23/01/2020
Thứ Năm tuần 2 thường
niên.
BÀI ĐỌC I: 1 Sm 18,
6-9; 19, 1-7
“Thân phụ tôi là Saolê định giết
anh”.
Trích sách Samuel
quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, sau khi hạ sát tên Philitinh, Đavít trở về, các phụ
nữ từ mọi thành phố Israel đều tuôn ra ca hát nhảy múa với đàn địch trống
phách, vui vẻ đón vua Saolê. Các phụ nữ nhảy múa xướng hoạ rằng: “Saolê giết một
ngàn, và Đavít giết mười ngàn”. Saolê bực tức lắm, vì lời ca ấy làm phật lòng
ông, ông nói: “Họ tặng Đavít mười ngàn, còn Ta chỉ có một ngàn, như vậy y chỉ
còn thiếu có ngai vàng”. Từ ngày đó trở đi, Saolê nhìn Đavít với vẻ mặt căm tức.
Saolê bàn với con ông là Gionathan và tất cả những cận thần của ông để
sát hại Đavít. Nhưng Gionathan con của Saolê rất thương mến Đavít, nên tiết lộ
cho Đavít rằng: “Thân phụ tôi là Saolê tìm kế giết anh đấy”. Vì thế, tôi xin
anh sáng mai nên thận trọng và tìm nơi kín đáo mà ẩn mình. Tôi sẽ ra đứng gần
cha tôi ngoài đồng nơi anh ẩn trốn, tôi sẽ nói chuyện anh với cha tôi, tôi thấy
thế nào, rồi sẽ báo cho anh biết”.
Vậy Gionathan khen Đavít với cha ông là Saolê, ông nói: “Tâu phụ vương,
xin chớ hãm hại tôi tớ của phụ vương là Đavít, vì anh không có lỗi gì đến phụ
vương, và anh đã lập nhiều công trạng cho phụ vương: Anh đã liều mạng sống và hạ
sát nhiều tên Philitinh; Chúa đã dùng anh mà giải thoát toàn dân Israel. Phụ
vương đã mục kích và đã hân hoan, vậy tại sao phụ vương toan đổ máu người vô tội,
khi định giết Đavít là kẻ không có lỗi gì?” Saolê nghe Gionathan nói như vậy
thì nguôi giận mà thề rằng: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, nó sẽ không bị giết”.
Gionathan gọi Đavít và thuật lại cho anh nghe tất cả các lời ấy, rồi dẫn Đavít
đến trước Saolê, và anh hầu cận Saolê như trước. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 55, 2-3.
9-10ab. 10c-11. 12-13
A+B: Con tin cậy
vào Thiên Chúa, con không kinh hãi (c. 5b).
1.
A) Ôi Thiên Chúa, xin thương con, vì người ta chà đạp con, người ta luôn
luôn đấu tranh và áp bức con. Những kẻ thù ghét con chà đạp con luôn mọi lúc,
vì có nhiều người chiến đấu phản hại con.
2.
B) Con đường lưu vong của con, Ngài đã biết, lệ sầu của con đã được chứa
trong bầu da của Ngài, chúng há chẳng được ghi trong sổ sách của Ngài ư? Hễ bao
giờ con kêu cầu Chúa, lúc đó quân thù con sẽ tháo lui.
3.
A) Con biết chắc điều này là Thiên Chúa phù trợ con. Nhờ ơn Thiên Chúa là
Đấng mà con ca tụng lời hứa, con tin cậy vào Thiên Chúa, con không kinh hãi,
con người phàm kia làm chi hại được con.
4.
B) Ôi Thiên Chúa, con mắc nợ những điều con khấn cùng Ngài, con sẽ tiến
Ngài lễ vật bằng lời ca tụng. Vì Ngài đã cứu mạng con thoát khỏi tử thần, và cứu
chân con khỏi quỵ ngã, để con được tiến thân trước nhan Thiên Chúa, trong ánh
thiều quang của cõi nhân sinh.
A+B: Con tin cậy
vào Thiên Chúa, con không kinh hãi (c. 5b).
ALLELUIA: Mt 4, 4b -Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời
do miệng Thiên Chúa phán ra. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 3, 7-12
“Các thần ô uế vừa thấy Người,
liền sụp lạy và kêu lên rằng: ‘Ngài là Con Thiên Chúa’, nhưng Người nghiêm cấm
chúng không được tiết lộ gì về Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ lui về bờ biển, đám đông từ Galilêa
theo Người, và từ Giuđêa, Giêrusalem, Iđumê, bên kia sông Giođan, miền Tyrô và
Siđon, nhiều kẻ đến cùng Người, khi nghe biết tất cả những việc Người đã làm.
Vì đông dân chúng, nên Người bảo các môn đệ liệu cho Người một chiếc thuyền, kẻo
họ chen lấn Người. Vì chưng, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, nên bất cứ ai
mắc bệnh tật gì đều đến gần để động đến Người. Và những thần ô uế vừa thấy Người,
liền sụp lạy và kêu lên rằng: “Ngài là Con Thiên Chúa”, nhưng Người nghiêm cấm
chúng không được tiết lộ gì về Người. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Hiểu biết
Chúa Giêsu
Có một giai thoại về Trang Tử như sau:
Một hôm, Trang Tử cùng đệ tử đi chơi núi, một người thợ rừng hỏi: "Tại
sao cây này không dùng được?", Trang tử liền nói: "Cây này vì bất tài
mà được sống lâu".
Về đến nhà, nguời thợ bắt con chim không biết gáy để làm tiệc đãi khách.
Hôm sau đệ tử hỏi Trang Tử: - Hôm qua, cái cây trên núi vì bất tài mà sống, con
chim hồng vì bất tài mà chết; theo Thầy, Thầy xử trí thế nào?
Trang Tử cười và nói:
- Tài và bất tài đều là quấy cả. Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì
sống.
Ðông Phương đề cao sự khôn ngoan ở đời; Tây Phương chịu ảnh hưởng Hy Lạp
cũng dạy: con người lý tưởng là con người biết nhiều. Nhưng biết không chỉ là
biết sự vật, mà là biết con người, và biết con người không chỉ là một nhận thức
suông, mà thiết yếu là đi vào tri giao mật thiết.
Trong Tin Mừng hôm nay, dường như tác giả muốn đưa chúng ta vào một sự hiểu
biết như thế. Thánh Marcô trình bày cho chúng ta nhiều phản ứng hay đúng hơn
nhiều nhận thức khác nhau về con người Chúa Giêsu. Trước hết là đám đông từ các
nơi tìm đến với Chúa Giêsu, họ nghe và chứng kiến nhiều phép lạ Ngài thực hiện.
Nhưng trong nhận định của Marcô, đám đông chỉ tìm đến để được ăn no nê, để được
chữa trị khỏi các bệnh tật, chứ không phải để hoán cải; đám đông chỉ thấy cái
trước mắt là phép lạ, mà không đọc ra được ý nghĩa của phép lạ là dấu chỉ của
Nước Trời mà Chúa Giêsu đã loan báo. Nói tắt, đám đông không biết gì về Chúa
Giêsu, và đây là lý do tại sao Chúa Giêsu tỏ ra dè dặt đối với đám đông, Ngài
thường lẩn tránh họ. Duy chỉ có ma quỷ biết Chúa Giêsu là ai, nhưng biết đối với
ma quỷ không đồng nghĩa với tri giao, mà chỉ là thù hận.
Ðặt vào đúng văn mạch, thì Tin Mừng hôm nay muốn trình bày cho chúng ta
nhiều thứ hiểu biết về Chúa Giêsu: ma quỷ biết Chúa Giêsu, nhưng biết trong thù
hận; đám đông thì tìm đến với Ngài vì mục đích trục lợi; bà con thân thuộc của
Ngài chỉ có về Ngài một sự hiểu biết hời hợt, thiếu chiều sâu; những người Biệt
phái thì hoàn toàn mù tịt về con người Chúa Giêsu; chỉ có Nhóm Mười Hai về sau
này mới có một hiểu biết chính xác về Ngài. Nhưng đối với Chúa Giêsu, biết Ngài
không chỉ là một nhận thức của trí tuệ, mà là đi vào tri giao mật thiết với
Ngài, đi theo Ngài, nên một với Ngài. Ðó là lý do tại sao sau khi Phêrô đại diện
Nhóm Mười Hai tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài liền
loan báo về cuộc Tử nạn của Ngài và mời gọi họ vác lấy Thập giá mỗi ngày và đi
theo Ngài. Và đó chính là sự hiểu biết về Ngài mà Chúa Giêsu đang chờ đợi nơi mỗi
Kitô hữu. Biết và tuyên xưng trên môi miệng mà thôi chưa đủ, biết Ngài thật sự
là nên một với Ngài đến độ thốt lên như Thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng
không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Ước gì tâm tình và xác tín của Thánh Phaolô cũng thấm nhập và hướng dẫn
chúng ta từng giây phút của cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm, Tuần II TN
Bài đọc: Heb 7:25-8:6; I Sam 18:6-9, 19:1-7; Mk 3:7-12.
Bài đọc: Heb 7:25-8:6; I Sam 18:6-9, 19:1-7; Mk 3:7-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu là
sự toàn hảo của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống, con
người phải trải qua nhiều giai đọan thử thách và vấp ngã, trước khi đạt tới chỗ
toàn hảo. Tục ngữ Việt Nam cũng nói lên điều này trong câu: “Thất bại là mẹ
thành công.” Tác giả Thư Do-Thái đề cập đến quan niệm này ngay từ đầu Thư: “Thuở
xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn
sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.
Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng
muôn vật muôn loài.” Khi cái hoàn hảo tới thì cái tạm thời qua đi. Điều quan trọng
là con người cần nhận ra cái hoàn thiện và tin theo, chứ không ngoan cố giữ lại
cái cũ.
Các Bài Đọc hôm nay
nói lên vai trò quan trọng của Chúa Giêsu trong Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên
Chúa. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-thái nhấn mạnh đến 3 yếu tố quan
trọng trong việc Chúa Giêsu hiến mình làm của lễ đền tội cho con người: Ngài vừa
là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek, vừa là của lễ toàn hảo, và nơi Ngài
dâng của lễ lên Thiên Chúa là ngai vàng nơi Thiên Chúa ngự trên trời. Trong Bài
Đọc I, năm chẵn, vua Saul ghen tị và muốn giết David, vì David được dân chúng
ca ngợi nhiều hơn ông; nhưng Jonathan con ông ngăn cản ông đừng làm chuyện đó.
Trong Phúc Âm, khi nghe những gì Chúa Giêsu đã làm, dân chúng từ khắp nơi kéo đến
để được nghe giảng và chữa lành bởi Chúa Giêsu; ngay cả các thần ô uế cũng khiếp
sợ Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế thập toàn, vừa là của lễ hy
sinh toàn hảo.
1.1/ Của lễ của Thượng Tế
Giêsu dâng thánh thiện và vẹn toàn hơn của lễ của Cựu Ước: Để chứng minh điều này, tác giả Thư Do-thái đề cao những
đặc tính của Chúa Giêsu: “Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một
vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được
nâng cao vượt các tầng trời.”
(1) Chỉ dâng hy lễ một
lần là đủ: “Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ
tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Người,
Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ.” Để hiểu ý tác giả, chúng
ta cần so sánh vai trò của Chúa Giêsu là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek với
vai trò của thượng tế theo phẩm trật Aaron:
– Các thượng-tế: có
vai trò nổi bật trong Ngày Xá Tội, mỗi năm một lần. Trong ngày này, ông được
quyền vào trong nơi Cực Thánh để dâng lễ đền tội cho dân. Trước khi có thể dâng
lễ đền tội cho dân chúng, ông phải dâng lễ đền tội cho ông trước bằng lễ vật của
chính ông. Sau đó, ông dâng lễ vật của dân để đền tội cho họ. Ngày Xá Tội cứ tiếp
diễn mỗi năm như thế.
– Thượng Tế Giêsu: Vì
Ngài thánh thiện vẹn toàn, nên Ngài không cần dâng của lễ đền tội cho mình. Để
đền tội cho dân, Ngài dâng chính thân mình làm của lễ đền tội. Đây là lễ vật hy
sinh thánh thiện và tinh tuyền nhất, không một của lễ nào có thể so sánh được.
Chính vì vậy, Ngài chỉ cần dâng một lần là đủ. Vì thế, Chúa Giêsu vừa là Thượng
Tế, vừa là lễ vật hy sinh; và vì Ngài sống mãi, nên biến cố hy sinh của Ngài
trên đồi Golgotha thay thế của lễ đền tội trong Ngày Xá Tội. Con người không cần
lễ vật hy sinh của theo Luật Cựu Ước nữa.
(2) Chúa Giêsu là Thượng
Tế của Thiên Chúa và của con người: Tác giả kết luận: “Vì Luật Moses thì đặt
làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật,
lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời.” Nói cách khác, Chúa Giêsu
vừa là Thượng Tế toàn hảo, và của lễ Ngài dâng để đền tội cho dân cũng toàn hảo
vì là chính bản thân của Ngài.
1.2/ Thánh Điện để dâng của
lễ là ngai vàng Thiên Chúa trên trời: Sau
khi đã đề cập tới chức vụ Thượng Tế, và của lễ hy sinh đề tội, tác giả tiến đến
chỗ dâng của lễ. Trong Cựu Ước, chỗ dâng của lễ là nơi Cực Thánh trong Đền Thờ.
Trong Tân Ước, chỗ dâng của lễ là chính ngai vàng Thiên Chúa ngự: “Điểm chủ yếu
trong những điều đang nói ở đây là điểm này: chúng ta có một vị Thượng Tế cao cả
như thế ngự bên hữu ngai Đấng uy linh ở trên trời.”
(1) Nơi Cực Thánh
trong Đền Thờ dưới đất: là nơi Thiên Chúa hiện diện với con người. Nơi này được
xây cất bởi con người theo một kiểu mẫu mà Thiên Chúa đã chỉ dạy cho Moses trên
núi, nhưng nơi này “chỉ là hình ảnh lu mờ mô phỏng thánh điện trên trời.”
(2) Ngai Thiên Chúa
trong Thánh Điện trên trời: Khi Chúa Giêsu dâng lễ vật hy sinh, Ngài dâng
“trong lều trại thật, do Thiên Chúa chứ không phải do người phàm dựng lên.”
Nói tóm, “Đức Giêsu được
một tác vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp
hơn; giao ước này căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn.”
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Sao ngài lại muốn phạm tội đổ máu người vô tội, mà vô cớ giết
David?
2.1/ Vua Saul ghen tị với
David: Trình thuật hôm nay tiếp theo biến cố
David chiến đấu với tên khổng lồ người Philistine và đã chặt đầu hắn mang về.
Khi nghe tin David chiến thắng trở về, các phụ nữ của Israel vui đùa ca hát rằng:
“Vua Saul hạ được hàng ngàn, ông David hàng vạn.” Khi vua Saul nghe những lời
ca tụng ấy, vua giận lắm và nói: “Người ta cho David hàng vạn, còn ta thì họ
cho hàng ngàn. Nó chỉ còn thiếu ngôi vua nữa thôi!” Từ ngày đó, vua Saul nhìn
David với con mắt ghen tị.
Con người khi quen sống
trong cảnh giàu sang, danh vọng, và uy quyền, thường dễ quên đi quá khứ và lý
do mình được hưởng những điều kiện đó. Trường hợp của Saul cũng thế, ông thuộc
chi tộc Benjamin, một trong chi tộc nhỏ bé nhất của 12 chi tộc Israel; nhưng chỉ
vì Đức Chúa đoái thương nhìn tới, mà ông được xức dầu phong vương. Một sự thật
nữa ông cần khiêm nhường nhìn nhận là Đức Chúa đã cho ông cơ hội và ban ơn để
ông thi hành sứ vụ; nhưng ông đã không vâng lời Đức Chúa, nên bị thất sủng trước
mặt Đức Chúa.
2.2/ Jonathan lập mưu cứu
David khỏi kế hoạch của cha mình: Từ chỗ
ghen tị với David, vua Saul đi tới ý định muốn giết David. Vua Saul nói với ông
Jonathan, con vua, và với toàn thể triều thần về ý định giết ông David. Nhưng
ông Jonathan, con vua Saul, lại rất có cảm tình với ông David. Ông Jonathan báo
cho ông David rằng: “Vua Saul, cha tôi, đang tìm cách giết anh. Vậy sáng mai
anh hãy coi chừng, hãy ở nơi kín đáo và ẩn mình đi. Phần tôi, tôi sẽ đi ra, sẽ
đứng cạnh cha tôi trong cánh đồng, nơi anh đang trốn, tôi sẽ nói với cha tôi về
anh. Thấy thế nào, tôi sẽ báo cho anh.”
Jonathan nhìn ra sự thật
mà vua Saul, cha mình không nhìn thấy; ông nói với vua: “Xin đức vua đừng phạm
tội hại tôi tớ ngài là David, vì anh ấy đã không phạm tội hại ngài, và các hành
động của anh là điều rất lợi cho ngài. Anh đã liều mạng và hạ được tên
Philistine, và Đức Chúa đã thắng lớn để bảo vệ toàn thể Israel. Ngài đã thấy và
đã vui mừng. Vậy sao ngài lại phạm tội đổ máu vô tội, mà vô cớ giết David?” Con
người cần biết dẹp bỏ tính tự ái và ích kỷ để hy sinh cho lợi ích chung. David
đã can đảm chiến đấu để giết được tên Philistine, là mối đe dọa cho nền an ninh
của quốc gia, mà vua Saul không làm được. Ngoài ra, vua Saul phải sáng suốt
nhìn nhận, nhà vua không thể làm mọi sự; mỗi thời Đức Chúa gởi tới một người để
lo cho lợi ích chung. Khi mình đã chu toàn sứ vụ, hãy can đảm để thế hệ trẻ tiếp
nối sứ vụ của mình. Người đau khổ, bất an, là người không biết thời mình đã hết;
nhưng cứ ngoan cố bảo vệ và hãnh diện về những gì mình đã bỏ công xây dựng.
Vua Saul nghe theo lời
ông Jonathan, và vua Saul thề rằng: “Có Đức Chúa hằng sống, ta thề: nó sẽ không
bị giết.” Ông Jonathan gọi ông David đến và ông Jonathan thuật lại tất cả những
điều ấy; rồi ông Jonathan dẫn ông David đến với vua Saul, và ông David lại phục
vụ vua như trước.
3/ Phúc Âm: Mọi người từ khắp nơi kéo đến với Chúa Giêsu.
Bước đầu trong hành
trình rao giảng của Chúa Giêsu thành công tốt đẹp: phần vì những lời giảng dạy
của Ngài, phần vì những phép lạ Ngài làm cho dân chúng. Tiếng lành đồn xa, nên
như trình thuật hôm nay kể, mọi người trong khắp vùng Cận Đông tuôn đến với
Chúa Giêsu: “Đức Giêsu cùng với các môn đệ của Người lánh về phía Biển Hồ. Từ
miền Galilee, người ta lũ lượt đi theo Người. Và từ miền Judah, từ Jerusalem, từ
xứ Idumea, từ vùng bên kia sông Jordan và vùng phụ cận hai thành Tyre và Sidon,
người ta lũ lượt đến với Người, vì nghe biết những gì Người đã làm.”
(1) Chúa Giêsu chữa
con người khỏi mọi bệnh họan tật nguyền: Điều có sức hấp dẫn con người nhất là
được chữa lành khỏi mọi bệnh họan tật nguyền. Dân chúng kéo đến với Chúa Giêsu
để được chữa bệnh. Ngài có năng lực của Thiên Chúa đến nỗi “ai có bệnh cũng đổ
xô đến để sờ vào Người.” Nếu cứ để họ chen lấn xô đẩy nhau để được đến gần và sờ
vào Chúa, không khéo sẽ có nhiều tai nạn không may xảy ra. Hơn nữa, Chúa đến
không phải chỉ để chữa bệnh, mà còn giảng dạy và mặc khải về Thiên Chúa, nên
Chúa Giêsu đã khôn ngoan “bảo các môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền nhỏ.”
(2) Các thần ô uế biết
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa: Danh xưng “con Thiên Chúa” không nhất thiết chỉ bản
tính Thiên Chúa của Chúa Giêsu, vì danh xưng này được dùng để chỉ nhiều người
như: các thiên thần (Gen 6:2), dân Do-thái là con Thiên Chúa (Hos 11:1), vua của
Do-thái là con Thiên Chúa (II Sam 7:14), người công chính là con Thiên Chúa
(Sir 4:10)… Các thần ô uế có thể nhận thấy một thứ quyền lực thánh thiện từ
Chúa Giêsu đối chọi với sự ô uế của chúng, làm cho chúng không thể tồn tại, nên
hỏang sợ kêu lên: “Ông là Con Thiên Chúa!” Nhưng Người cấm ngặt chúng không được
tiết lộ Người là ai.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúa Giêsu là sự
toàn hảo của Thiên Chúa. Chúng ta hãy tin tưởng và học hỏi nơi Ngài để biết về
Thiên Chúa.
– Vì chúng ta không có
thời gian nhiều để học hỏi mọi điều hay trong vũ trụ; điều quan trọng và cần
thiết nhất chúng ta phải học là kiến thức về Thiên Chúa.
– Chỉ một người duy nhất
có thể mang đến cho chúng ta Ơn Cứu Độ là Chúa Giêsu qua hiến lễ hy sinh của
Ngài trên Thập Giá.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
23/01/2020 – THỨ NĂM TUẦN 2 TN
Mc 3,7-12
“LÁNH ĐI” ĐỂ LAN TỎA
Đức Giê-su cùng với các môn đệ của Người lánh về phía Biển Hồ.
(Mc 3,7)
Suy niệm: “Con người là sinh vật
mang tính xã hội.” Tự nơi sâu thẳm, con người mang tính liên đới, hiệp thông,
thông truyền. Điều này không có gì lạ vì con người, theo Kinh Thánh, là hình ảnh
Thiên Chúa, Một Chúa Ba Ngôi hiệp thông trọn vẹn. Thế nhưng, đối nghịch lại,
cũng có khuynh hướng thích tách riêng, đề cao chủ nghĩa cá nhân thay vì tinh thần
liên đới. Thế giới hôm nay, với Facebook, Twitter là các công cụ nối kết, chia
sẻ, giúp con người xích lại gần nhau hơn, nhưng cũng có thể làm đánh mất tương
quan, xa lạ với chính mình. Không ít người dùng các công cụ truyền thông để tìm
sự nổi tiếng, coi mình như trung tâm, tôn thờ chính mình. Tin Mừng hôm nay tóm
kết hoạt động chữa bệnh của Đức Giê-su. Từ khi xuất hiện, Ngài trở nên một hiện
tượng, một con người nổi tiếng. Thế nhưng, Ngài lại trốn lánh sự nổi tiếng đó,
Ngài cùng các môn đệ lánh sang nơi khác. Khi dân chúng kéo nhau tìm đến Ngài,
Ngài đã lên chiếc thuyền để lánh, khỏi bị đám đông chen lấn. Ngài không muốn
người ta quy tụ bên Ngài chỉ vì sự nổi tiếng. Ngài lánh tiếng khen, để lan toả
đến mọi người điều chính yếu: Tin Mừng Nước Trời, Tin Mừng sự sống.
Mời Bạn: Những cuộc thăm viếng, gặp
gỡ ngày Tết sắp đến, bạn sẽ thông truyền, lan tỏa điều gì?
Sống Lời Chúa: Làm một việc giúp người
nghèo trong dịp Tết, nhưng tránh tiếng khen và khoe khoang.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, vì yêu con người, Chúa cứu chữa
con người và Chúa lánh những lời khen tặng. Xin giúp chúng con noi gương Chúa,
tay phải làm việc thiện việc lành, mà không muốn tay trái biết. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Suy Niệm : Chữa lành
nhiều bệnh nhân
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay được coi là một bản tóm lược
những hoạt động của
Đức Giêsu tại vùng phía biển hồ.
Có vẻ Ngài rút lui về vùng này không phải vì sợ bị hãm hại (Mc 3, 6),
nhưng để mở rộng phạm vi hoạt động hơn.
Như trước đây không lâu, mọi người từ vùng Giuđê và Giêrusalem
kéo tới xin chịu thanh tẩy bởi ông Gioan (Mc 1, 5),
giờ đây một đám đông lớn hơn từ khắp mọi vùng đổ xô đến với Đức Giêsu.
Có thể nói cả dân Ítraen hào hứng tụ họp bên ngài (Mc 3, 7-8).
Chưa bao giờ Đức Giêsu thành công đến thế !
Nhưng nhiều người trong đám đông khổng lồ này lại là những bệnh nhân.
Họ theo Đức Giêsu vì họ đã nghe biết những phép lạ chữa bệnh ngài làm.
Đức Giêsu xin các môn đệ chuẩn bị một chiếc thuyền
để nếu bị chen lấn quá trên bờ, ngài còn có thể xuống thuyền mà tránh đám
đông.
Những bệnh nhân tin rằng mình có thể được chữa lành nhờ chạm đến Ngài.
Có những người chỉ xin chạm vào tua áo choàng của Ngài (Mc 6, 56).
Họ không chờ Đức Giêsu đến với họ.
Chính họ chủ động chen lấn để chạm đến Đức Giêsu.
Họ không cần Ngài phải làm gì hay nói gì,
họ chỉ cần chạm đến trong lòng tin là mọi bệnh tật được chữa khỏi.
Dù y khoa đã đạt được những bước tiến đáng kể,
nhưng ai có thể thống kê hết số bệnh nhân trên thế giới.
Con người hôm xưa chạy đến với Đức Giêsu để xin được chữa lành
khỏi ách nặng nề của bệnh tật thân xác và tinh thần.
Con người hôm nay cũng chạy đến với Giáo Hội để xin được chữa lành.
Mọi nhà thương, phòng khám bệnh hay phát thuốc của người Công giáo,
đều là nơi các bệnh nhân gặp được Đức Giêsu.
Nơi đây họ chạm được vào con người nhân hậu của Ngài,
và nơi đây Đức Giêsu chạm đến họ qua bàn tay của những y bác sĩ Công
giáo.
Con người hôm nay nhận ra Chúa Giêsu
không nhờ sự giới thiệu của quỷ: “Ông là Con Thiên Chúa”,
nhưng nhờ sự phục vụ khiêm hạ của những lương y sống như Giêsu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách :
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này :
“Điều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta”. Amen.
(Thánh Têrêxa Calcutta)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
23 THÁNG GIÊNG
Tôn Trọng Nhân Vị
Con Người Tại Môi Trường Lao Động
Nhãn quan Kitô giáo về
thực tại tập chú trên con người và phẩm giá của con người xét như một ngôi vị
được tạo thành theo hình ảnh Thiên Chúa. Đó là lý do vì sao tôi muốn khẳng định
mạnh mẽ rằng nhân vị phải luôn luôn là mối ưu tiên đệ nhất trong lao động. Khẳng
định ấy sẽ đưa ta tới một quan điểm hết sức quan trọng về đạo đức. Đành rằng quả
thật con người được gọi và được định liệu để lao động; song, lao động tiên vàn
là cho con người, chứ không phải con người cho lao động. Nói cho cùng, mọi loại
lao động của con người – dù tầm thường hay đơn điệu đến mấy đi nữa – cũng luôn
luôn nhận cứu cánh của nó là chính con người (Laborem exercens 6).
Toàn bộ cơ cấu lao động
phải vận hành xoay quanh chiếc trục bản lề là chính con người. Lao động là thực
tại cao quí. Nhưng con người còn cao quí hơn muôn muôn triệu lần. Con người là
thiêng thánh. Và tính thiêng thánh này không thể bị xúc phạm. Dứt khoát phải
tôn trọng nhân vị con người trong mọi môi trường lao động.
Tính thiêng thánh ấy
là gốc rễ từ đó bật ra tất cả các quyền đặc biệt của con người. Bất cứ cảnh vực
lao động nào muốn tạo lập một môi trường đạo đức lành mạnh đều phải tôn trọng
nhãn giới ấy về con người.
Thật vậy, chất lượng
luân lý và đạo đức của một doanh nghiệp – và thường kể cả mức hiệu năng của
doanh nghiệp ấy trên thị trường nữa – được đo lường chính nơi thái độ của doanh
nghiệp này đối với con người.
Công nghệ, tư bản, lợi
nhuận, và tất cả những gì góp phần đem lại sự thành công về tài chánh đều được
trân trọng và tưởng thưởng theo mức độ mà chúng tôn trọng phẩm giá con người
trong môi trường lao động. Chúng phải luôn luôn lệ thuộc con người – và con người
phải luôn luôn chiếm được sự quan tâm hàng đầu tại mọi môi trường lao động.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 23/1
1Sm 18,6-9; 19,1-7;
Mc 3, 7-12.
Lời Suy Niệm: “Người đã chữa
lành nhiều bệnh nhân, khiến ai ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người.”
Lời
Chúa hôm nay, cho chúng ta thấy được đám đông dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với
Người, có những bệnh nhân được Người đặt tay, có những người Người loan báo,
nhưng vẫn có những người chỉ mong chạm đến Người. Tất cả dều được chữa lành; bởi
vì họ đến với Người với lòng tin và yêu mến Người.
Lạy Chúa Giêsu. Xin Chúa khơi dậy trong lòng chúng con lòng yêu người, đặc biệt
đối với những người đang đau khổ vì bệnh tật, để giúp họ có một niềm an ủi, là
được viếng thăm.
Mạnh Phương
23 Tháng
Giêng
Chúa Giêsu Ði Xem Bóng Ðá
Một linh mục Aán Ðộ
chuyên về huấn luyện tu đức là cha Anthony de Mello đã tưởng tượng ra một câu
chuyện như sau: Chúa Giêsu than phiền là Ngài chưa được một lần tham dự một trận
túc cầu. Chúng tôi bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội Tin
Lành và một đội Công Giáo. Ðội Công Giáo làm bàn trước một không. Chúa Giêsu vỗ
tay hoan hô và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, đội Tin Lành lại làm bàn. Lần
này Chúa Giêsu cũng vỗ tay reo hò và tung mũ lên trời.
Một khán giả
ngồi bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu. Oâng ta lấy tay đập
lên vai Ngài rồi hỏi: “Ê ông bạn, ông bạn ủng hộ bên nào vậy?”. Xem chừng như vẫn
còn bị khích động bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời: “Tôi hả? Tôi không ủng hộ
bên nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu thôi”. Người khán giả
khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, nay lại càng bực bội hơn. Oâng quay sang
người bên cạnh và nói nhỏ: “Hắn là một tên vô thần”.
Trên đường trở
về nhà, chúng tôi chất vấn Chúa Giêsu về tình hình tôn giáo trên thế giới.
Chúng tôi nói với Ngài: “Thưa Chúa, những con người có tôn giáo thật là buồn cười.
Họ tưởng rằng Chúa Giêsu chỉ đứng riêng về phía họ và nghịch lại với những người
thuộc tôn giáo khác”.
Chúa Giêsu gật
đầu tỏ vẻ ưng ý. Ngài nói: “Ðó là lý do tại sao ta không ủng hộ tôn giáo mà chỉ
ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người trọng hơn ngày
Sabbat. Chúng con nên biết là chính những người có tôn giáo đã treo Ta lên thập
giá”.
Câu chuyện tưởng
tượng trên đây cho chúng ta thấy rằng một trong những vết thương lớn nhất của
nhân loại trải qua mọi thời đại: đó là thái độ bất khoan dung đưa đến những cuộc
chiến tranh tôn giáo. Con người ai cũng bị cám dỗ nhân danh Thượng Ðế, thần minh
và hệ tư tưởng của mình để triệt hạ, để loại trừ, để bách hại người khác. Kỳ thực,
có tôn giáo nào mà không dạy sự khoan dung, lòng nhân từ đối với mọi người?
Chúa Giêsu đến để
mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa là Cha của mọi người. Ngài là Ðấng làm cho
mặt trời mọc lên cho người lành cũng như kẻ dữ. Ngài yêu thương những kẻ nhận
biết và yêu mến Ngài cũng như những kẻ chối bỏ và thù ghét Ngài. Ngài muốn
chúng ta yêu thương nhau như anh em cùng một gia đình. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu
mạc khải cho chúng ta là Ðấng mà người ta cũng sẽ chối bỏ nếu người ta khước từ
chính anh em đồng loại của mình. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải là Ðấng mà
người ta cũng sẽ xúc phạm nếu xúc phạm đến con người.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét