên
Chúa, và chính tại nơi đây, Ngài phú dâng linh hồn trong tay Chúa.
Năm 1087, Myra rơi vào tay người Thổ, người ta vội đưa hài cốt vị thánh về
Bari gần Naples. Từ đó, huyền thoại đời Ngài lại lan rộng. Mỗi miền nói theo
cách của mình. Dân ca Đông phương coi Ngài như một vị Chúa trên trời. Đối với
người Nga, Ngài là thừa kế thần linh lo chuyện gặt hái. Siberia cho Ngài là người
chế tạo rượu “bia”.
Các vua nước Pháp sùng kính Ngài. Các chủ tịch luật sư đoàn cầm gậy có
hình thánh Nicôla. Bên tây phương, lễ thánh Nicôla trở thành lễ của thiếu nhi
vì làm sao các em lại không yêu mến vị thánh nhân hậu đã cứu ba đứa trẻ đi mót
lứa được ? Vị giám mục đầy huyền bí này sau cùng đã trở thành ông già Noel ngày
nay .
(daminhvn.net)
06 Tháng Mười Hai
Hai Cánh Cửa Sổ
Từ cánh cửa sổ nhìn vào thiên nhiên, người ta có thể có nhiều cái nhìn
khác nhau về cuộc sống.
Trong một vở kịch của Samuel Beckett, một nhân vật đã kể lại như sau:
“Tôi biết có một tên chán đời lúc nào cũng nghĩ rằng ngày tận thế đang đến. Tôi
thường đến thăm hắn trong dưỡng trí viện. Tôi nắm tay hắn và dìu hắn đến bên cửa
sổ. Tôi nói với hắn: “Nhìn kìa, cả một cánh đồng bắp xanh tươi… Nhìn kìa, những
cánh bướm đang phất phới. Còn gì đẹp bằng!”. Nhưng hắn gỡ tay tôi ra và trở về
góc phòng. Mặt mày hắn hớt hải tái mét. Tất cả những gì tôi chỉ cho hắn chỉ là
một đống tro tàn xám xịt”.
Có một cánh cửa sổ khác từ đó người ta chỉ có thể nhìn thấy cảnh đẹp mà
thôi. Ðó là cánh cửa sổ nhỏ tại một nhà nguyện ở phía Nam Ái Nhĩ Lan. Tất cả mọi
cánh cửa sổ trong nhà nguyện này đều được làm bằng kính trên đó có vẽ Ðức Kitô
và các môn đệ của Ngài. Duy chỉ có một cánh cửa sổ là không có hình vẽ. Xuyên
qua tấm kính trong suốt của cánh cửa sổ này, người ta có thể nhìn thấy một
quang cảnh thật tươi mát, đó là một cái hồ nước trong xanh nằm giữa những ngọn
đồi cỏ lúc nào cũng xanh tươi. Bên dưới cánh cửa sổ, người ta đọc được câu kinh
thánh như sau: “Trời cao tường thuật vinh quang Chúa. Thanh không kể ra sự nghiệp
của Ngài”.
Câu chuyện của hai cánh cửa sổ trên đây gợi lên cho chúng ta vần thơ: Hai
người cùng nhìn xuyên qua chấn song cửa của nhà tù. Một người chỉ thấy có bùn
nhơ, một người lại nhìn thấy những vì sao.
Mùa Vọng là thời gian của hy vọng.
Chúng ta được mời gọi để đặt tất cả tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa.
Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người.
Tiếp theo bao nhiêu vấp phạm và phản bội của con người, Thiên Chúa vẫn đeo đuổi
chương trình của Ngài. Người vẫn tiếp tục yêu thương con người. Nơi hình ảnh đã
hơn một lần hoen ố vì tội lỗi, Thiên Chúa vẫn nhìn thấy phản chiếu vẻ đẹp cao
sang của chính Ngài. Xuyên qua cánh cửa sổ nhỏ của mỗi người, Thiên Chúa vẫn
còn nhìn thấy cảnh đẹp của lòng người.
Chúng ta cũng được mời gọi để tiếp tục tin tưởng nơi con người. Dù thấp
hèn tội lỗi đến đâu, dù hung hãn độc ác đến đâu, mỗi một con người đều là hình ảnh
cao vời của Thiên Chúa, mỗi một con người đều xứng đáng để tiếp tục tin tưởng,
được yêu thương.
Tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa, tin yêu nơi con người, chúng ta cũng
được mời gọi để không thất vọng về chính bản thân. Ðau khổ có chồng chất, tội lỗi
có ngập tràn, mỗi người chúng ta vẫn là đối tượng của một tình yêu cá biệt…
Thiên Chúa yêu thương tôi, Thiên Chúa đang thực hiện cho tôi những gì là thiện
hảo nhất: đó phải là tư tưởng cơ bản hướng dẫn tất cả Mùa Vọng của chúng ta. Từ
bên cánh cửa sổ của tâm hồn nhìn vào cuộc đời, chúng ta hãy nhận ra những vì
sao của hy vọng, những cánh đồng xanh tươi của lạc quan.
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét