30/05/2020
Thứ Bảy tuần 7 Phục
Sinh
BÀI ĐỌC I: Cv 28,
16-20. 30-31
“Ngài ở lại Rôma, rao giảng nước
Thiên Chúa”.
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Khi chúng tôi đến Rôma, Phaolô được phép ở nhà riêng với người lính canh.
Sau ba hôm, ngài mời các đầu mục người Do-thái đến. Khi họ đến, ngài nói với họ:
“Thưa anh em, dầu tôi đây không làm điều gì phạm đến dân tộc hay tục lệ tổ
tiên, mà tôi đã bị bắt tại Giêrusa-lem và bị nộp trong tay người Rôma. Khi đã
điều tra, họ muốn thả tôi vì tôi không có tội gì đáng chết. Nhưng người Do-thái
chống lại, nên tôi buộc lòng phải nại đến hoàng đế, nhưng không phải là tôi có
gì kiện cáo dân tôi. Do đó tôi đã xin gặp anh em và nói chuyện: Chính vì niềm
hy vọng của Israel mà tôi phải mang xiềng xích này”.
Suốt hai năm, ngài trú tại ngôi nhà đã thuê, tiếp nhận tất cả những ai đến
gặp ngài, ngài rao giảng nước Thiên Chúa và dạy dỗ những điều về Chúa Giêsu
Kitô một cách dạn dĩ, không có ai ngăn cấm. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 10, 5. 6 và
8
Đáp: Lạy
Chúa, người chính trực sẽ nhìn thấy tôn nhan Chúa (c. 8b).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa kiểm soát người hiền đức, kẻ ác nhân, ai chuộng điều ác,
thì linh hồn Người ghét bỏ. – Đáp.
2) Trên lũ tội nhân Người làm mưa than đỏ diêm sinh, và phần chén của
chúng là luồng gió lửa. Bởi Chúa công minh, nên Người thích chuyện công minh,
người chính trực sẽ nhìn thấy thiên nhan. – Đáp.
ALLELUIA: Ga 14, 16
Alleluia, alleluia!
– Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những
gì Thầy đã nói với các con. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 21, 20-25
“Chính môn đệ này làm chứng về
những việc đó và đã viết ra”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Phêrô quay lại, thấy môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau, cũng là
người nằm sát ngực Chúa trong bữa ăn tối và hỏi “Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp
Thầy?” Vậy khi thấy môn đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng: “Còn người này thì
sao?” Chúa Giêsu đáp: “Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì
việc gì đến con? Phần con, cứ theo Thầy”. Vì thế, có tiếng đồn trong anh em là
môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: “Nó sẽ không chết”,
mà Người chỉ nói: “Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc
gì đến con”.
Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi
biết lời chứng của người ấy xác thật. Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu
chép lại từng việc một thì tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết
các sách viết ra. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Làm chứng tá
cho tình yêu
Hôm nay chúng ta lắng nghe phần đoạn kết trong sách Phúc Âm của thánh
Gioan tông đồ, chỉ có ba nhân vật được kể đến trong phần cuối của Phúc Âm này
là Chúa Giêsu, Phêrô và Gioan.
Qua những lời đối thoại với Phêrô, Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng Ngài
đã chọn mười hai vị tông đồ và trao phó cho mỗi người một sứ mạng khác nhau.
Phêrô và Gioan vì thế cũng có sứ mạng khác biệt nhau. Nếu như Phêrô được chọn để
chăn dắt đàn chiên của Chúa và trung thành với các sứ vụ bằng cái chết tử đạo,
thì vai trò của Gioan là làm chứng tá cho Chúa Giêsu bằng Phúc Âm.
Gioan được ơn sống lâu để chiêm niệm một cách sâu xa hơn về mầu nhiệm nhập
thể làm người và phục sinh của Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa. Vì thế mà Gioan
kết thúc Phúc Âm của mình bằng sự xác quyết: "Còn có nhiều điều khác Chúa
Giêsu đã làm, nếu viết lại từng điều một thì tôi thiết nghĩ cả thế giới cũng
không đủ chỗ chứa các sách viết ra". Qua lời kết thúc này Gioan cho thế
gian hiểu rằng quyền năng của Chúa Giêsu không bao giờ cạn, hồng ân của Ngài
thì vô cùng, sự khôn ngoan của Ngài thì không ai có thể đối chọi lại được, và
tình yêu của Ngài thì vô biên.
Trong lịch sử Giáo Hội suốt hai mươi thế kỷ nay, Thiên Chúa cũng vẫn liên
tục kêu gọi nhiều người và ban cho họ những ân sủng đặc biệt để tiếp tục sống
mãn đời trên trần thế. Họ là các thánh nam nữ đã được Thiên Chúa lựa chọn và
trao cho các sứ mệnh đặc biệt ở những thời kỳ và hoàn cảnh khác biệt nhau. Có vị
được gọi để trở thành các giáo phụ và tiến sĩ Hội Thánh. Các ngài dùng ngòi bút
và trí thông minh để rao giảng Phúc Âm và đem ánh sáng Lời Chúa đến cho mọi người.
Những vị khác thì được ơn gọi sáng lập các dòng tu với tinh thần tông đồ và hoạt
động truyền giáo trong nhiều lãnh vực khác biệt nhau. Các sứ vụ tuy có khác biệt
nhưng đều mang ý nghĩa và tầm mức quan trọng như nhau. Tất cả đều qui tụ vào
cùng một mục đích duy nhất là làm chứng tá cho chân lý và tình yêu của Thiên
Chúa đối với nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sức mạnh của đức tin và ngọn lửa của
tình yêu, để chúng con can đảm và hăng say làm chứng tá cho tình yêu và chân lý
của Chúa giữa thế gian. Xin Chúa cũng luôn hiện diện để giúp chúng con trung
thành với ơn gọi và sứ mạng do Chúa giao phó, nhất là trong những lúc đứng trước
các cơn bão táp của cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần VII PS
Bài đọc: Acts 28:16-20, 30-31: Jn 21:20-25.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Mùa Phục Sinh sẽ kết thúc sau ngày hôm nay, để đón mừng Lễ Chúa Thánh Thần
Hiện Xuống ngày Chủ Nhật, và sau đó tiếp tục tuần 8 mùa Thường Niên, bắt đầu
ngày thứ hai.
Các Bài Đọc hôm nay đều rút ra từ chương cuối cùng của hai Sách: Công Vụ
Tông Đồ và Tin Mừng Gioan mà chúng ta đã nghe suốt từ ngày đầu của Mùa Phục
Sinh cho tới giờ. Đây là cơ hội thuận tiện để chúng ta nhìn lại hai Sách này và
rút ra những điểm thần học chính yếu từ đấy. Mục đích của Sách CVTĐ là tường
thuật sự thành hình của Giáo Hội qua sự rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho
Chúa Giêsu Phục Sinh, bắt đầu từ Jerusalem, đến khắp vùng Judea và Samaria, rồi
cho đến tận cùng trái đất (Acts 1:8). Vì mục đích này mà thánh-sử Lucas chấm dứt
Sách CVTĐ khi Phaolô đặt chân tới Rôma và bắt đầu rao giảng Tin Mừng trong
trình thuật hôm nay. Rôma được coi là trung tâm của thế giới, một khi Tin Mừng
đạt tới trung tâm của thế giới là có thể lan ra đến tận cùng trái đất. Trong cuộc
hành trình rao giảng Tin Mừng từ Jerusalem đến Roma, niềm tin vào Chúa Giêsu Phục
Sinh đã biến đổi các Tông-đồ và các môn đệ, từ những người nhát đảm sợ sệt
thành những người can đảm, lợi khẩu, dám đương đầu với mọi quyền lực, và vượt
qua mọi khó khăn để làm chứng cho Tin Mừng. Niềm tin vào Chúa Phục Sinh cũng biến
đổi Phaolô, từ một người hăng say bắt đạo đến chỗ thành một người nhiệt thành
rao giảng đạo, qua 3 cuộc hành trình đầy khó khăn, cam go, nguy hiểm.
Mục đích của Tin Mừng Gioan là tường trình những biến cố chính và quan trọng
liên quan tới Chúa Giêsu, để khơi dậy niềm tin nơi khán giả; và vì niềm tin, họ
được hưởng Ơn Cứu Độ. Đoạn kết của Tin Mừng hôm nay nói rõ: “Chính môn đệ này
(Gioan) làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng
của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại
từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách
viết ra.” Hai điều thần học quan trọng chúng ta nghe nhắc đi nhắc lại trong suốt
Mùa Phục Sinh là tình yêu Thiên Chúa và lời hứa ban Thánh Thần: Để có thể rao
giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa Giêsu, hai điều này không thể thiếu nơi
người rao giảng, và được ban cho từ Thiên Chúa, qua Đức Kitô.
Điểm quan trọng của mỗi ngày là Giáo Hội cố gắng sắp xếp song song, giữa
những gì Chúa Giêsu nói hay những biến cố liên quan đến Ngài trong Phúc Âm, với
những gì các môn đệ nói hay những biến cố liên quan tới các ông, để làm nổi bật
một chủ đề hay hoàn thành lời hứa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phaolô làm chứng cho Chúa
Giêsu tại Roma.
1.1/ Phaolô tập họp các tín hữu tại Rôma để cho họ biết tình trạng của
ông: Khi tới Rôma, ông Phaolô được phép ở nhà riêng cùng với người lính canh giữ
ông. Ba ngày sau, ông mời các thân hào Do-thái đến. Khi họ đã tới đông đủ, ông
nói với họ: “Thưa anh em, tôi đây, mặc dầu đã không làm gì chống lại dân ta hay
các tục lệ của tổ tiên, tôi đã bị bắt tại Jerusalem và bị nộp vào tay người
Rôma.”
Giống như trường hợp của Chúa Giêsu, mặc dù quan Philatô không nhận thấy
Chúa Giêsu làm điều gì đáng chết cả; nhưng những người Do-thái vẫn muốn xin
Philatô cho đóng đinh Chúa vào Thập Giá. Trường hợp của Phaolô cũng thế, Phaolô
tâm sự với giáo đoàn Rôma: “Sau khi điều tra, họ muốn thả tôi, vì tôi không có
tội gì đáng chết. Nhưng vì người Do-thái chống đối, nên bó buộc tôi phải kháng
cáo lên hoàng đế Caesar; tuy vậy không phải là tôi muốn tố cáo dân tộc tôi. Đó
là lý do khiến tôi xin được gặp và nói chuyện với anh em, bởi chính vì niềm hy
vọng của Israel mà tôi phải mang xiềng xích này.”
1.2/ Phaolô tiếp tục rao giảng Tin Mừng trong khi bị giam cầm: “Suốt hai
năm tròn, ông Phaolô ở tại nhà ông đã thuê, và tiếp đón tất cả những ai đến với
ông. Ông rao giảng Nước Thiên Chúa và dạy về Chúa Giêsu Kitô, một cách rất mạnh
dạn, không gặp ngăn trở nào.”
Phaolô chứng minh mặc dù ông bị giam cầm, nhưng Lời Chúa không bị xiềng
xích. Ông đã có thể loan báo Tin Mừng ngay trong ngục tù cho những lính cai tù
thay phiên nhau canh gác ông trong suốt hai năm; tranh luận để thuyết phục những
người Do-thái; và viết các Thư Ngục Tù để yên ủi và khích lệ các tín hữu của
các cộng đoàn mà ông đã thành lập. Đi tới đâu ông luôn tìm dịp để Lời Chúa được
thấm nhập tới đó.
2/ Phúc Âm: Phần anh, hãy theo Thầy!
2.1/ Phêrô muốn biết số phận của người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến:
Khi Phêrô quay lại và nhìn thấy người môn đệ Đức Giêsu thương mến đi theo sau
(ông này là người đã nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu trong bữa ăn tối và hỏi:
“Thưa Thầy, ai là kẻ nộp Thầy?”), ông Phêrô nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, còn
anh này thì sao?” Đức Giêsu đáp: “Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới
khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, hãy theo Thầy.”
Chúa Giêsu mời gọi các ông luôn nhìn thẳng tới phía trước và cố gắng hoàn
thành trọng trách Chúa trao phó; chứ đừng phí thời giờ nhìn chung quanh để so
sánh hay ghen tị với người khác. Khi nghe Chúa Giêsu nói thế, các môn đệ đồn thổi
giữa các ông là môn đệ ấy sẽ không chết. Nhưng Đức Giêsu đã không nói với ông
Phêrô là: “Anh ấy sẽ không chết,” mà chỉ nói: “Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại
cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh?”
2.2/ Người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến làm chứng cho Chúa Giêsu: Có
nhiều giả thuyết về “người môn đệ Chúa Giêsu thương mến:” Có người cho là tác
giả của Sách Tin Mừng không muốn chỉ rõ là ai, nhưng để độc giả có thể đặt tên
mình vào đó; nhưng đa số đều cho đó là Gioan. Nhất là theo trình thuật hôm nay,
khi Phêrô nói rõ là người môn đệ đã ngả đầu vào ngực Chúa trong Bữa Tiệc Ly.
Mục đích Chúa Giêsu chọn các Tông-đồ và các môn đệ là cho sứ vụ rao giảng
Tin Mừng và làm chứng cho Chúa Giêsu. Có nhiều cách làm chứng khác nhau, nhưng
Gioan làm chứng cho Chúa Giêsu bằng cách viết sách Tin Mừng để làm chứng cho những
gì Chúa đã nói và làm. Tác giả xác tín: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều
đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn
có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết
nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
– Rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh phải là bổn phận
quan trọng hàng đầu của những người môn đệ Chúa. Bao lâu Tin Mừng chưa được rao
giảng cho đến tận cùng trái đất, chúng ta chưa làm tròn bổn phận Chúa trao.
– Phải tìm dịp rao giảng Tin Mừng mọi nơi, mọi lúc, và trong mọi hoàn cảnh:
khi thuận tiện cũng như lúc bất tiện. May mắn hơn Phaolô và các môn đệ thuở ban
đầu, với kỹ thuật hiện đại, chúng ta có thể ngồi nhà và rao truyền Tin Mừng cho
mọi người qua mạng internet.
– Sống trong tình yêu Thiên Chúa và theo sự hướng dẫn của Thánh Thần là
hai điều kiện không thể thiếu để việc rao giảng Tin Mừng được bền bỉ và có kết
quả tốt đẹp.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
30/05/2020 – THỨ BẢY TUẦN 7 PS
Đức Ma-ri-a thăm viếng bà Ê-li-sa-bét
Lc 1,39-56
NIỀM VUI CỦA THĂM VIẾNG
“Em thật có phúc vì
đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” (Lc 1,45)
Suy niệm: Nhà văn Antoine de
Saint-Exupéry tâm sự: “Nếu bạn đến thăm lúc bốn giờ chiều, tôi sẽ cảm thấy vui
từ lúc ba giờ.” Trong sự kiện Thăm viếng, người cảm thấy vui trước hết không phải
là bà Ê-li-sa-bét, nhưng là Đức Ma-ri-a. Niềm vui đã chớm nở nơi ngài từ lúc nhận
được tin người chị họ son sẻ có thai lúc tuổi đã cao. Niềm vui ấy khiến ngài vội
vã vượt quãng đường dài, núi đồi cách trở, để đến thăm và ở lại ba tháng phụ
giúp bà Ê-li-sa-bét. Sự hiện diện của Đức Ma-ri-a ở ngôi nhà ở Ain-Karim đem lại
niềm vui cho người chị họ. Một niềm vui quá lớn khiến bà phải “kêu lớn tiếng”
chúc tụng, cũng như làm cho thai nhi Gio-an trong dạ mẹ nhảy lên vui sướng. Được
cả hai Mẹ Con Đấng Cứu thế ưu ái viếng thăm là một vinh dự lớn lao, chứ đâu phải
chuyện nhỏ.
Mời Bạn: Đến nhà người quen, bạn bỏ
giày dép dính bụi đất ngoài cửa rồi mới bước vào nhà. Cũng vậy, bạn hãy
rũ bỏ những dự tính ích kỷ, những giận hờn nhỏ nhen, để bước vào thế giới
của người quen thân. Tựa như Đức Mẹ đưa Chúa Giê-su đến thăm gia đình bà
Ê-li-sa-bét, bạn cũng hãy đem Chúa Giê-su, niềm vui của Tin Mừng, đến với các
gia đình bạn thăm viếng, để nhờ vậy, các gia đình ấy cảm nhận sự hiện diện của
Chúa giữa gia đình mình.
Sống Lời Chúa: Tôi tập thói quen dành thời
gian ngày Chúa Nhật để đi thăm các gia đình nghèo túng, ốm đau, tang chế, kém
may mắn…
Cầu nguyện: Lạy Mẹ Ma-ri-a, Mẹ đã hy
sinh thời gian đi thăm viếng, ở lại nâng đỡ người chị họ. Xin cho con biết noi
gương Mẹ, sẵn sàng dành thời giờ cho việc thăm viếng các gia đình khác.
(5 Phút Lời Chúa)
SUY NIỆM : Lời chứng
xác thực
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ngoài Đức Giêsu và Phêrô,
còn có người môn đệ được Đức Giêsu thương mến.
Anh đã có mặt trong bữa Tiệc Ly cùng với Phêrô, đã nằm gần Thầy,
và được Phêrô nhờ hỏi Thầy xem ai là kẻ phản bội (13,23-25).
Anh đã đưa Phêrô vào dinh thượng tế khi Đức Giêsu bị bắt (18,15-16).
Anh đã cùng với Phêrô chạy ra ngôi mộ trống lúc ban mai,
nhưng anh chạy nhanh hơn, và tin trước Phêrô (20,3-10).
Khi Phêrô chối Thầy ba lần và không lộ diện nữa (18,17-18.25-27),
thì anh là môn đệ duy nhất đứng gần thập giá Đức Giêsu,
và được Ngài trao Thân Mẫu của mình để làm Mẹ của anh (19:25-27).
Trong lần Đức Giêsu tỏ mình bên bờ hồ Galilê, sau mẻ cá lạ (21,4-7),
anh là người đầu tiên nhận ra Thầy, và nói với Phêrô: “Chúa đó!”
Có vẻ hình ảnh người môn đệ được Chúa thương nổi trội hơn Phêrô.
Dù sao Simon Phêrô đã ba lần tuyên xưng tình yêu trước Thầy,
và ba lần Thầy giao cho anh chăm sóc đoàn chiên như người mục tử.
Thầy còn tiên báo cái chết tử đạo của anh,
và mời anh một lần nữa: “Hãy theo Thầy” (21,19; x. 13,36-37).
Đó là đường đời của Phêrô, một môn đệ và một mục tử.
Nhưng đâu là con đường tương lai của người môn đệ kia?
Phêrô đi theo Đức Giêsu, quay lại, thấy anh này cũng đang đi theo.
“Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” (c. 21).
Đức Giêsu đã không bảo là anh này sẽ không chết,
hay anh còn sống mãi cho đến ngày Ngài quang lâm (c. 23).
Khi cuốn Tin Mừng Thứ Tư được viết xong vào cuối thế kỷ thứ nhất,
thì người môn đệ kia đã qua đời, nhưng không được phúc tử đạo.
Như thế tiếng đồn về câu nói của Đức Giêsu là sai sự thật (c. 22).
Những gì anh để lại cho thế giới là cuốn Tin Mừng Thứ Tư.
“Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra.
Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực” (c. 24).
Người môn đệ này cho chúng ta một lời chứng đáng tin,
vì anh là người đã sống bên Thầy Giêsu, thật gần gũi.
Anh đã mắt thấy tai nghe, và có kinh nghiệm thân thiết với Thầy.
Không hẳn anh đích thân cầm bút viết cuốn Tin Mừng này,
nhưng anh lại chính là tác giả của mọi điều được viết trong đó.
Tất cả là kinh nghiệm riêng tư anh đã trải qua với Thầy Giêsu,
và những suy niệm lâu dài dưới ánh sáng Phục sinh và Thánh Thần.
Người môn đệ này còn là người sáng lập một cộng đoàn tín hữu.
Cộng đoàn ấy được ám chỉ qua đại từ “chúng tôi” (c. 24; x. 1,14.16).
Một người trong cộng đoàn đã viết chương cuối này (c. 25: “tôi”).
Ai là người môn đệ được Đức Giêsu thương mến?
Nhiều người nghĩ anh là Gioan, nhiều người lại nghĩ khác.
Dù sao anh thật là một môn đệ lý tưởng cho chúng ta.
Điều anh để lại cho đời trong cuốn Tin Mừng là điều anh xác tín.
Anh là nhân chứng đáng tin cậy của Đức Kitô, Con Thiên Chúa.
Đúng anh là người được Thầy yêu và là người đã hết lòng yêu Thầy.
Cầu nguyện :
Lạy Thiên Chúa của đời con,
chỉ trong tình yêu con mới tìm thấy Chúa.
Trong tình yêu, các cánh cửa hồn con mở tung,
để con được thở không khí tự do tươi mới
và quên đi cái tôi nhỏ mọn của mình.
Trong tình yêu, toàn bộ con người con vươn ra khỏi
những ranh giới cứng nhắc của óc hẹp hòi
và của thái độ tự khẳng định đầy bất an
khiến con bị giam mình trong sự nghèo nàn và trống rỗng.
Trong tình yêu, mọi sức mạnh của hồn con tuôn chảy về Chúa,
chẳng bao giờ còn muốn quay trở lại,
nhưng chỉ muốn mất mình trọn vẹn trong Chúa,
vì qua tình yêu, Chúa là trung tâm sâu nhất của lòng con,
Chúa gần con hơn cả chính con gần con.
Nhưng khi con yêu Chúa,
khi con tìm cách phá vỡ vòng vây chật hẹp của cái tôi, và vứt bỏ sau lưng
nỗi khắc khoải không nguôi về những câu hỏi còn bỏ ngỏ,
khi đôi mắt mù lòa của con không còn chỉ nhìn từ xa và từ bên ngoài
ánh rạng ngời không thể lại gần được của Chúa,
và hơn nữa, lạy Chúa là Đấng vô phương thấu hiểu,
khi qua tình yêu, Chúa trở nên trung tâm sâu nhất của đời con,
khi ấy con mới có thể chôn mình hoàn toàn trong Chúa,
lạy Thiên Chúa nhiệm màu,
và chôn mọi câu hỏi của con cùng với con. Amen. (Karl Rahner, S.J.)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
30 THÁNG NĂM
Công Cuộc Của Thiên
Chúa Ba Ngôi
“Khi Thần Khí sự thật đến, Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì
của Thầy mà loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy; vì thế Thầy
đã nói: Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16, 13 – 15).
Đức Kitô đã nói những lời đó vào buổi tối trước khi vào cuộc Khổ Nạn. Người
đang nói về Chúa Cha, về chính Người, và về Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là
Đấng “lấy từ Chúa Con” – trong sự hoàn thành nhiệm cục cứu độ. Ngài lấy những
gì thuộc về Chúa Con và những gì – nơi Chúa Con – thuộc về Chúa Cha: “Mọi sự
Chúa Cha có đều là của Thầy”.
Từ Chúa Cha, qua Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần – đó là công cuộc sáng tạo.
Từ Chúa Cha, qua Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần – đó là công cuộc cứu chuộc.
Đó là công cuộc đổi mới thiêng liêng của tất cả những gì đã được tạo dựng. Bất
luận cái gì được đổi mới trong Chúa Thánh Thần qua cuộc hy sinh của Chúa Con đều
phải qui hồi về với Chúa Cha là Đáng Sáng Tạo. Và, như vậy, mọi sự đều tham dự
vào sự sống. Thiên Chúa “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ
sống” (Mc 12, 27).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 30/5
Cv 28, 16-20.30-31;
Ga 21, 20-25.
Lời Suy Niệm: “Phần anh hãy theo Thầy.”
Với Chúa Giêsu,
Người rất yêu thương những con người tin và đi theo Người, Người sẽ ban ơn
thánh cho mỗi người, theo từng ơn gọi riêng để hoàn thành ơn gọi đó. Chỉ cần
quyết tâm: “Phần anh hãy theo Thầy.”
Lạy Chúa Giêsu.
Xin cho mỗi người trong chúng con luôn biết vâng phục và bước đi theo Chúa cho
đến trọn đời.
Mạnh Phương
30 Tháng Năm
Một Chỗ Khủng Khiếp
Câu chuyện xảy ra tại một nhà giam bên
Liên Xô. Một cựu tù nhân, bà Arsenjeff, thuật lại một kinh nghiệm mắt thấy tai
nghe diễn ra tại đó, nơi bà gọi là "Một chỗ khủng khiếp" như sau: Một
buổi chiều kia, một cô gái trẻ cùng bị giam với chúng tôi kề miệng vào tai tôi
khẽ nói: chị biết mai là ngày gì không? Rồi không đợi tôi trả lời, cô ta nói tiếp:
"Mai là ngày lễ Phục Sinh".
Nghe thế, tôi tự hỏi: "Lễ Phục
Sinh đã đến rồi sao, lễ của niềm vui và hy vọng? Nhưng trong tù, niềm vui của
chúng tôi đã héo úa và khô cằn. Còn niềm hy vọng?...". Tôi đi lại trong
phòng và không dám suy nghĩ tiếp.
Bỗng một tiếng reo vang nổi lên phá tan bầu không khí nặng nề: "Ðức Kitô đã sống lại thật".
Quá sức sửng sốt, các nhân viên trở
nên bất động như những tượng gỗ. Có lẽ trong tâm trí, họ giận dữ lên án một diễn
tiến không bao giờ xảy ra tại đây. Sau một lúc yên lặng, tôi nghe tiếng giày nặng
nề tiến đến gần phòng giam của chúng tôi. Rồi cửa phòng được mở tung. Hai nhân
viên giận dữ hỏi ai đã xướng câu mê tín dị đoan và hùng hổ túm lấy cô gái, lôi
cô ta sền sệt ra khỏi phòng.
Một tuần lễ sau, cô ta được thả về
phòng giam, mặt cô ta xanh xao, người gầy đi thấy rõ. Qua tuần lễ Phục Sinh,
người ta đã biệt giam cô vào một phòng không có lò sưởi, để cái lạnh thấu xương
và cơn đói hành hạ thân thể một con người họ cho là cuồng tín. Sau khi nằm yên
tại một góc phòng hồi lâu, cô ta vẫy tay gọi tôi lại thều thào: "Dù sao
tôi cũng đã tuyên xưng niềm tin vào sự Phục Sinh trong trại giam. Những cái
khác không quan trọng gì cho lắm". Nói xong cô cố gắng mỉm cười và tôi thấy
ánh mắt cô vẫn lóe sáng lên như dạo nào.
Ðược
dịp tuyên xưng niềm tin Phục Sinh cách đặc biệt như cô gái trên thật hiếm hoi.
Nhưng mẫu gương can đảm của cô phải nhắc nhở chúng ta cố gắng thực thi lời nguyện
chúng ta luôn cùng nhau xướng lên sau những lời truyền phép: "Chúng con
loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho đến khi
Chúa lại đến".
Tuyên xưng việc Chúa sống lại bằng cách hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của sự chết,
của những đau khổ, của những vấn đề khó khăn. Cuộc sống của chúng ta không chỉ
đóng khung và chấm cùng tại đó. Nhưng người mang niềm tin Phục Sinh phải chiến
đấu để vượt qua, để lướt thắng những khó khăn, hạn chế những đau khổ, những sự
dữ, những tội lỗi, để phát huy cuộc sống mới của những tạo vật được tái sinh nhờ
cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Kitô.
Trích sách Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét