02/06/2020
Thứ Ba tuần 9 thường
niên.
BÀI ĐỌC I:
2 Pr 3, 12-15a. 17-18
“Chúng ta mong đợi trời mới đất
mới”.
Trích thư thứ hai của
Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, anh em hãy mong chờ và hối thúc ngày Chúa đến, ngày mà
các tầng trời bốc cháy tiêu tan, và ngũ hành bị thiêu rụi. Nhưng theo lời Người
hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, trong đó công lý sẽ ngự trị.
Anh em thân mến, bởi thế, trong lúc chờ đợi, hãy gắng sao nên vô tì tích
trước nhan Người, trong bình an. Và anh em hãy coi lòng khoan dung của Thiên
Chúa như là phương thế cứu rỗi.
Vậy, anh em thân mến, được biết trước như thế, anh em hãy giữ mình, kẻo bị
lôi cuốn theo sự lầm lạc của những kẻ vô luân mà sa đoạ, mất lòng trung kiên của
anh em. Anh em hãy lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đức Giêsu Kitô,
Đấng Cứu Rỗi và là Chúa chúng ta. Nguyện (chúc) vinh quang cho Người bây giờ và
đến muôn đời. Amen!. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 89, 2. 3-4.
10. 14 và 16
Đáp: Thân lạy Chúa,
Chúa là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia (c. 1).
Xướng:
1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ
nở ra, tự thuở này qua thuở kia, vẫn có Ngài.
– Đáp.
– Đáp.
2) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất,
như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán:
“Hãy trở về gốc, hỡi con người!” – Đáp.
3) Thọ kỳ của chúng con số niên bảy chục, nếu khoẻ mạnh ra thì được tám
mươi, nhưng đa số là những năm lầm than và phù phiếm, bởi chúng mau qua và
chúng con cũng bay theo. – Đáp.
4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng
rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho các bầy tôi nhìn thấy sự nghiệp của
Chúa, và cho con cháu họ được thấy vinh quang Ngài. – Đáp.
ALLELUIA: 1 Pr 1, 25
Alleluia, alleluia!
– Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. –
Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 12, 13-17
“Các ông hãy trả cho Cêsarê cái
gì thuộc về Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, người ta sai mấy người thuộc nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê đến
Chúa Giêsu để lập mưu bắt lỗi Người trong lời nói. Họ đến thưa Người rằng:
“Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật không vị nể ai, vì Thầy chẳng
xem diện mạo, một giảng dạy đường lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy chúng
tôi có nên nộp thuế cho Cêsarê không? Chúng tôi phải nộp hay là không?” Nhưng
Người biết họ giả hình, nên bảo rằng: “Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta xem một
đồng tiền”. Họ đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: “Hình và ký hiệu này
là của ai?” Họ thưa: “Của Cêsarê”. Người liền bảo họ: “Vậy thì của Cêsarê, hãy
trả cho Cêsarê; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa”. Và họ rất đỗi kinh ngạc
về Người. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Một qui luật
sống
Tin Mừng hôm nay ghi lại một cuộc tranh luận khác giữa Chúa Giêsu và các
vị lãnh đạo Do thái. Ở đây, chúng ta lại thấy hai nhóm liên kết lại, kể từ khi
họ bắt hụt Chúa Giêsu khi Ngài rao giảng ở Capharnaum (3,6). Phái Hêrôđê ủng hộ
Hêrôđê Antipa, thủ hiến xứ Galilê thì dựa vào thế lực của Rôma, còn nhóm Biệt
phái cũng khá hòa hoãn với giới thống trị.
Thái độ sống giả hình là thái độ của những kẻ đóng kịch, cố gắng làm sao
cho người khác thấy sự tốt nơi mình, mà thực ra mình không có. Những người Biệt
phái và những người thuộc phái Hêrôđê là những kẻ giả hình, bởi vì họ làm ra vẻ
muốn tìm biết sự thật, mà kỳ thực chỉ là để tìm dịp bắt bẻ Chúa. Họ đến với
Chúa, khen Ngài là người chân thật, cứ theo sự thật mà giảng dạy đường lối của
Thiên Chúa. Nhưng rất tiếc lời nói khéo léo của họ lại che đậy một thủ đoạn, một
âm mưu trả thù. Ðó là đường lối của con người, nhất là của hạng người vụ lợi,
ích kỷ, tham quyền.
Thật thế, sau khi giả vờ khen Chúa, họ liền chất vấn Ngài: "Có được
phép nộp thuế cho César không?". Vấn đề xem ra đơn giản, nhưng thực ra là
một cạm bẫy. Theo họ, Chúa Giêsu là nhà cách mạng thuộc dòng tộc Ðavít, chắc hẳn
Ngài sẽ bảo họ không nộp thuế cho César, và thế là sa bẫy họ, lúc đó, họ sẽ có
lý do để bắt bớ, giải nộp và giết Ngài. Nhưng đối với Chúa Giêsu, cái bẫy của họ
không có gì là nan giải, vì khôn ngoan của loài người chỉ là dại khờ trước mặt
Thiên Chúa. Mặc dù biết rõ ý đồ của họ, Chúa Giêsu vẫn tỏ ra hết sức chân thật;
Ngài còn nhân cơ hội này để đưa ra một bài học: Ngài bảo họ cho xem đồng tiền
và sau khi được biết hình và dấu trên đồng tiền là của César, Ngài nói tiếp:
"Của César, trả về César; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa". Nói khác
đi, một khi đã được hưởng nhờ ơn lộc của ai, thì phải đền ơn đúng nghĩa, họ đã
nhờ bổng lộc của César, thì có bổn phận đền đáp cho César; nhưng Chúa cũng nhắc
thêm bổn phận của con người đối với Thiên Chúa: con người đã nhận lãnh nhiều ơn
huệ của Thiên Chúa, nên cũng phải đền đáp ơn Ngài. Chúa Giêsu nhìn nhận vai trò
đúng đắn của của quyền bính trần thế: "Của César, trả về César",
nhưng Ngài thêm: "Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa". Chúa nhắc nhở rằng
quyền bính trần thế không phải là quyền bính duy nhất trên con người, mà còn có
quyền bính của Thiên Chúa nữa. Có những điều con người phải trả cho Thiên Chúa,
vì con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài; con người mắc nợ
Thiên Chúa sự sống, nên con người buộc phải dâng hiến mạng sống cho Ngài và để
Ngài chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của mình.
Xin Chúa soi sáng để chúng ta biết phân biệt điều gì thuộc César, điều gì
thuộc Thiên Chúa, để chu toàn bổn phận đối với trần thế và đối với Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 9 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 2
Pet 3:12-15a, 17-18; Mk 12:13-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy làm cho
Nước Thiên Chúa mau đến bằng cách sống thật.
Nhiều người sai lầm
khi nghĩ nếu một chính phủ không đáp ứng những gì các tín hữu mong muốn, họ phải
nhân danh Giáo Hội tranh đấu đến cùng và sẵn sàng đổ máu để đạt được những nguyện
vọng đó.
Các bài đọc hôm nay
giúp chúng ta nhận ra những điều người tín hữu phải làm và những gì không nên
làm. Trong bài đọc I, tác giả Thư Phêrô II nhắc nhở cho các tín hữu biết thế giới
này sẽ tan biến đi cùng với tất cả các phù hoa của nó. Điều quan trọng hàng đầu
các tín hữu cần phải làm là hãy lo sống làm sao cho mình và mọi người được hưởng
ơn cứu độ. Trong Phúc Âm, một số các “chính trị gia,” những người Pharisees giả
hình và những người thuộc phe Herod, nhân danh việc đi tìm sự thật để giăng bẫy
bắt Chúa Giêsu. Họ hỏi: “Có được phép nộp thuế cho Caesar hay không? Biết rõ
mưu đồ của họ, Chúa cho họ câu trả lời chẳng những họ không làm gì được Chúa mà
còn mời gọi họ suy nghĩ về lối làm chính trị “sai sự thật” của họ: “Của Caesar,
trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Anh em hãy coi chừng kẻo bị những kẻ phạm pháp và lầm lạc
lôi cuốn!
Một điều Chúa Giêsu và
các tông đồ luôn cảnh cáo các tín hữu là đề phòng những kẻ rao giảng sự sai lạc
làm các tín hữu nghi ngờ sự thật các Ngài rao giảng và từ từ bỏ đạo. Chúa Giêsu
gọi họ là “chó sói” đội lốt người chăn chiên để cắn xé đoàn chiên (Jn 10:12).
Thánh Gioan gọi họ là những kẻ “phản Đức Kitô,” và nguy hiểm hơn nữa họ là
chiên ở ngay giữa đoàn chiên (I Jn 2:18-19). Thánh Phaolô khuyên nhủ rất nhiều
lần môn đệ Timothy và Titus phải đề phòng những người này: “Anh hãy biết điều
này: vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. Quả thế, người ta sẽ ra ích
kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ,
vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ,
hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc
hơn yêu Thiên Chúa; hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu
thì đã chối bỏ. Anh hãy xa lánh cả những người ấy”
(2 Tim 3:1-5). Trình
thuật của Thư Phêrô II muốn nêu bật cho các tín hữu hiểu hai điều:
1.1/ Ngày của Thiên
Chúa sẽ đến: Chúa Giêsu bảo đảm: Ngày ấy chắc chắn sẽ đến, còn khi nào xảy ra
không ai biết được trừ một mình Chúa Cha. Tác giả nhắc các tín hữu hai khía cạnh
của Ngày này: thứ nhất, vũ trụ sẽ bị hủy diệt qua câu “các tầng trời sẽ bị
thiêu huỷ và ngũ hành sẽ chảy tan ra trong lửa hồng; thứ hai, “Ngày bắt đầu trời
mới đất mới, nơi công lý ngự trị” đúng theo lời Thiên Chúa hứa. Ngày đó, mọi
người sẽ ra trước Thiên Chúa để chịu phán xét. Chỉ lúc đó mọi người sẽ nhìn thấy
sự công thẳng của Thiên Chúa.
Không ai biết được khi
nào Ngày ấy đến, nhưng theo lời Sách Thánh, các tín hữu có thể làm cho Ngày ấy
mau đến bằng những phương thế sau đây:
+ Cầu nguyện: Trong
kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện: “Xin cho Nước Cha trị đến,
ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.”
+ Rao giảng Tin Mừng:
Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ: Hãy đi khắp thế gian mà rao giảng Tin Mừng.
Điều này có thể hiểu: Khi Tin Mừng được loan báo đến mọi người, Nước Chúa sẽ đến.
+ Thống hối và vâng lời
Thiên Chúa: Điều này quan trọng hơn cả. Như một người Cha mong cứu thoát tất cả
con cái của mình, Thiên Chúa sẽ chọn Ngày nào mà cứu được tất cả hay nhiều con
nhất. Thánh Phêrô nói: “Chúa tỏ lòng kiên nhẫn chính là để anh em được cứu độ.”
Ngày đó chưa xảy ra vì còn quá nhiều người phải hư mất. Thánh Phaolô cũng nói
cách tương tự: Khi dân tộc Do-thái tin vào Đức Kitô, Ngày ấy sẽ đến. Vì thế, nỗ
lực của hết mọi tín hữu hãy đặt điều này trên hết tất cả mọi điều nếu họ mong
cho Nước Chúa mau trị đến.
1.2/ Đừng bị lung lay
bởi các lạc thuyết: Có quá nhiều lạc thuyết trong thế gian mà các tín hữu chỉ
có thể chống trả bằng cách học biết sự thật. Một trong những lạc thuyết đó là lối
sống của những kẻ không tin có sự sống đời sau. Vì không tin sự sống đời đời
nên họ dành hết thời gian, mọi cố gắng để xây dựng cuộc sống đời này. Chúa
Giêsu và các tông đồ kêu gọi các tín hữu luôn phải hướng lòng về trời vì đó là
mới là quê hương đích thực của các tín hữu. Chúng ta chỉ là những người ngoại
quốc hay những người tạm trú của thế giới này mà thôi. Chính Chúa Giêsu cũng trả
lời cho Pilate: “Nước tôi không thuộc chốn này” (Jn 18:36). Lối sống của các
tín hữu không được giống như những người không tin có cuộc sống đời sau. Tác giả
khuyên: trong khi mong đợi ngày đó, các tín hữu phải cố gắng sao cho Người thấy
họ càng ngày càng phải trở nên tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình
an. Họ phải lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đức Giêsu Kitô là Chúa
và là Đấng Cứu Độ.
2/ Phúc Âm: “Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về
Thiên Chúa.”
2.1/ Bẫy giăng để hại
Chúa Giêsu: Trình thuật Marcô nói rõ nguồn gốc, mục đích, và cách thức để gài bẫy
Chúa Giêsu: Các người trong Thượng Hội Đồng là những người sai mấy người
Pharisees và mấy người thuộc phe Herode đến. Mục đích là để Người phải lỡ lời
mà mắc bẫy. Cách gài là khen những lời đãi bôi để đánh lạc hướng Chúa, để Chúa
nhận ra họ là những người thành thật muốn tìm hiểu chân lý. Họ nói: “Thưa Thầy,
chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề
ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa.
Vậy có được phép nộp thuế cho Caesar hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải
nộp?” Lý do họ sai hai nhóm người này là cho mục đích chính trị của họ:
(1) Phe Pharisees: chủ
trương người Do-thái phải được cai trị bởi người Do-thái (Deut 17:15). Họ chống
mọi thế lực ngoại bang và việc nộp thuế cho đế quốc Rôma. Nếu Chúa trả lời “Phải!”
họ sẽ xui giục dân chúng chống Chúa vì toa rập với thế lực nước ngoài.
(2) Phe Herode: chủ
trương hòa đồng với Rôma để được “tốt đạo đẹp đời.” Họ nại cớ biết bao điều tốt
lành đến từ việc cai trị của Roma trong thời các vua Herod cai trị. Vì thế, họ
thuyết phục những người Do-thái: Cứ để cho đế quốc cai trị bao lâu hoàng đế đừng
can thiệp vào nội bộ tôn giáo của Do-thái. Nếu Chúa trả lời “Không!” họ sẽ nộp
Chúa cho quân đội Roma vì xui giục dân phản chính quyền.
Cả hai cùng hợp lại để
làm điều ác: có lý do để bắt Chúa và tiêu diệt người lành. Họ nghĩ Chúa trả lời
cách nào cũng không thoát mưu mô của họ.
2.2/ Câu trả lời của
Chúa Giêsu: Đức Giêsu biết họ giả hình, nên Người nói: “Tại sao các người lại
thử tôi? Đem một đồng bạc cho tôi xem!” Họ liền đưa cho Người. Người hỏi: “Hình
và danh hiệu này là của ai đây?” Họ đáp: “Của Caesar.” Đức Giêsu bảo họ: “Của
Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Và họ hết sức ngạc
nhiên về Người.
(1) Chúa phân biệt
chính trị ra khỏi tôn giáo: Hai mục đích của hai bên khác nhau: mục đích của
tôn giáo là đưa con người tới Thiên Chúa, mục đích của chính trị là lo cho con
người được no cơm ấm áo ở đời này. Ba bổn phận của các nhà lãnh đạo tôn giáo là
dạy dỗ con người biết đạo lý Chúa dạy để khỏi những lầm lạc, ban các bí tích để
mang ơn thánh xuống cho con người, và điều hành dân chúng trong lãnh vực tôn
giáo. Bổn phận của những người lãnh đạo quốc gia là lo cho nền an ninh quốc
gia, no cơm ấm áo cho người dân, và bảo vệ trật tự trong nước.
(2) Người dân có nhiệm
vụ đóng góp để bảo vệ lợi ích chung: Việc đóng thuế cho chính phủ là bổn phận của
người dân để chính phủ có quĩ điều hành mà lo cho các nhu cầu của dân chúng.
Ngoài ra người dân còn phải đóng góp công sức và tài năng trong việc phát triển
và bảo vệ xã hội. Chúa Giêsu đã từng khuyên Phêrô phải kiếm tiền nộp thuế cho
ông và cho Ngài. Các tông đồ vẫn khuyến khích dân vâng lời những nhà cầm quyền
tốt. Nếu chính phủ tham nhũng không biết lo cho dân, người dân có quyền đứng
lên tranh đấu để xây dựng một chính phủ biết lo cho dân hơn.
(3) Đừng quên trả cho
Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài: Chúa mời gọi những kẻ được sai đến và chúng
ta suy nghĩ cẩn thận về việc trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài:
+ Con người chúng ta
được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, chúng ta thuộc về Ngài. Chúng ta
không có quyền muốn làm gì thì làm; nhưng phải sống theo những gì Thiên Chúa đã
tiên định để rồi chúng ta sẽ được sống hạnh phúc với Ngài muôn đời. Lấy danh
nghĩa tự do để cãi lời Thiên Chúa chỉ dẫn chúng ta đến chỗ diệt vong.
+ Mọi quyền bính trên
thế gian đều đến từ Thiên Chúa, Ngài trao cho con người để cùng thông phần vào
sự điều khiển với Ngài. Ngài trao cho Caesar quyền cai trị người Do-thái và
Caesar phải trả lời với Thiên Chúa về quyền cai trị của ông. Nhiều lúc sức con
người không thể hiểu về sự quan phòng của Thiên Chúa. Người Do-thái nhiều lần
thắc mắc tại sao Thiên Chúa lại trao quyền cai trị dân Chúa cho những người ngoại
đạo? Lịch sử trả lời vì họ đã không chịu nghe lời Thiên Chúa cảnh cáo qua các
ngôn sứ. Chúa trao quyền hành mà không biết dùng Chúa lại lấy đi. Chúa dùng
Babylon là cái roi để sửa phạt dân rồi lại bẻ gẫy cây roi bằng cách trao vua
Babylon cho vua Persia. Quyền hành trong thế giới luôn thay đổi theo sự quan
phòng của Thiên Chúa. Nếu Chúa muốn cất đi không ai có thể chống cự nổi; nếu
Chúa muốn giữ quyền hành lại không ai thay đổi được. Dĩ nhiên khi trao quyền
hành, Ngài muốn con người phải biết xử dụng để sinh ích lợi chung; nhưng lòng
con người thay đổi và khó dò: khi chưa có quyền hành trong tay thì hứa hẹn đủ
điều; đến khi nắm quyền hành thì lại tham nhũng bất công nhiều khi còn hơn chế
độ hay người đi trước. Có lẽ vì thế mà quyền hành cứ phải thay đổi mãi; chỉ khi
nào chúng ta vào Nước Thiên Chúa và được Chúa Giêsu, Vua công chính cai trị,
chúng ta mới hưởng nhận được bình an. Bao lâu sông trong thế giới bất toàn, nhiệm
vụ của chúng ta là nghe theo, chứ không chống lại ý định của Thiên Chúa, vì
chúng ta tin tưởng Ngài đang quan phòng thế giới cách khôn ngoan và uy quyền.
+ Quyền sở hữu tài sản
nói cho cùng cũng không thuộc Caesar hay thuộc bất cứ ai, vì Chúa dựng nên mọi
sự cho con người xử dụng. Con người chỉ là người quản lý và phải trả lời với
Thiên Chúa về việc dùng tài sản.
+ Sự sống là của Thiên
Chúa, thời gian và tài năng là của Ngài ban cho. Con người không được tiêu hủy
sự sống từ lúc mới sinh cho đến khi giã từ cuộc đời. Con người không được lãng
phí thời gian vào những việc vô ích, nhưng phải biết dùng thời gian để sinh ích
cho mình và cho mọi người. Nhiều người đã lãng phí tài năng Chúa ban qua việc
dùng thuốc, chơi bài bạc, và một cuộc sống vô độ. Họ đã phải trả giá cho việc lợi
dụng tự do để muốn làm gì thì làm. Nếu suy nghĩ cho cùng, con người phải chấp
nhận: mọi sự là của Thiên Chúa. Con người chỉ có quyền dùng, và phải dùng cách
khôn ngoan để sinh lợi ích cho mình, cho tha nhân, và cho việc mở mang Nước
Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải biết
khiêm nhường nhìn nhận chúng ta không khôn ngoan hơn Thiên Chúa. Hãy biết vâng
lời làm theo những gì Ngài truyền dạy.
– Điều quan trọng hơn
cả là phải lo cho mình và tha nhân được hưởng ơn cứu độ; mọi sự khác đều phụ
thuộc và chỉ cần thiết ở đời này.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
02/06/2020 – THỨ BA TUẦN 9 TN
Mc 12,13-17
TRẢ VỀ THIÊN CHÚA
Đức Giê-su bảo họ: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa,
trả về Thiên Chúa.” (Mc 12,17)
Suy niệm: Lấy cớ chính trị để gài bẫy nhằm tố cáo ai đó phản
quốc, phản động không phải là một phát minh của thời hiện đại. Sách Tin Mừng
cho biết: “Mấy người Pha-ri-sêu và mấy người thuộc phe Hê-rô-đê đến cùng Người
để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy” (Mc 12,13). Cái bẫy họ đưa ra thật hiểm: “Có
được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?” Nhưng Chúa Giê-su không dễ dàng mắc bẫy
của họ. Câu trả lời thật tuyệt vời của Ngài là khuôn mẫu ngàn đời cho thái độ của
Ki-tô hữu đối với những thực tại trần thế: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên
Chúa, trả về Thiên Chúa.” Tôn trọng trật tự trần thế và chu toàn những nghĩa vụ
chính đáng đối với chúng nhưng đồng thời cũng không xao nhãng nghĩa vụ đối với
quê hương vĩnh cửu và Thiên Chúa là Chủ tể muôn loài.
Mời Bạn: Việc dấn thân xây dựng quê hương trần thế tốt đẹp
như ý định của Thiên Chúa chính là bổn phận của con người khi họ được Chúa trao
cho sứ mạng coi sóc vũ trụ mà Ngài đã dựng nên (x. St 2,15). Trần thế này phải
dẫn chúng ta đến mục đích tối hậu là cuộc sống hạnh phúc ở nơi Thiên Chúa. Đừng
mải mê với những lợi lộc, thú vui, danh vọng ở thế gian này mà quên tiến về
“quê hương chúng ta ở trên trời” (Pl 3,20), là thượng giới, “nơi Đức Ki-tô đang
ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3,1).
Sống Lời Chúa: Trước khi làm việc gì, bạn hướng lòng về Chúa và
nguyện làm việc này tốt đẹp để vinh danh Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con yêu mến Chúa trên hết mọi sự,
qua việc chu toàn bổn phận làm con Chúa và tích cực xây dựng quê hương trần thế
ngày càng tốt đẹp theo thánh ý Chúa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Suy Niệm : Của Thiên
Chúa trả về Thiên ChúaSuy Niệm
Nhóm Pharisêu và nhóm
Hêrôđê không phải là hai nhóm hợp nhau.
Nhưng họ lại rất hợp nhất trong việc muốn trừ khử Đức Giêsu (Mc 3, 6).
Ngài đã từng nhắc các môn đệ đề phòng “men” của hai nhóm này (Mc 8, 15).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, họ lại liên minh với nhau để giăng bẫy.
Trước khi đưa Đức Giêsu vào bẫy, họ đã lấy lòng bằng những lời ca ngợi.
Rồi cái bẫy được giăng ra, sắc như một con dao hai lưỡi.
“Có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (c. 14).
Đã từng có những câu hỏi như thế.
“Có được phép chữa bệnh trong ngày sa bát không?” (Mt 12, 10).
“Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do nào không?” (Mt 19, 3).
Được phép có nghĩa là không đi ngược với Luật Môsê.
Nhưng họ lại rất hợp nhất trong việc muốn trừ khử Đức Giêsu (Mc 3, 6).
Ngài đã từng nhắc các môn đệ đề phòng “men” của hai nhóm này (Mc 8, 15).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, họ lại liên minh với nhau để giăng bẫy.
Trước khi đưa Đức Giêsu vào bẫy, họ đã lấy lòng bằng những lời ca ngợi.
Rồi cái bẫy được giăng ra, sắc như một con dao hai lưỡi.
“Có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (c. 14).
Đã từng có những câu hỏi như thế.
“Có được phép chữa bệnh trong ngày sa bát không?” (Mt 12, 10).
“Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do nào không?” (Mt 19, 3).
Được phép có nghĩa là không đi ngược với Luật Môsê.
Từ năm thứ sáu sau
công nguyên,
khi Giuđê và Samari trở thành một tỉnh của đế quốc Rôma,
mỗi người dân Do-thái phải nộp một thứ thuế thân cho những kẻ xâm lược.
Đã có những phong trào đứng lên chống lại thứ thuế này.
“Có được phép nộp thuế cho Xêda không?”
Nếu Đức Giêsu nói rõ là được phép nộp thì đụng đến lòng ái quốc của dân,
và cũng đụng đến nhóm Pharisêu là những người không chấp nhận
sự thống trị nhơ nhớp của ngoại bang trên phần đất của Thiên Chúa.
Nếu Ngài nói rõ là không được phép nộp thì Ngài sẽ gặp khó khăn với Rôma,
và sẽ đụng đến nhóm Hêrốt là nhóm lãnh đạo dựa dẫm vào thế lực của đế quốc.
khi Giuđê và Samari trở thành một tỉnh của đế quốc Rôma,
mỗi người dân Do-thái phải nộp một thứ thuế thân cho những kẻ xâm lược.
Đã có những phong trào đứng lên chống lại thứ thuế này.
“Có được phép nộp thuế cho Xêda không?”
Nếu Đức Giêsu nói rõ là được phép nộp thì đụng đến lòng ái quốc của dân,
và cũng đụng đến nhóm Pharisêu là những người không chấp nhận
sự thống trị nhơ nhớp của ngoại bang trên phần đất của Thiên Chúa.
Nếu Ngài nói rõ là không được phép nộp thì Ngài sẽ gặp khó khăn với Rôma,
và sẽ đụng đến nhóm Hêrốt là nhóm lãnh đạo dựa dẫm vào thế lực của đế quốc.
Dĩ nhiên Đức Giêsu đã
khôn ngoan không trực tiếp trả lời câu hỏi này.
Ngài không rơi vào bẫy, ngược lại, có thể nói, Ngài giăng một cái bẫy khác.
“Đem cho tôi một đồng bạc để tôi xem” (c. 15).
Đức Giêsu không mang trong mình thứ tiền này, dùng để nộp thuế cho Rôma.
Nhưng kẻ thù của Ngài thì mang, và đưa cho Ngài một đồng bạc.
Đồng bạc này mang hình của Xêda và mang dòng chữ :
“Tibêriô Xêda, con của Augúttô thần linh, Augúttô.”
Khi biết đó là đồng tiền bằng bạc của Xêda, Đức Giêsu đã nói :
“Những thứ của Xêda, hãy trả lại cho Xêda,
những thứ của Thiên Chúa, hãy trả lại cho Thiên Chúa” (c. 17).
Câu trả lời này đã làm họ sững sờ, không thể nào bắt bẻ được.
Ngài không rơi vào bẫy, ngược lại, có thể nói, Ngài giăng một cái bẫy khác.
“Đem cho tôi một đồng bạc để tôi xem” (c. 15).
Đức Giêsu không mang trong mình thứ tiền này, dùng để nộp thuế cho Rôma.
Nhưng kẻ thù của Ngài thì mang, và đưa cho Ngài một đồng bạc.
Đồng bạc này mang hình của Xêda và mang dòng chữ :
“Tibêriô Xêda, con của Augúttô thần linh, Augúttô.”
Khi biết đó là đồng tiền bằng bạc của Xêda, Đức Giêsu đã nói :
“Những thứ của Xêda, hãy trả lại cho Xêda,
những thứ của Thiên Chúa, hãy trả lại cho Thiên Chúa” (c. 17).
Câu trả lời này đã làm họ sững sờ, không thể nào bắt bẻ được.
Đức Giêsu có vẻ không
chống lại chuyện nộp thuế thân cho Xêda.
Nhưng Ngài quan tâm đến một chuyện khác quan trọng hơn nhiều.
Chuyện đối xử công bằng với Thiên Chúa.
Trả lại cho Thiên Chúa mọi sự thuộc về Thiên Chúa: đó là bổn phận.
Đồng tiền mang hình Xêda, nên chúng ta phải trả cho Xêda.
Còn chúng ta là người mang hình ảnh Thiên Chúa,
nên chúng ta phải dâng trả chính bản thân mình cho Thiên Chúa.
Tên của Giêsu đã được ghi khắc trong tim ta,
nên chúng ta không được quên mình đã thuộc trọn về Giêsu.
Còn bao điều trong đời ta thuộc về Thiên Chúa mà ta vẫn giữ cho mình !
Nhưng Ngài quan tâm đến một chuyện khác quan trọng hơn nhiều.
Chuyện đối xử công bằng với Thiên Chúa.
Trả lại cho Thiên Chúa mọi sự thuộc về Thiên Chúa: đó là bổn phận.
Đồng tiền mang hình Xêda, nên chúng ta phải trả cho Xêda.
Còn chúng ta là người mang hình ảnh Thiên Chúa,
nên chúng ta phải dâng trả chính bản thân mình cho Thiên Chúa.
Tên của Giêsu đã được ghi khắc trong tim ta,
nên chúng ta không được quên mình đã thuộc trọn về Giêsu.
Còn bao điều trong đời ta thuộc về Thiên Chúa mà ta vẫn giữ cho mình !
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự
do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của
con,
cùng hết thảy những gì
con có,
và những gì thuộc về
con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban
cho con,
lạy Chúa, nay con xin
dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn
toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con
lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn
toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của
thánh I-Nhã)
Lm. Antôn Nguyễn
Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
2 THÁNG SÁU
Triều Thiên Của Tạo
Vật
Con người là một thể
thống nhất, là duy nhất trong chính mình. Nhưng trong thể thống nhất này có hàm
chứa tính lưỡng diện. Thánh Kinh trình bày cả thể thống nhất (ngôi vị) lẫn tính
lưỡng diện (hồn và xác) của con người. Chẳng hạn, Sách Huấn Ca viết: “Đức Chúa
lấy đất mà tạo ra con người, rồi lại đưa con người trở về đất” (Hc 17, 1 – 2).
Nhưng Sách Huấn Ca cũng viết: “Người ban cho chúng trí khôn, luỡi, mắt, tai, và
trái tim để chúng suy nghĩ. Người làm cho chúng được đầy kiến thức thông minh,
tỏ cho chúng biết điều tốt điều xấu.” (câu 5 – 6)
Từ quan điểm này,
Thánh Vịnh 8 thật hết sức có ý nghĩa. Con người được tôn dương là một tuyệt tác
khi tác giả thánh vịnh nói với Thiên Chúa bằng những lời này: “… con người là
chi, mà Chúa cần nhớ đến; phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm? Chúa cho con
người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều
thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới
chân” (câu 5 – 7).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 02/6
Thánh Marcellino và
Thánh Phêrô tử đạo
2Pr 3,
12-15a.17-18; Mc 12, 13-17.
Lời Suy Niệm: “Của
Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa.”
Đối với người Kitô hữu luôn mang trên mình hai nghĩa vụ: Đối với Thiên Chúa; phải
yêu mến và tôn thờ Ngài trên hết mọi sự. Còn đối với đồng loại phải đặt tình
yêu thương, tha thứ và tôn trọng phẩm giá và nhân vị. Biết lấy chân lý, và sự
thật cùng bác ái làm chuẩn mực trong mọi hành động; đối với chính bản thân, với
người anh em cũng như các tạo vật khác, kể cả môi trường chúng ta đang sống.
Lạy Chúa Giêsu. Xin Chúa sai Thánh Thần Chúa đến trên chúng con, giúp cho chúng
con nhận ra những gì thuộc về thế gian và những gì thuộc về Thiên Chúa, để
chúng con sống xứng đáng là người con của Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
02-06: Thánh MARCELLINÔ và PHÊRÔ
Tử Đạo (+304)
Không có tài liệu lịch
sử nào nói về nguồn gốc của hai thánh tử đạo Marcellino và Phêrô cả. Các Ngài
được phúc tử đạo dưới thời Diocletianô.
Thánh Marcellino được
ơn tử đạo còn thánh Phêrô được ơn trừ quỉ.
Nhờ được ơn trừ quỉ,
thánh Phêrô được rất nhiều người mộ mến. Ngược lại cũng có nhiều người ghen tức
và thù oán tìm cách giết hại. Tỉnh trưởng Sêrênô ra lệnh tống giam Ngài. Bạn
ông là Antêmi có đứa con gái bị quỉ ám. Nghe biết Phêrô có quyền trừ quỉ, ông
giối thiệu bạn mình tới ngục thất để gặp thánh nhân. Gặp ông, thánh nhân khuyên
nhủ ông hãy tin vào Chúa Giêsu và thờ phượng Thiên Chúa. Ông bực tức cho rằng:
Chúa không cứu nổi Phêrô thì làm sao thánh nhân cứu nổi con ông được. Rồi ngay
đêm ấy khi quân canh ngục còn đang thi hành nhiệm vụ thì thánh nhân đã có mặt ở
nhà Antêmi. Cả gia đình Antêmi bỡ ngỡ và xin theo đạo. Paulina, con gái Antêmi
được lành bệnh. Từ đó gia đình Antêmi thành nơi tụ tập thường hay lui tới dạy đạo
và rửa tội cho các tân tòng.
Tức giận, Sêrênô ra lệnh
hành hạ hai thánh nhân một cách dã man rồi giam ngục tối, nền rắc đầy miểng
chai, và bỏ đói các Ngài cho chết. Tuy nhiên Chúa đã giải thoát cho các Ngài
trong một tuần lễ để lo cho các dự tòng được chịu phép rửa tội. Nghĩ rằng gia
đình Antemi lập mưu cho cuộc vượt thoát này, Sêrênô ra lệnh giết cả gia đình
ông.
Cuối cùng hai thánh
nhân Marcellinô và Phêrô bị đem hành quyết. Khi thi hành án quyết, đao phủ
Đorotê đã thấy linh hồn hai Ngài bay về trời. Quá xúc động ông đã xin tòng giáo
và qua đời cách lành thánh. Còn xác hai thánh nhân được chôn cất ở nghĩa trang
Ad Duos Lauros đường Labicana.
Khi Giáo hội được sống
trong an bình, người ta xây cất trên mộ hai Ngài một thánh đường rất nguy nga.
Tên Hai thánh nhân đã được nhắc đến trong lễ quy Roma.
(daminhvn.net)
02 Tháng Sáu
Nguồn Gốc Của Sa Mạc
Người Ả Rập giải
thích nguồn gốc của sa mạc bằng câu chuyện ngụ ngôn như sau:
“Thiên Chúa đang
sáng tạo vũ trụ. Sau khi đã hoàn tất tinh tú, trái đất, biển khơi, sông ngòi,
Thiên Chúa bắt tay vào việc tạo dựng con người. Ngài nặn được những thân hình
thật đẹp, nhưng đó chỉ là những pho tượng, vì chưa có linh hồn”.
Lúc bấy giờ, một tổng
lãnh thiên thần mới đề nghị với Thiên Chúa là cần phải tạo dựng linh hồn cho
con người. Thế là Thiên Chúa miệt mài giam mình trong phòng thí nghiệm để tác tạo
linh hồn cho con người. Các linh hồn vừa mới ra lò còn rất mảnh khảnh và yếu ớt.
Ngài mang các linh
hồn tươi tắn ấy xuống trần gian và phân phát cho loài người. Nhưng rủi thay,
hôm đó trời đổ mưa, cho nên một số linh hồn chưa đủ cứng cáp đã biến dạng.
Một ngày nọ, một
trong những người đã lãnh nhận được linh hồn méo mó, đã buột miệng nói ra một lời
dối trá. Tuy chỉ là một lời dối trá không đáng kể, nhưng đó là một lời dối trá
đầu tiên xuất hiện trong lịch sử loài người.
Thiên Chúa vô cùng
hối hận vì đã không ngăn ngừa được sự dối trá ấy. ngài bèn tập trung loài người
lại và tuyên bố: “Từ nay, đừng có một người nào phạm thêm một điều dối trá nữa.
Nếu không, cứ mỗi lần có một lời dối trá, ta sẽ cho rơi xuống mặt đất một hạt
cát”.
Nhiều người nghe lời
đe dọa của Thiên Chúa, cười thầm trong lòng. Một hạt cát có đáng kể là bao sánh
với màu xanh trùng trùng điệp điệp của cây cỏ. Thành ra, loài người đã không đếm
xỉa đến lời cảnh cáo của Thiên Chúa. Người thứ hai thêm một lời nói láo mà vẫn
đinh nih đó chỉ là một lời không đáng kể, cũng như thêm một hạt cát trên trái đất
cũng không thay đổi được bộ mặt của nó. Cứ thế, người thứ ba, rồi người thứ tư…
Người ta nói dối đến độ Thiên Chúa không còn đủ sức để cho cát rơi xuống trên mặt
đất nữa… Ngài đành phải dùng đến bàn tay của các thiên thần để cho mưa cát xuống…
Không mấy chốc, những đồng cỏ xanh tươi, những vườn cây um tùm biến thành sa mạc
khô cằn. Thỉnh thoảng một vài ốc đảo xanh tươi mọc lên, đó là dấu hiệu sự hiện
diện của một vài người còn biết tôn trọng sự thật. Nhưng dần dà, ôn dịch dối
trá lan tràn khắp nơi, trái đất chỉ còn là một bãi sa mạc.
Tất cả những ai sống
trong một xã hội xây dựng trên dối trá, lừa đảo, đố kỵ lẫn nhau đều biểu hiện
được thế nào là sa mạc của tình người. Sa mạc nào cũng là biểu hiện của sự chết:
chết của tình người, chết của lòng tin tưởng lẫn nhau, chết của hy sinh phục vụ,
chết của lòng quảng đại. Tựu trung, dối trá cũng là tên gọi của ích kỷ. Người dối
trá là người chỉ biết sống cho mình. Nếu ơn gọi của con người, nếu sự thật của
con người là sống yêu thương, sống cho người, thì kẻ dối trá là người chối bỏ
chính mình.
Chúa Giêsu đã lên án gắt
gao thái độ dối trá. Ngài nói: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt
chuyện là bởi ma quỷ mà ra”. Kẻ dối trá, do đó, tự đặt mình dưới quyền thống trị
và điều khiển của ma quỷ.
Mỗi một thái độ dối trá là một hạt cát rơi xuống trên sa mạc của tình người. Nhưng mỗi một hành động của quảng đại, của yêu thương, của phục vụ là một ốc đảo xanh tươi của Chân lý, đó là Chân lý của tình yêu.
Mỗi một thái độ dối trá là một hạt cát rơi xuống trên sa mạc của tình người. Nhưng mỗi một hành động của quảng đại, của yêu thương, của phục vụ là một ốc đảo xanh tươi của Chân lý, đó là Chân lý của tình yêu.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét