21/01/2020
Thứ Ba tuần 2 thường
niên
Thánh Anê, trinh nữ, tử
đạo.
Lễ nhớ.
* Anê là một thiếu
nữ Rôma, mới từ mười hai đến mười lăm tuổi đã tình nguyện chết vì đức tin khi
cuộc bách hại của hoàng đế Đi-ô-cơ-lê-xi-a-nô tới hồi khốc liệt nhất (năm 305).
Đó là sự việc thánh
Am-rô-xi-ô đã ghi lại, và là lý do khiến Hội Thánh Rôma tưởng nhớ thánh nữ với
hết tình yêu mến.
Bài Ðọc I: (năm
II) 1 Sm 16, 1-13
"Samuel xức dầu cho Ðavít trước mặt các anh em ngài; và Thánh Thần
ngự xuống trên ngài".
Trích sách Samuel quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Samuel rằng: "Ta đã loại bỏ
Saolê không cho cai trị Israel nữa, thế mà ngươi còn thương khóc nó đến bao giờ?
Ngươi hãy đổ dầu cho đầy bình và lên đường; Ta sai ngươi đến nhà Isai dân thành
Bêlem. Vì Ta chọn một người con của ông ấy lên làm vua". Samuel thưa:
"Làm sao mà đi được? Vì nếu Saolê hay biết việc đó, ông sẽ giết con".
Chúa nói: "Ngươi hãy tự tay bắt một con bê trong đàn, và nói: 'Tôi đến để
dâng lễ tế lên cho Chúa'. Ngươi sẽ mời Isai đến để dự lễ tế, Ta sẽ tỏ cho ngươi
biết việc phải làm, và sẽ chỉ cho ngươi biết phải xức dầu cho ai?"
Vậy Samuel làm như lời Chúa dạy và đi đến Bêlem. Các vị kỳ lão trong
thành bỡ ngỡ chạy đến Samuel mà nói rằng: "Ông đem bình an đến
chăng?" Ông đáp: "Phải, bình an! Tôi đến để dâng lễ tế cho Chúa. Các
ông giữ mình thanh sạch và cùng tôi đến dâng của lễ". Vậy ông làm cho Isai
và con cái ông ấy được thanh sạch và mời họ đến dâng lễ tế. Khi (họ) vào nhà,
Samuel gặp ngay Êliab và nói: "Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước
mặt Chúa đây không?" Và Chúa phán cùng Samuel: "Ðừng nhìn xem diện mạo,
vóc cao, vì Ta đã loại nó rồi; Ta không xem xét theo kiểu con người, vì chưng
con người nhìn xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn". Isai gọi
Abinađab đến và dẫn đến trước mặt Samuel. Samuel nói: "Cũng không phải
Chúa chọn người này". Isai cho dẫn Samma đến. Samuel lại nói: "Nhưng
Chúa cũng không chọn người này". Isai lần lượt đem bảy đứa con mình ra
trình diện với Samuel. Samuel nói với Isai: "Chúa không chọn ai trong những
người này". Samuel nói tiếp: "Tất cả con ông có bấy nhiêu đó phải
không?" Isai đáp: "Còn một đứa út nữa, nó đi chăn chiên". Samuel
nói với Isai: "Ông hãy sai người đi gọi nó về, vì chúng ta không ngồi vào
bàn ăn trước khi nó về". Isai sai người đi tìm đứa con út. Ðứa út này có
mái tóc hoe, có đôi mắt xinh và gương mặt đẹp. Chúa phán: "Ngươi hãy chỗi
dậy, xức dầu lên nó, vì chính nó đó". Samuel lấy bình dầu ra, xức lên nó
trước mặt các anh em, và Thánh Thần Chúa ngự trong Ðavít từ ngày đó trở đi. Còn
Samuel đứng dậy trở về Rama.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 20. 21-22.
27-28
Ðáp: Ta đã gặp Ðavít là tôi tớ
của Ta (c. 21a).
Xướng: 1) Xưa trong cuộc thị kiến, Chúa đã phán cùng bầy tôi Chúa:
"Ta đội mão triều thiên cho vị anh hùng, Ta cất nhắc người được kén chọn tự
trong dân. - Ðáp.
2) Ta đã gặp Ðavít là tôi tớ của Ta. Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người,
để tay Ta bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh người. -
Ðáp.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha tôi, là Thiên Chúa và Tảng
Ðá cứu độ của tôi". Và Ta sẽ đặt người làm trưởng tử, cao sang hơn các vua
chúa ở trần gian. - Ðáp.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta
sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 2, 23-28
"Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày
Sabbat".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa
bứt lúa. Tức thì những người biệt phái thưa Người rằng: "Kìa Thầy xem. Tại
sao ngày Sabbat người ta làm điều không được phép như vậy?" Người trả lời
rằng: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy điều mà Ðavít đã làm khi ngài và các
cận vệ phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata
thế nào, và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã
cho cả các cận vệ cùng ăn thế nào?" Và Người bảo họ rằng: "Ngày
Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat; cho nên
Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Linh hồn của
Lề Luật
Nói về luật pháp của con người, triết gia Schopenhauer đã ví von như sau:
"Luật pháp cũng giống như một mạng nhện, những con ong gấu thì vượt qua một
cách dễ dàng, những thứ ruồi nhặng thì kẹt lại". Ðây là một sự thật đau
lòng mà chúng ta chứng kiến mỗi ngày trên khắp thế giới: những con ong gấu, tức
những người làm ra luật, những kẻ có quyền thế trong tay, thường chiu qua những
kẽ hở của luật pháp một cách dễ dàng; thế lực của đồng tiền, vây cánh, ô dù,
giúp họ luôn đứng trên luật pháp mà chính họ lập ra.
Vào thời Chúa Giêsu không có chuyện ô dù, nhưng có một hạng người tự cho
mình có quyền lập ra luật, bắt người khác giữ luật, còn mình thì không muốn lay
thử một ngón tay. Tin Mừng hôm nay là khởi đầu của một cuộc đối đầu triền miên
giữa Chúa và hạng người này, tức là nhóm Biệt phái về vấn đề luật pháp. Chúa
Giêsu không phải là một người vô kỷ luật. Ngài sinh ra khi cha mẹ Ngài tuân
theo lệnh kiểm tra dân số do Hoàng đế La mã ban hành; sau này Ngài vẫn đóng thuế
như bất cứ một công dân của Ðế quốc nào. Trong lãnh vực tôn giáo Ngài tuân giữ
lề luật của Môsê. Ngài cũng chịu cắt bì, được hiến dâng trong Ðền thờ vì là con
trai đầu lòng, hằng năm lên Yêrusalem để mừng lễ, mỗi ngày hưu lễ Ngài cũng đến
Hội đường.
Tuy nhiên, như Chúa Giêsu đã có lần tuyên bố Ngài đến là để kiện toàn lề
luật, và kiện toàn lề luật là gì nếu không phải là mặc cho nó linh hồn là tình
yêu; không có tình yêu thì lề luật chỉ là những thây chết, nhưng nói đến tình
yêu là nói đến con người. Như vậy luật lệ là vì con người, là để giúp con người
sống chứ không phải để đàn áp và giết chết con người; luật lệ chỉ có ý nghĩa và
giá trị khi nó là một biểu lộ của tôn trọng và yêu thương đối với con người;
trái lại, tất cả những luật lệ nào đi ngược lại với sự sống và tình yêu, đều là
những luật lệ bất công. Trong Thông điệp "Tin Mừng Sự Sống" ban hành
năm 1995, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi các tín hữu mạnh mẽ và can đảm
chống lại những thứ luật lệ xúc phạm đến chính sự sống của con người, như luật
cho phép phá thai, luật cho phép kết liễu cuộc sống của bệnh nhân.
Là một xã hội, Giáo Hội cũng ban hành luật lệ. Tất cả lề luật của Giáo Hội
được tóm gọn trong một giới luật duy nhất và nền tảng, đó là yêu thương. Ăn
chay, giữ ngày Chúa nhật hoặc bao nhiêu khoản luật khác liên quan đến đời sống
hôn nhân, tất cả đều qui về một luật duy nhất là để giúp các tín hữu sống tôn
trọng và yêu thương con người. Như thế, người Kitô hữu chỉ có một giới răn để
tuân giữ, đó là giới răn yêu thương, và họ cũng chỉ có một tinh thần duy nhất để
tuân giữ lề luật, đó là tình yêu thương.
Nguyện xin Chúa hướng dẫn để chúng ta luôn sống đạo theo tinh thần yêu
thương ấy.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba, Tuần II TN
Bài đọc: Heb 6:10-20; I Sam 16:1-13; Mk 2:23-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người
quí trọng hơn luật lệ.
Phẩm giá con người rất quí trọng trước mặt Thiên Chúa. Các Lề Luật
Ngài ban là để bảo vệ và phục vụ con người. Trong sự quan
phòng của Thiên Chúa, Ngài không bao giờ muốn cho con người phải làm nô lệ cho
Lề Luật và tội lỗi; nhưng muốn Lề Luật phục vụ con người và làm
cho đời sống con người được bảo vệ và an toàn hơn.
Các Bài Đọc hôm nay nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa dành cho con
người. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, tác giả tường thuật việc Thiên Chúa chọn
người và phong vương cho một trẻ chăn chiên nhỏ nhất và không ai ngờ trong
những người con của ông Jesse; vì Ngài nhìn thấu tâm hồn cao đẹp của David.
David đã trở thành vị vua sáng giá nhất của Israel. Trong Phúc Âm,
các Pharisees tố cáo với Chúa Giêsu: các môn đệ của Ngài đã vi phạm
luật của ngày Sabbath. Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài có lý do
làm như thế để bảo vệ sự sống. Ngài nhắc cho họ biết
luật lệlàm ra là vì con người, chứ không phải con người cho luật lệ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Người phàm chỉ thấy điều mắt
thấy, Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.
2.1/
Cuộc lựa chọn người làm vua trong số các con của ông Jesse: Thiên Chúa hứa Ngài sẽ hành
động trong ngôn-sứSamuel ngay tại nơi đang diễn ra cuộc lựa chọn người làm vua
trong gia đình ông Jesse. Cả ngôn sứ Samuel và ông Jesse đều không
hay biết hậu quả của những gì sắp xảy ra.
- Phản ứng của ngôn-sứ Samuel: Thoạt trông thấy Eliab, ông
nghĩ: "Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ởtrước mặt Đức
Chúa đây!" Nhưng Đức Chúa phán với ông Samuel: "Đừng xét theo hình
dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không
nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa
thì thấy tận đáy lòng."
- Ông Jesse gọi Abinadab và cho cậu đi qua trước mặt Samuel, nhưng ông
Samuel nói: "Cả người này, Đức Chúa cũng không chọn." Ông Jesse
cho Samah đi qua, nhưng ông Samuel nói: "Cả người này, Đức Chúa cũng
không chọn." Ông Jesse cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Samuel,
nhưng ông Samuel nói với ông Jesse: "Đức Chúa không chọn những người
này."
2.2/
Thiên Chúa chọn một trẻ út chăn chiên làm vua cai trị dân Người: Samuel lại hỏi ông Jesse:
"Các con ông có mặt đầy đủ chưa?" Ông Jesse trả lời:
"Còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên." Ông Samuel liền nói với ông
Jesse: "Xin ông cho người đi tìm nó về, chúng ta sẽ không nhập tiệc
trước khi nó tới đây."
- Ông Jesse cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và
khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa phán với ông Samuel: "Đứng dậy, xức dầu tấn
phong nó đi! Chính nó đó!" Ông Samuel cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa
các anh của cậu. Thần khí Đức Chúa nhập vào David từ ngày đó trở đi.
- Chính ông Jesse cũng không ngờ Thiên Chúa chọn David, một đứa trẻ út
đang chăn chiên ngoài đồng. Đó là lý do mà ông không buồn cho gọi con về; nhưng
Thiên Chúa nhìn thấu tâm hồn đẹp và các việc tốt lành của David. Ngài muốn chọn
cậu làm vua cai trị dân Ngài và David đã trở thành vị vua nổi
danh nhất của dân tộc Israel.
3/ Phúc Âm: Con Người làm chủ luôn cả ngày
Sabbath.
3.1/
Người Pharisees tố cáo các môn đệ Chúa Giêsu vi phạm ngày Sabbath: Vào ngày Sabbath, Đức Giêsu đi
băng qua một cánh đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ bắt đầu bứt lúa. Người
Pharisees liền nói với Đức Giêsu: "Ông coi, ngày Sabbath mà họ làm gì
kia? Điều ấy đâu được phép!" Có tất cả 39 luật về ngày
Sabbath ngăn cấm không cho làm việc, và các môn đệ phạm 4 luật bằng hành động
bứt lúa để ăn: gặt (bứt lúa), xay (vò lúa trong tay), sàng (thổi vỏ đi),
và chuẩn bịbữa ăn (làm lúa sẵn sàng để ăn). Sự tỉ mỉ của Luật
có thể có thể làm chúng ta lắc đầu; nhưng đối với các Rabbi, nó liên
quan đến tội, và có thể gây ra cái chết. Đó là lý do họ tố cáo
các môn đệ với Chúa Giêsu, và họ chờ Chúa sửa phạt các môn đệ.
3.2/
Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài: Chúa Giêsu đưa ra một trường hợp riêng đã được
ghi lại trong Cựu Ước, và sau đó, Ngài thiết lập một qui luật chung về ngày
Sabbath.
(1) Trường hợp vua David (I Sam 21:1-6): Người đáp: "Các ông chưa
bao giờ đọc trong Sách sao? Ông David đã làm gì, khi ông và thuộc hạ bị thiếu
thốn và đói bụng? Dưới thời thượng-tế Abiathar, ông vào nhà Thiên Chúa, ăn
bánh tiến, rồi còn cho cả thuộc hạ ăn nữa. Thứ bánh này không ai
được phép ăn ngoại trừ tư tế." Chúa Giêsu có ý muốn nói: trong
trường hợp phải bảo vệ sự sống, con người có thể vi phạm Lề Luật.
(2) Luật chung của ngày Sabbath: Người nói tiếp: "Ngày Sabbath được
tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabbath. Bởi đó,
Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabbath." Điều này hiển nhiên, vì
con người được Thiên Chúa tạo dựng trước khi luật về ngày Sabbath ra đời.
Con người không được tạo dựng để trở thành nạn nhân hay làm nô lệ cho
luật lệ của ngày Sabbath. Sở dĩ có luật lệ về ngày Sabbath
là để bảo vệ con người, làm cho con người biết thân xác họ cần
được nghỉ ngơi, và linh hồn họ cần được nuôi dưỡng bởi thức ăn tinh
thần.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Phẩm giá con người chúng ta rất quí trọng trước mặt Thiên Chúa. Ngài đã
hy sinh Người Con của Ngài để cứu chúng ta thóat khỏi làm nô lệ cho Lề Luật,
tội lỗi, và sự chết.
- Nhờ lễ tế hy sinh của Người Con, chúng ta có thể đến
trực tiếp với Thiên Chúa mà không cần qua trung gian; đến bất cứlúc nào chứ không
phải đợi một ngày cố định trong năm.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
21/01/2020
THỨ BA TUẦN 2 TN
Mc 2,23-28
Mc 2,23-28
ĐƯỢC LÀM GÌ NGÀY SA-BÁT?
“Ngày sa-bát được tạo ra cho loài người… Con Người làm chủ
luôn cả ngày sa-bát.” (Mc 2,27-29)
Suy niệm: Đối với người Do Thái, ngày sa-bát – đối với chúng
ta là ngày Chúa Nhật – là ngày phải được thánh hóa theo lệnh Chúa truyền. Các
luật lệ đặt ra phải giúp người ta đạt được mục đích đó. Việc các môn đệ bứt vài
bông lúa “vò trong tay để ăn” cho đỡ đói không thể là hành vi
vi phạm luật thánh thiêng của ngày sa-bát. Chúa Giê-su trưng dẫn từ Sách Thánh:
Khi Đa-vít và đoàn tuỳ tùng bị đói, các tư tế cho phép lấy bánh tiến trong đền
thờ ăn để cứu đói. Chúa mới là chủ của ngày sa-bát. Thế nên đừng vì soi mói tiểu
tiết mà phế bỏ điều thiết yếu lớn lao hơn cả, đó là “công lý, lòng nhân
và thành tín” (Mt 23,23) để rồi biến con người, thay vì là chủ, trở
thành nô lệ của lề luật.
Mời Bạn: Thánh hoá ngày Chúa Nhật không chỉ là tham dự thánh
lễ, mà còn là thực thi điều thiết yếu nhất là”công lý, lòng nhân và thành
tín.” Đó là làm việc tông đồ bác ái, tham gia những hoạt động công
ích, giúp phát triển cộng đồng, gia tăng việc chăm sóc gia đình, bồi dưỡng giáo
lý… Khi thực hiện như thế, con người làm đúng ý Chúa, vì Ngài là chủ ngày
sa-bát, Ngài muốn dùng thời gian này để con người biết ơn Ngài và mưu ích cho
tha nhân.
Chia sẻ: Trong bối cảnh xã hội hiện nay,
việc “kiêng việc xác ngày Chúa Nhật” cần phải được thực hiện thế nào?
Sống Lời Chúa: Ngày Chúa Nhật, bạn tham dự thánh lễ và có những hoạt
động thiết thực để thánh hoá ngày đó.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin tôn thờ Chúa là Chủ thời gian, là Chủ vận mệnh đời
con. Xin giúp con dùng thời giờ Chúa ban cho nên lành nên thánh. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
Con Người làm chủ ngày sabát
Trong thế giới quá cạnh
tranh hiện nay, chúng ta cần được nhắc nhở về chuyện nghỉ ngơi để sống cho
mình, cho nhau, cho Chúa. Ngày Chúa Nhật là thời gian tuyệt vời để sống cả ba
chiều kích ấy.
Suy niệm:
Các kitô hữu gốc Do
Thái của Giáo Hội sơ khai
thường bị chê trách vì
đã lơ là trễ nải trong việc giữ ngày sabát.
Giữ ngày sabát là điều
hết sức quan trọng đối với người theo Do Thái giáo
Ai vi phạm ngày này có
thể bị xử tử (Xh 31, 14), bị ném đá (Ds 15, 32-36).
Qua bài Tin Mừng hôm
nay, Đức Giêsu hẳn đã soi sáng cho vấn đề này.
Câu chuyện xảy ra vào
một ngày sabát.
Khi thầy trò băng qua
đồng lúa, các môn đệ đã bứt các bông lúa.
Và hẳn họ đã vò lúa
trong tay trước khi có thể ăn hạt bên trong.
Theo sách Đệ nhị luật
(23, 26) thì hành động này được phép làm :
“Khi vào đồng lúa của
người đồng loại, anh em có thể lấy tay bứt bông lúa.”
Nhưng theo các kinh
sư, điều này bị cấm làm trong ngày sabát,
lý do là vì bứt lúa và
vò trong tay cũng giống với hành vi gặt và xay lúa,
mà gặt và xay lúa là một
trong ba mươi chín việc không được phép làm ngày sabát.
Từ đó người Pharisêu kết
luận việc các môn đệ bứt lúa là phạm đến luật Môsê.
Ngày nay chúng ta có
thể buồn cười về chuyện này,
nhưng nó nói lên việc
các kinh sư vì sợ người ta phạm luật
nên sau này đã thêm thắt
những quy định tỉ mỉ chi li.
Đức Giêsu đã trả lời
người Pharisêu bằng đức cách trưng dẫn chuyện vua Đavít.
Trong truyền thống Do
Thái, vua này thường được coi là đạo đức mẫu mực.
Đavít đã làm điều
không được phép làm, đó là ăn bánh tiến (x. 1 Sm 21, 1-6).
Bánh này gồm mười hai ổ
lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24, 5-9).
Vào mỗi ngày sabát,
bánh mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế.
Khi kể câu chuyện về
vua Đavít, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng
nếu Đavít và các thuộc
hạ có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh
thì Đức Giêsu và các
môn đệ trong trường hợp nào đó
cũng có thể được miễn
giữ ngày sabát thánh (x. 1 Mac 2, 34-38).
Theo Đức Giêsu, ngày
sabát được tạo cho loài người, chứ không phải ngược lại.
Người Pharisêu có lẽ
đã quên đi mục đích của việc giữ luật ngày sabát.
Thiên Chúa lập nên
ngày sabát để loài người có thời gian nghỉ ngơi
hầu nhớ đến công trình
tạo dựng và giải phóng của Ngài (Đnl 5, 14-15).
Ngày sabát đúng là
ngày của Chúa, dành cho Chúa,
nhưng nó cũng là ngày
cho loài người sau sáu ngày làm việc vất vả.
Ngày nay chúng ta
không còn giữ ngày sabát nữa,
nhưng giữ ngày Chúa Nhật,
ngày của Chúa.
Cám ơn vị nào đã lần đầu
tiên dùng từ này để chỉ ngày đầu tiên của tuần.
Trong thế giới quá cạnh
tranh hiện nay, chúng ta cần được nhắc nhở
về chuyện nghỉ ngơi để
sống cho mình, cho nhau, cho Chúa.
Ngày Chúa Nhật là thời
gian tuyệt vời để sống cả ba chiều kích ấy.
Cầu nguyện:
Ngày lại ngày, lạy
Thiên Chúa,
tôi sẽ đứng trước
Người chiêm ngưỡng dung nhan,
hai tay cung kính,
lạy Thiên Chúa muôn loài,
tôi sẽ đứng trước
Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Dưới bầu trời bao
la,
trong cô đơn và thầm
lặng,
với tấm lòng thanh
tịnh,
tôi sẽ đứng trước
Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Trong thế giới ồn
ào vì nhọc nhằn,
huyên náo vì đấu
tranh,
giữa đám đông hối hả
lăng xăng,
tôi sẽ đứng trước Người
chiêm ngưỡng dung nhan.
Và khi đã hoàn tất
việc đời,
lạy Thiên Chúa muôn
loài,
một mình, lặng lẽ,
tôi sẽ đứng trước
Người chiêm ngưỡng dung nhan.
(R. Tagore - Ðỗ
Khánh Hoan dịch)
Lm Antôn Nguyễn
Cao Siêu, SJ
Hãy
Nâng Tâm Hồn Lên
21 THÁNG GIÊNG
Những Người Thất Nghiệp - Mối
Ưu Tư Nặng Trĩu Lòng Tôi
Tôi đặc biệt cảm
thông tận đáy lòng mình hoàn cảnh của vô số anh chị em thất nghiệp. Họ muốn làm
việc, nhưng không thể kiếm được một chỗ làm. Nhiều trường hợp, đó bởi vì nạn kỳ
thị tôn giáo, giai cấp, chủng tộc, hay ngôn ngữ. Không có việc làm hay thiếu việc
làm – tình trạng ấy gây ra nỗi chán chường và dễ làm cho người ta tự cảm thấy
mình thừa thãi. Đó là nguyên nhân của nhiều xung đột trong các gia đình và thường
dẫn đến bao phiền não lắm khi không thể tả xiết. Tình trạng ấy vừa làm suy yếu
cấu trúc xã hội, vừa đe dọa chính phẩm giá của người ta, nam cũng như nữ, trong
các gia đình.
Chúng ta cần có những
sáng kiến mới mẻ để giải quyết vấn đề rất hệ trọng này. Những sáng kiến ấy sẽ
đòi hỏi sự cộng tác trên bình diện quốc gia và quốc tế. Điều cực kỳ quan trọng,
đó là những chương trình được phác họa để giải quyết vấn đề thất nghiệp phải
thúc đẩy lòng tôn trọng và cảm thông giữa những người chủ việc và những người
lao động đang tìm kiếm một chỗ làm.
- suy tư 366 ngày của Đức
Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope
John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 19/12
1Sm 16,1-13; Mc
2,23-28.
LỜI SUY NIỆM: Vào ngày Sa-bát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh
đồng lúa. Các môn đệ Người bắt đầu bứt lúa trong khi đi đường. Những người
Pharisêu liền nói với Đức Giêsu : “Ông coi, ngày sa-bát mà họ làm gì kìa? Điều ấy
đâu được phép!”
Giữ Lề luật của Thiên
Chúa, là để giúp nhau sống tốt và đi đúng đường dẫn về Trời để gặp lại Ngài là
Cha của mình. Nhưng trong cuộc sống của con người, lại lấy lề luật của Chúa để
đánh giá nhau, hạ nhục nhau, làm khổ cho nhau. Đối với người Kitô hữu luôn phải
tuân giữ lề luật của Chúa để đem lại những lợi ích cho bản thân và cho tha
nhân, nên phải uân giữ với cả sự yêu thích và tích cực. Không những chỉ giữ luật
“công bằng” nhưng Công bằng trong yêu thương, với lòng bác ái; không những
không làm thiệt hại người khác, mà còn phải làm sinh lợi cho họ nữa, không những
chỉ chúc bình an cho người anh em trên môi miệng, mà phải thực tâm mong cho họ
được bình an...
Lạy Chúa Giêsu. Trong
cuộc sống của chúng con, thường thường chúng con chỉ nhìn thấy những cái xấu
nơi người anh em, mà quên đi những cái tốt nơi họ. Xin Chúa cho mọi thành viên
trong gia đình chúng con, biết nhìn những cái xấu để tránh và thấy những cái tốt
để neo theo.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 21-01: Thánh ANÊ
Đồng trinh Tử đạo (khoảng + 304)
Một cuộc đời được gặt bởi gươm đao. Đó là tất cả. Không có nhiều việc,
không có nhiều chuyện, nhưng danh tiếng đã nên lẫy lừng.
Một sử gia đã chân nhận như thế theo những lời truyền khẩu. Người ta biết
rằng: Anê qua đời khoảng năm 12 tuổi. Cuộc khảo sát xương sọ cho biết như vậy.
Người ta còn biết được rằng, theo thánh Ambrosiô, vào năm 375 đã cử hành các lễ
kính thánh nữ và vị thánh trẻ trung này được trình bày như vị thánh tử đạo sau
khi đã chiến đấu để giữ mình đồng trinh.
Người ta yêu cái tên của Ngài, Anê theo tiếng la-tinh có nghĩa là con
chiên, theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là trong trắng. Người ta muốn rằng Ngài có
nét đẹp duyên dáng quyến rũ và thuộc gia đình quý phái. Các cô gái lập gia đình
sớm. Trong số những chàng trai ngưỡng mộ Ngài, có con trai một vị tổng trấn,
nhưng Anê tự cởi lòng đã chọn lựa vị hôn phu của mình.
Ngài đã nghe về Chúa Giêsu, đã trở thành Kitô hữu và đã tận hiến vĩnh viễn
cho Chúa Kitô. Các trẻ em thời này hay có tư tưởng anh hùng vì đã được thấy
dòng máu của những vị tử đạo tuôn đổ. Anê từ khước lời cầu hôn của người thanh
niên lương dân và bị tố giác trước quan tổng trấn.
Theo một trong các cuộc đối chất tuyệt vời mà cả trăm nghìn Kitô hữu cho
là chính xác, các lời hứa hẹn với những đe dọa chẳng có nghĩa lý gì đối với đức
tin và lòng can đảm của thánh nữ. Người thiếu nữ từ chối không thờ lạy thần
Minerva. Một ý tưởng quỷ quái nảy ra trong đầu óc quan tổng trấn. Ông truyền dẫn
thiếu nữ đến xóm bất lương mặc cho bọn say mê nàng xâm phạm. Ngài bị lột hết y
phục. Nhưng tóc dài phủ kín người Ngài. Hơn nữa nguồn sáng bởi trời bao quanh
Ngài làm thành một chiếc áo trắng diệu kỳ. Con của vị tổng trấn định cả gan xâm
phạm tới Ngài nhưng bị ngã chết như bị sét đánh. Anê đầy thương cảm đã xin
thiên thần cứu sống anh và anh sẽ trở lại đạo.
Điều kỳ diệu không có giới hạn và mọi sự đều có thể cả. Bị đưa vào lò lửa,
nhưng người thiếu nữ bất khuất không bị thiêu sống. Thánh Ambrôsiô nói: - Ngài
đi chịu khổ hình một cách vui vẻ còn hơn một người đi vào loan phòng của mình,
vì Ngài không đi đến cái chết nhưng đi vào bất tử, Ngài được trang điểm không
phải bằng những trân châu ngọc báu, nhưng bằng ánh sáng siêu nhiên.
Các ngọn lửa vây kín mà không thiêu đốt Anê. Vậy Ngài phải bị chém đầu mới
được. Và người ta thấy một thiếu nữ yếu ớt khuyến khích người lý hình tay chân
run rẩy: - Chặt đi đừng sợ gì, để tôi sớm đến được với Đấng lòng tôi yêu mến.
Tường thuật đã được tiểu thuyết hoá và làm say mê lòng đạo đức của các
tín hữu, nhưng sẽ không đủ để tên Ngài được quí trọng như vậy, nếu không chắc
chắn rằng Anê là thánh trẻ tử đạo mà đức tin, đức mến và lòng ái mộ đức khiết
trinh còn mạnh mẽ hơn cả sự chết.
Lịch sử thánh Anê còn được phép thêm bằng qua lời truyền khẩu về
Emêrentiana, người chị em cùng một vú nuôi với Ngài. Vài ngày sau khi Anê tử đạo,
dân ngoại bắt gặp Emêrentiana với các tín hữu khác cầu nguyện bên mộ Ngài.
Các Kitô hữu chạy trốn nhưng Emêrentina ở lại và bị ném đá. Cha mẹ Anê
chôn cất nàng bên mộ con gái mình. đêm sau họ thức cầu nguyện và thấy Anê ở giữa
các thánh nữ đồng trinh, với con chiên trắng hơn tuyết bên phải.
Thánh Anê nói với cha mẹ: - Đùng khóc vì con phải chết, trái lại cha mẹ
hãy vui mừng vì con được hiệp nhất ở trên trời với Đấng con đã yêu mến hết lòng
khi ở dưới đất.
Để nhớ đoạn lịch sử này, ngày 21 tháng giêng, sau thánh lễ cử hành trên
mộ xác thánh Anê, người ta dẫn tới hai con chiên, lông kết sao vàng và đeo nải
trắng một con, đỏ một con. Hai con chiên được đặt trên bàn thờ trong một giỏ
mây, được chúc lành và dâng cho Đức Thánh Cha, sau đó được gởi về tu viện thánh
Cêcilia.
Nơi đây các nữ tu nuôi chúng lớn lên, lông chúng dùng để dệt các
"Pallium", phẩm phục dệt bằng len trắng, có thêu thánh giá đen, mà Đức
giáo hoàng gửi cho các Đức Tổng giám mục mặc trên áo choàng ngoài, như dấu hiệu
tỏ sự kính trọng.
(daminhvn.net)
21 Tháng Giêng
Chiếc Khăn Tay Vấy Mực
Ruskin là một nghệ sĩ, phê bình nghệ
thuật kiêm xã hội học người Anh sống vào cuối thế kỷ 19.
Một hôm, có một người đàn bà quý phái
mang đến cho ông xem một chiếc khăn tay đắt tiền đã bị vấy mực. Bà ta xuýt xoa
tiếc rẻ vì chiếc khăn tay đã hoàn toàn mất giá trị của nó.
Ruskin không nói gì, ông chỉ xin cho
ông mượn chiếc khăn tay trong một ngày. Ngày hôm sau, ông trao lại chiếc khăn
tay cho người đàn bà mà cũng không nói một lời nào. Nhưng khi trải chiếc khăn
tay ra, người đàn bà hết sức ngạc nhiên, bởi vì từ một vết mực trong góc của
chiếc khăn, nhà nghệ sĩ đã biến thành một bức tranh tuyệt mỹ.
Chiếc khăn tay có vấy mực tưởng đã bị
vứt đi, nay đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật để đời.
Những
người có niềm tin vào cuộc sống không bao giờ bỏ cuộc trước những thất bại. Họ
luôn biết biến những thất bại ấy thành khởi đầu của một thành công vĩ đại hơn.
Người
có niềm tin vào Thiên Chúa cũng luôn nhìn vào thất bại, rủi ro, đau khổ trong
cuộc sống như cơ may của một ân phúc cao cả và dồi dào hơn.
Dạo
tháng 6 năm 1990, mục sư Anh giáo Michael Lapsley, người Zimbabwe bên Phi Châu,
vì là mục sư Tuyên úy của tổ chức Quốc đại Châu Phi bao gồm các lực lượng tranh
đấu cho quyền lợi của người da đen Nam Phi, đã bị quân khủng bố đặt chất nổ khiến
ông bị cụt hai tay, mù một mắt và hỏng lỗ tai. Trong một tuyên ngôn công bố sau
đó, ông đã viết như sau: "Họ đã lấy mất đôi tay của tôi. Nhưng tôi không
buồn, bởi vì tôi không dùng đến võ khí để cần phải có đôi tay. Họ đã lấy mất một
phần đôi mắt của tôi và thính giác của tôi, nhưng tôi vẫn còn có thể dâng hiến
lời nói để tiếp tục rao giảng một cách xác tín và mạnh mẽ hơn".
Người
ta vẫn thường nói: Yêu là chết trong lòng một ít. Tình yêu đích thực luôn luôn
đòi hỏi hy sinh, mất mát. Nhưng chỉ có đôi mắt tình yêu mới nhận ra giá trị của
những mất mát ấy.
Qua
cái chết trên thập giá như một tiêu hao hoàn toàn, Chúa Giêsu đã bày tỏ Tình
Yêu của Thiên Chúa cho nhân loại, ánh sáng của Tình Yêu đã chiếu sáng qua sự mất
mát ấy. Qua những hao mòn trong từng ngày của cuộc sống Mẹ Maria, Tình Yêu của
Thiên Chúa cũng được tiếp tục bày tỏ. Có cái chết độc ác, tức tưởi của Chúa
Giêsu trên thập giá, thì cũng có cái chết âm thầm từng ngày của Mẹ Maria. Ngày
nay, tình Yêu của Thiên Chúa cũng cần có những mất mát, hao mòn khác của người
Kitô để được tiếp tục bày tỏ cho con người, bởi vì sứ mệnh của người Kitô chính
là bổ túc cho những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ðức Kitô.
Trích sách Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét