11/06/2020
Thứ Năm tuần 10 thường niên
Thánh Banaba, tông đồ
Lễ nhớ.
* Thánh
nhân quê ở đảo Sýp. Ít lâu sau lễ Ngũ Tuần, người có mặt trong cộng đoàn
Giêrusalem, rồi ở Antiôkia, nơi người đã giới thiệu ông Saolê thành Tácxô với
các anh em.
Người đã cùng với
ông Phaolô đi loan báo Tin Mừng cho Tiểu Á, nhưng sau người trở lại đảo Sýp.
Thánh Banaba, với cái nhìn rộng rãi, khoáng đạt, đã giữ vai trò chủ yếu trong
tiến trình truyền giáo của Hội Thánh.
BÀI ĐỌC I: Cv 11, 21b-26; 13, 1-3
“Họ cũng rao giảng
Chúa Giêsu cho người Hy-lạp”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, có đông người tin trở về với Chúa. Tin đó thấu
tai Hội Thánh Giêrusalem, nên người ta sai Barnaba đến Antiôkia. Khi đến nơi và
thấy việc ơn Chúa thực hiện, ông vui mừng và khuyên bảo mọi người hãy vững lòng
tin nơi Chúa; Barnaba vốn là người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin. Và có
đoàn người đông đảo tin theo Chúa. Vậy Barnaba đi Tarxê tìm Saolô. Gặp được rồi,
liền đưa Saolô về Antiôkia. Cả hai ở lại tại Hội Thánh đó trọn một năm, giảng dạy
cho quần chúng đông đảo; chính tại Antiôkia mà các môn đệ lần đầu tiên nhận tên
là “Kitô hữu”.
Bấy giờ trong hội thánh Antiôkia có những tiên tri và tiến sĩ, trong số
đó có Barnaba, Simon cũng gọi là Nigê, Luxiô người thành Xyrênê, Manahê bạn của
vua Hêrôđê lúc còn thư ấu, và Saolô.
Đang khi các ông làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần
phán bảo các ông rằng: “Hãy để riêng Saolô và Barnaba cho Ta, để làm công việc
mà Ta đã chỉ định”. Vậy sau khi ăn chay cầu nguyện, họ đặt tay trên hai ông và
tiễn đưa hai ông lên đường. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 97, 1. 2-3a. 3cd-4. 5-6
Đáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ trước mặt chư dân (c. 2a).
Xướng:
1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện những việc lạ
lùng. Tay mặt Người đã đem lại toàn thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của
Người. – Đáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư
dân. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành đối nhà Israel. – Đáp.
3) Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất đã nhìn thấy ơn cứu độ của
Thiên Chúa chúng tôi. Toàn thể địa cầu hãy hân hoan mừng Chúa, hãy vui mừng
hoan lạc và đàn ca. – Đáp.
4) Hãy ca mừng Chúa với đàn cầm thụ, với đàn cầm thụ, với nhạc cụ râm
ran: Hãy thổi sáo và rúc tù và, hân hoan trước thánh nhan Chúa là Vua. – Đáp.
ALLELUIA:
Alleluia, alleluia! – Chúng con ca ngợi Thiên Chúa, chúng
con tuyên xưng Chúa; lạy Chúa, ca đoàn vinh quang của các Tông đồ ca ngợi Chúa.
– Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 10, 7-13
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng:
“Các con hãy đi rao giảng rằng: Nước Trời đã gần đến. Hãy chữa những bệnh nhân,
hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy
trừ quỷ: Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không.
“Các con chớ mang vàng, bạc, tiền nong trong
đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép
và gậy gộc: vì thợ thì đáng được nuôi ăn. Khi các con vào thành hay làng nào,
hãy hỏi ở nơi đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi.
“Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng:
“Bình an cho nhà này”. Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với
nhà ấy; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì sự bình an của các con sẽ trở về với
các con”.
Hoặc :PHÚC
ÂM: Mt 5, 20-26 (Thứ Năm tuần 10 Thường niên)
“Bất cứ ai phẫn nộ
với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu các con không công
chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.
“Các con đã nghe dạy người xưa rằng: ‘Không được giết người. Ai giết
người, sẽ bị luận phạt nơi toà án’. Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn
nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là “ngốc”, thì bị
phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là “khùng”, thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu
con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình
với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em
con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc
còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà
lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết:
Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng!”. Đó là lời
Chúa.
SUY NIỆM : Người con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Barnaba tông đồ. Là một người Do Thái
sinh trưởng tại đảo Sýp vào khởi đầu của đạo Kitô, Barnaba có tên là Giuse, thuộc
dòng tộc Lêvi. Có lẽ thánh nhân từng sống tại Giêrusalem trước khi Chúa Giêsu
chịu tử nạn. Vì nhiệt tình và sự thành công trong công tác rao giảng, cho nên
thánh nhân được các thánh tông đồ tặng cho biệt hiệu là Barnaba, nghĩa
là “người con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi”.
Sau khi trở lại, thánh Phaolô đến Giêrusalem, nhưng cộng đoàn tín hữu
tại đây vẫn còn ngờ vực thiện chí của ngài.
Chính thánh Barnaba là người đứng ra bảo đảm và giới thiệu thánh
Phaolô với các tông đồ, nhưng sau đó thánh Phaolô lui về ẩn dật trong nhà ngài
tại Tácxô trong nhiều năm và Barnaba vẫn ở lại Giêrusalem. Sau này các thánh
tông đồ sai Barnaba đến Antiokia để điều tra về sự thành công của thánh Phaolô
trong công tác rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, Barnaba đã nhận ra ngay ơn
Chúa trong công việc của thánh Phaolô. Ðây là lý do để nối kết hai người lại với
nhau trong cánh đồng truyền giáo của dân ngoại. Cả hai sát cánh bên nhau tại
Antiokia trong vòng một năm. Một trận đói lớn đã tàn phá Giêrusalem, Barnaba và
Phaolô đã quyên góp để mang về Giêrusalem cứu trợ. Sau công tác này, cả hai trở
về Antiokia và mang theo một người bà con họ hàng với Barnaba là Marcô, vị
thánh sử tương lai.
Từ Antiokia, cùng với Marcô, Barnaba và Phaolô lên đường đi đến đảo
Sýp, quê hương của Barnaba và từ đó sang Tiểu Á. Tại một trạm đầu tiên ở Tiểu
Á, Marcô đã chia tay với Barnaba và Phaolô. Barnaba và Phaolô bắt đầu những trạm
truyền giáo cam go nhất. Mỗi một bước đi là mỗi một lần bị chống đối và bách hại
từ phía những người Do Thái. Những người này cũng xúi giục dân ngoại chống lại
các vị tông đồ.
Tại Líttra, sau khi thánh Phaolô chữa lành một người tàn tật, dân
thành xem các ngài như những vị thần. Họ định giết bò để tế cho các ngài nhưng
liền sau đó bị người Do Thái xúi giục họ lại quay ra tấn công hai ngài. Riêng
thánh Phaolô bị gây thương tích. Dù bị chống đối và bách hại, hai vị tông đồ vẫn
hoán cải được nhiều người cũng như tổ chức được giáo đoàn. Bị người Do Thái và
dân ngoại chống đối và bách hại, Barnaba và Phaolô còn gặp khó khăn ngay cả từ
phía cộng đoàn Giêrusalem. Vấn đề xoay quanh việc có nên cắt bì cho dân ngoại không.
Hai vị thánh này đã tranh đấu và cuối cùng đã tìm được giải pháp trong cộng
đoàn Giêrusalem.
Về sau, trong chuyến đi trở lại để viếng thăm các cộng đoàn, Barnaba
và Phaolô đã chia tay nhau mỗi người một ngả. Barnaba đi với Marcô đến Sýp;
Thánh Phaolô cùng với một người môn đệ tên là Xila trở lại Tiểu Á. Những năm
tháng còn lại của Barnaba không còn được nhắc đến nữa. Nhưng cũng như thánh
Phaolô, thánh Barnaba vừa rao giảng Tin Mừng vừa tự lực cánh sinh. Khi thánh
Phaolô bị giam tại Rôma, Marcô đã trở thành môn đệ của ngài. Ðiều này cho thấy
rằng Barnaba không còn nữa.
Theo truyền thuyết, thánh Barnaba là vị giám mục đầu tiên của thành
Milanô. Dù thế nào đi nữa, tất cả mọi truyền thuyết đều gặp nhau trong cùng một
điểm là xem Barnaba như con người được mến chuộng nhất trong thế hệ Kitô đầu
tiên. Trong sách Tông Ðồ Công Vụ, thánh sử Luca gọi ngài là một con người tốt,
đầy tràn Chúa Thánh Thần. Thái độ của ngài đối với thánh Marcô chứng tỏ một
trái tim nhân hậu và đại lượng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 10 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 1
Kgs 18:41-46; Mt 5:20-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải kiên nhẫn đưa tha nhân về với
Thiên Chúa.
Con người sống xa cách Thiên Chúa vì rất nhiều lý do: không có cơ hội
được nghe Lời Chúa, sống trong gia đình cha mẹ không thực hành đức tin, sống
trong xã hội quá chú trọng tới vật chất và chống những giá trị tôn giáo… Rất dễ
cho chúng ta kết tội tha nhân và “đường ai nấy đi, mạnh ai nấy sống.” Đức Kitô
không cho phép các môn đệ kết tội tha nhân cách dễ dàng như thế; nhưng muốn họ
trở thành muối và ánh sáng để đưa những anh chị em lầm đường lạc lối trở về.
Các bài đọc hôm nay đưa ra những bài học cụ thể để làm gương cho các
tín hữu. Trong bài đọc I, ngôn sứ Elijah sau khi đã chứng minh cho con cái
Israel biết đâu là Chúa thật bằng phép lạ Đức Chúa khiến lửa từ trời xuống
thiêu rụi của lễ, ông ra lệnh cho vua Ahab và toàn dân phải ăn chay để tỏ lòng
ăn năn thống hối trước khi cầu khẩn Thiên Chúa cho mưa rơi để chấm dứt những
năm hạn hán. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu kết tội mọi hình thức tức giận, khinh
thường và kết tội tha nhân. Thay vào đó, các môn đệ phải luôn có lòng tha thứ
và sống hòa thuận với mọi người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I:
Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương Dân Ngài.
1.1/ Những việc làm tỏ lòng ăn năn thống hối: Mục đích Thiên Chúa sửa
phạt là vì yêu thương: để dân chúng nhận ra lỗi lầm và trở về với Ngài, chứ
không phải vì tức giận mà tiêu diệt. Sau khi toàn dân đã nhận ra sai lầm của việc
thờ thần Baal, Elijah yêu cầu vua Ahab và toàn dân ăn chay để tỏ lòng thống hối,
và ông sẽ cầu nguyện với Thiên Chúa để Ngài đổ mưa xuống trên dân. Khi hết thời
hạn ăn chay, ông Elijah nói với vua Ahab: “Xin mời vua lên mà ăn uống, bởi vì
có tiếng mưa rào!” Vua Ahab liền lên ăn uống.
Trong khi đó, ngôn sứ Elijah trèo lên núi Carmen. Đỉnh núi Carmen là
ngọn núi cao nhất gần Sidon, nhìn ra biển Mediterranean, tại đây, ngôn sứ
Elijah có thể nhìn thấy những đám mây đen mang nước mưa vào từ biển. Elijah
“cúi xuống đất, gục mặt vào hai đầu gối.” Đây có lẽ là vị thế cầu nguyện nghiêm
trọng nhất để khẩn cầu ơn Chúa xuống. Trên đỉnh núi này, ngày nay vẫn còn một
nhà nguyện và chỗ cầu xin của ngôn sứ Elijah cho khách hành hương kính viếng.
Vào ngày đẹp trời, du khách có thể nhìn thấy đồng bằng Jezreel chạy cho tới biển
hồ Galilee từ đỉnh núi này về phía Đông Nam.
1.2/ Hạn hán chấm dứt: Ông Elijah bảo đầy tớ: “Con đi lên và nhìn về
phía biển.” Nó đi lên, nhìn và nói: “Không có gì cả!” Ông bảo: “Hãy trở lại bảy
lần.” Ngôn sứ Elizah cầu nguyện kiên trì bảy để xin ơn Thiên Chúa lần mỗi khi đầy
tớ lên đỉnh núi. Lần thứ bảy, nó nói: “Kìa có một đám mây nhỏ bằng bàn tay người
đang từ biển bốc lên.” Ông nói: “Con hãy lên thưa với vua Ahab: xin vua thắng
xe và xuống kẻo bị kẹt mưa.” Lập tức trời kéo mây đen nghịt và nổi gió, rồi
trút mưa lớn. Vua Ahab cỡi xe đi Jezreel.
Trong khi đó, “tay Đức Chúa đặt trên ông Elijah; ông thắt lưng và chạy
trước vua Ahab cho tới lúc vào vùng đồng bằng Jezreel.” Đây là cuộc chạy đua
chiến thắng vì ngôn sứ Elijah đã được Thiên Chúa cho thắng trận huy hoàng. Ông
đã làm cho vua Ahab và toàn dân quay trở về với Thiên Chúa và chấm dứt hạn hán.
2/ Phúc Âm: Nếu
anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisees, thì sẽ chẳng
được vào Nước Trời.
Tôn trọng phẩm giá của tha nhân: Chúa Giêsu cảnh cáo các môn đệ: “Thầy
bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người
Pharisees, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” Chúng ta cần nhớ chương 5 của Tin
Mừng Matthew bắt đầu bằng Bát Phúc là những lời dạy của Chúa Giêsu giúp các môn
đệ trở nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành. Chúa Giêsu thường
dùng công thức: “Người xưa dạy… còn Ta, Ta dạy… ” Trong trình thuật hôm nay,
Ngài đòi các môn đệ phải ăn ở tốt lành và công chính hơn các kinh sư trong hai
lãnh vực:
2.1/ Phải tôn trọng phẩm giá của tha nhân: “Anh em đã nghe Luật dạy
người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy,
Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng
anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi
anh em mình là quân vô đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt.”
Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ biết có nhiều cách giết người, chứ
không phải chỉ giết người về phương diện thể lý. Chúng ta có thể giết tha nhân
bằng việc:
– Giận dữ: Hai chữ được dùng trong Hy-lạp: thurmos (giận
dữ) cho những cơn giận nóng lên rồi hạ hỏa ngay và orge (cho
những cơn giận dai dẳng, giận cho đến mãn đời). Chúa Giêsu ngăn cấm các môn đệ
không được giận dữ, “ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà.”
– Khinh thường tha nhân: Raca trong Hy-lạp là chữ khó
dịch, có thể dịch như “đồ ngu ngốc hay điên rồ về phương diện trí tuệ.” Chúa
Giêsu luận tội: “Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng
Hội Đồng.” Căn bản cho lời luận tội này là mọi người đều được Thiên Chúa dựng
nên.
– Mắng anh em là moros (điên rồ về phương diện luân
lý): Những người này có thể là những người vô thần hay sống một cuộc sống đồi
trụy. Chúa Giêsu luận tội: “Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng
bị lửa hoả ngục thiêu đốt.” Bổn phận của các môn đệ là phải kiên nhẫn đưa họ về,
chứ không phải mắng mỏ, buộc tội.
2.2/ Cần phải tha thứ: Truyền thống Do-thái cũng như Kitô hữu tin mối
liên hệ hàng dọc với Thiên Chúa tùy thuộc vào mối liên hệ hàng ngang với tha
nhân: một người phải tha thứ cho anh em trước khi muôn được Thiên Chúa tha thứ.
Theo truyền thống Do-thái, mỗi khi vô tình phạm tội, hối nhân phải dâng lễ vật
để xin Thiên Chúa tha thứ cho những tội đã phạm. Trường hợp liên quan tới mối
liên hệ với con người, họ phải làm hòa với nhau trước khi có thể giao hòa với
Thiên Chúa. Thần học về Bí-tích Giải Tội cũng đòi hối nhân phải tha thứ cho người
xúc phạm đến mình như Thiên Chúa đã tha thứ cho hối nhân.
Ngoài ra, ăn ở hài hòa giúp con người tránh được những nhức đầu trong
cuộc sống: Cha ông chúng ta vẫn dạy “dĩ hòa vi quí;” người hiền lành sẽ được mọi
người thương mến. Ngược lại, những người khó chịu, cau có, sẽ chuốc cho mình những
ghen ghét, tranh tụng, và mất bình an. Chúa Giêsu khuyên các môn đệ: ”Anh hãy
mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa
công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và
anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước
khi trả hết đồng xu cuối cùng.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta không được giận dữ, khinh thường, hay buộc tội tha nhân;
nhưng phải luôn tìm dịp cho họ có cơ hội ăn năn thống hối và trở lại với Thiên
Chúa.
– Trở nên tốt là một tiến trình đòi kiên nhẫn và thời gian. Chúng ta cần
kiên nhẫn giáo dục tha thứ, và khuyến khích tội nhân trên đường về với Thiên
Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
11/06/2020 – THỨ NĂM TUẦN 10 TN
Th. Ba-na-ba, tông đồ
Mt 10,6-13
NGƯỜI TÔNG ĐỒ “NHẬP CƯ”
“Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy.” (Mt
10,12)
Suy niệm: Chúa
Giê-su sai các tông đồ đi rao giảng trong những điều kiện thật bấp bênh và nguy
hiểm: – phải đối diện với biết bao mối đe doạ tới cả tính mạng: “như chiên đi
vào giữa bầy sói;” – đã thế, lại không được phép trang bị những phương thế tối
thiểu để bảo đảm cho an toàn bản thân và thành công của sứ mạng. Phải chăng
Chúa đang trao cho các ông “sứ mạng bất khả thi” hay Ngài “đem con bỏ chợ”? Thật
ra, chúng ta quá lo vì những điều các tông đồ không có mà quên chú ý tới điều
các ngài đang có: đó chính là sự bình an (cc. 13-13) và Thánh Thần của Chúa vẫn
luôn ở trong họ (c. 20). Vì thế, việc đầu tiên người tông đồ làm là trao tặng
điều họ đang có: “Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy.”
Mời Bạn: Những
người nhập cư, một thành phần đặc biệt của dân số thời nay, có khi chính bạn
cũng nằm trong số đó, đang sống trong một hoàn cảnh na ná các tông đồ ngày ấy.
Nếu bạn là người nhập cư, sự bình an và Tinh Thần của Chúa Ki-tô đã ở trong bạn
chưa? Nếu họ đang ở quanh bạn, bạn làm gì để đem bình an của Chúa đến với họ?
Chia sẻ: Họp
bàn trong nhóm để làm một việc thiết thực giúp ích những người nhập cư (hoặc phải
di cư) trong khu xóm của bạn.
Sống Lời Chúa: Chính bạn hãy có sự bình an trong mình bằng cách luôn kết
hiệp với Chúa Giê-su Thánh Thể và nếu có cơ hội, đừng bao giờ bỏ lỡ việc chia sẻ
cho những người “tông đồ nhập cư” quanh bạn dù chỉ là một chén nước lã.
Cầu nguyện: Lạy
Chúa, xin dạy con hiểu rằng người tông đồ của Chúa trong thời đại này phải là
người đem bình an của Chúa đến cho tha nhân.
(5 Phút Lời Chúa)
SUY NIỆM : Người được
sai đi
Suy niệm:
Chúng ta không rõ Thầy Giêsu đã sai các môn đệ lên đường
sau thời gian họ sống với Ngài bao lâu.
Nhưng chúng ta biết chắc là Thầy có sai các môn đệ.
Thầy sai họ đi để làm những việc Ngài đã và đang làm (Mt 9, 35),
như rao giảng Tin Mừng về Nước Trời, chữa bệnh, trừ quỷ (c. 8a).
Như thế họ trở nên những cộng sự viên của Ngài trong cùng một sứ vụ.
Thầy Giêsu không độc quyền trong công việc.
Ngài cũng không giữ riêng cho mình quyền trên các thần ô uế (Mt 10,1).
Việc chia sẻ quyền và mời gọi cộng tác đã có từ thời Thầy Giêsu,
và vẫn kéo dài trong Giáo Hội.
Lời dặn dò của Đức Giêsu trước khi sai họ đi đã đánh động nhiều tâm hồn,
đặc biệt những vị sáng lập các dòng tu.
Đặt mình vào bối cảnh vùng Galilê cách đây gần hai mươi thế kỷ,
chúng ta mới hình dung được khuôn mặt của những vị tông đồ đầu tiên.
Trước hết họ được sai đến với chính đồng hương của họ,
“những chiên lạc nhà Israel”, vất vưởng không người chăn dắt (Mt 9,
36).
Loan báo Tin Mừng là lên đường, đường đất đá hay đường núi đồi,
và đi bằng đôi chân của mình, không giày dép.
Những bước chân nhẹ nhàng vì hành trang chẳng có gì.
Thắt lưng chẳng mang tiền vàng, bạc, đồng, để dùng khi hữu sự.
Cả những điều một người lữ hành thường có cũng không:
một bao bị, một cái áo dự phòng, một cái gậy để chống khi đi đường xa.
Người tông đồ được đặt ở trong tình trạng bấp bênh, không chỗ dựa.
Chỗ dựa duy nhất của họ là lòng tốt của Thiên Chúa,
được thể hiện qua lòng tốt của người đón nghe Tin Mừng.
Chuyện ăn, chuyện ở, họ đều phải tin tưởng phó thác (cc. 10b. 11).
Hành trang nhẹ nhàng, tâm hồn nhẹ nhàng,
nên các tông đồ cũng thi hành sứ vụ một cách nhẹ nhàng, thanh thoát.
Họ làm mọi sự mà chẳng đòi hỏi gì (c. 8b).
Vừa rao giảng Tin Mừng rằng Nước Trời đã đến rồi,
vừa minh chứng Tin Mừng ấy bằng bao niềm vui đem đến cho người khác.
Bệnh nhân được khỏi, người chết sống lại, người phong được sạch,
và nhất là ma quỷ không còn chỗ cư ngụ trong lòng con người (c. 8a).
Bình an là lời chúc trên môi dành cho mọi căn nhà họ đến ở (c. 12).
Rõ ràng hành trình truyền giáo là một kinh nghiệm đầy ắp niềm vui hứng
khởi,
cho đoàn chiên và cho chính các tông đồ.
Nếu Thầy Giêsu dặn dò các tông đồ hôm nay, Ngài sẽ nói gì?
Ngài sẽ bảo chúng ta đừng mang gì và nên làm gì cho con người hôm nay?
Chắc Ngài cũng sẽ khuyên hãy nhẹ nhàng hơn, phó thác hơn, vô vị lợi
hơn.
Thế giới hôm nay vẫn yếu đau và bị ám như cách đây hai ngàn năm.
Thế giới hôm nay vẫn chờ một Tin Vui, một lời chúc Bình an.
Chúng ta vẫn được mời gọi để làm điều Ngài và các môn đệ đã làm.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG SÁU
Biết Phân Định Tốt Xấu
Con người được tạo dựng “theo hình ảnh của Thiên Chúa”; mầu nhiệm
này còn được trình bày trong các sách khác của Thánh Kinh. Chẳng hạn, ta đọc thấy
trong Sách Huấn Ca: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người… rồi lại đưa con người
trở về đất. Người cho nó quyền thống trị vạn vật trên mặt đất. Người mặc cho nó
sức mạnh tương xứng với mình, và theo hình ảnh mình mà làm ra nó. Người phú bẩm
cho mọi xác phàm lòng kính sợ Người, để chúng thống trị muôn chim cầm thú. Người
ban cho chúng trí khôn, luỡi, mắt, tai, và trái tim để chúng suy nghĩ. Người
làm cho chúng đầy kiến thức thông minh, tỏ cho chúng biết điều tốt điều xấu.
Người đặt con mắt mình vào tâm hồn chúng, để chúng nhận ra các công trình vĩ đại
của Người … Người còn ban kiến thức cho chúng, và cho thừa hưởng luật đem lại sự
sống; Người đã lập với chúng một giao ước muôn đời, và tỏ cho thấy những điều
Người phán quyết” (Hc 17,1. 2b – 7. 9 – 10).
Cần phải suy niệm thật kỹ bản văn phong phú và sâu sắc trên của Sách
Huấn Ca. Hãy ôm ấp những lời ấy trong lòng mình và hãy xích lại gần hơn với
Thiên Chúa.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 11/6
Thánh Barnaba, Tông Đồ
Cv 11, 21b-26;13, 1-3; Mt 5, 20-26.
Lời Suy Niệm: “Vậy, Thầy nói cho anh em biết, nếu anh em
không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào
Nước Trời.”
Chúa Giêsu đang mời gọi mỗi một
người trong chúng ta phải ăn ở công chính hơn các kinh sự và người Pharisêu, để
được vào Nước Trời. Để đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu, mỗi người cần phải đọc,
suy niệm và sống theo các Sách Tin Mừng; đặc biệt Tin Mừng Mátthêu: “Đừng giận
ghét; Chớ ngoại tình; Đừng ly dị; Đừng thề thốt; Chớ trả thù; Phải yêu thương kẻ
thù.(Chương 5) Bố thí cách kín đáo; Cầu nguyện nơi kín đáo; Ăn chay nơi kín
đáo; không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của; Tin tưởng vào Chúa
quan phòng; (Chương 6) Đừng xét đoán (chương 7). Với một sự thành tâm của mình
chứ không phô trương, giả hình.
Lạy Chúa Giêsu. Xin ban cho chúng
con đức khiêm nhượng và cất khỏi lòng chúng con tính kiêu ngạo, giả hình, để
chúng con sống theo Luật Chúa dạy: “Chớ giận ghét”.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 11-06: Thánh BARNABA TÔNG ĐỒ
(Thế kỷ I)
Thánh Barnaba nắm giữ một chức vụ nổi bật trong những chương đầu của
sách công vụ tông đồ, không phải cho mình mà nhằm giới thiệu thánh Phaolô, anh
hùng trong cuốn sách. Ngài là một người Do thái được sinh tại Chypre. Và là một
phần tử trong Giáo hội sơ khai ở Giêrusalem.
Chính ở địa vị này mà khoảng năm 39 tân tòng Saolê được đón nhận vào cộng
đoàn các tông đồ (Cv 9-27). Bốn năm sau, Ngài kêu gọi Saolê tham gia công tác
hướng dẫn cộng đoàn Kitô giáo mới được thiết lập ở Antiôkia (Cv 11,19-26).
Thành phố này rất quan trọng, chỉ kém Rôma và đã trở nên trung tâm Kitô giáo của
lương dân. Một lần nữa, cùng với Saolê, Ngài được trao phó cho nhiệm vụ mang tiền
cứu trợ gởi về cho Giáo hội Giêrusalem (Cv 27-30). Nơi đây hai người lại được
Gioan Maccô là bà con của Barnaba (Gl 4,10) nhập bọn.
Ba người họp thành đoàn truyền giáo, lên đường khoảng năm 45 (Cv 13 và
14). Từ đây Barnaba dần dần ẩn mặt đi. Dầu Chypre là sinh quán của Ngài, nhưng
chính Saolê dưới tên mới là Phaolô dẫn dầu cuộc truyền bá Phúc âm. Phaolô và đoàn
tùy tùng lên đường tới lục địa Tiểu Á. Khi cùng Phaolô rao giảng (Cv 14,8-18),
Barnaba được coi là thần Jupiter và Phaolô là Hermes.
Đây là chứng cớ hùng hồn về vai trò hỗ tương của hai ông. Ba năm sau
Phaolô trở về và được cộng đồng Giêrusalem phê chuẩn về đường lối Ngài theo
trong chuyến hành trình (Cv 15,1-35). Nămsau, dự định hành trình truyền giáo
thư hai có sự tranh chấp về việc kết nạp Gioan Marcô (Cv 15,35-41). Phaolô chọn
các bạn đồng hành khác và Barnaba trở về Chypre. Việc giới thiệu Phaolô đã được
hoàn thành và tên Ngài không còn được nhắc đến trong sách Công vụ nữa. Trong việc
trao đổi thư từ của Phaolô với Giáo hội Côrintô cho thấy khoảng năm 56 thánh
Barnaba vẫn còn sống (1Cr 9,5). Sáu năm sau Phaolô xin Marcô đến gặp mình ở
Roma (2Tm4). Sự kiện này cho phép chúng ta nghĩ rằng thánh Barnaba đã qua đời.
Một truyền thống sau này nói tới chuyến hành trình của thánh Barnaba tới
Alexandria, Rôma, và Milan. Tại Milan, Ngài là giám mục tiên khởi. Một truyền
thống đáng tin hơn cho biết Ngài chết vì ném đá ở Salamis,sinh quán của Ngài.
Nay còn nhiều mảnh vụn của cuốn ngụy thư Phúc âm thánh Barnaba và của một tác
phẩm thuộc thế kỷ thứ V là công vụ thánh Barnana. Nhưng những tài liệu này
không cho biết nhiều hơn những điều đã biết được từ sách Công vụ các tông đồ.
Cuốn gọi là thơ thánh Barnaba mà nhiều giáo phụ chép vào thơ mục thánh kinh,
nay người ta biết được là tác phẩm của một người Do thái theo Kitô giáo ở
Alexandria.
Người ta nói rằng mộ Ngài được tìm thấy năm 448. Trên ngực Ngài còn có
một cuốn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Barnaba đã chép tay.
(daminhvn.net)
11 Tháng Sáu
Kẻ Tháo Ðinh
Một trong những chi tiết trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu
vẫn còn tiếp tục gợi hứng cho các họa sĩ: đó là việc hạ xác Ngài xuống khỏi Thập
giá. Tin Mừng theo thánh Gioan ghi lại việc ông Nicôđêmô và một người môn đệ
kín đáo khác của Chúa Giêsu tên là Giuse Arimahtia đã đến xin phép Philatô được
tháo gỡ xác Ngài xuống khỏi Thập giá. Trong hầu hết các bức tranh mô tả biến cố
này, người ta đều thấy hình ảnh tiều tụy, không còn hình tượng của Chúa Giêsu
mà hai người môn đệ đỡ xuống khỏi thập giá. Một người tháo đinh ra khỏi tay
Ngài, còn một người thì tháo đinh ra khỏi chân Ngài.
Một họa sĩ nọ, thay vì vẽ lại chân dung của hai người môn
đệ của Chúa Giêsu đã chọn những khuôn mặt của thời đại ông. Và người tháo đinh
ra khỏi bàn chân của Chúa Giêsu không ai khác hơn là chính ông. Khi được hỏi lý
do tai sao ông lại đồng hóa mình với một trong hai người môn đệ, nhà họa sĩ đã
giải thích như sau: “Những người như tôi rất thường đóng đinh Chúa Giêsu vào thập
giá. Và những đinh sắt tôi dùng để đóng đinh Chúa chính là tội lỗi của tôi. Ðã
đến lúc, tôi cảm thấy cần phải tháo gỡ chiếc đinh của tội lỗi ra khỏi thân xác
của Ngài”.
Chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Người chịu đóng đinh vào thập
giá vì chúng tôi”. Ðiều đó có nghĩa là do tội lỗi của chúng ta, chúng ta góp phần
vào việc đóng đinh Ngài vào thập giá.
Thập giá vẫn luôn mãi là một lời tố cáo, một bản án cho tội lỗi. Nhưng
đó không chỉ là một biểu tượng, mà là một hiện thực. Nếu Ðức Kitô hôm qua, hôm
nay và mãi mãi vẫn là Một, nếu Ðức Kitô vẫn tiếp tục sống trong lịch sử con người
và nếu tội lỗi là một chối bỏ, thì mỗi lần chúng ta phạm tội, chúng ta cũng chối
bỏ chính Ngài, chúng ta đóng đinh Ngài vào thập giá một lần nữa. Nếu Ðức Kitô vẫn
tiếp tục sống trong lịch sử con người, nếu Ngài tự đồng hóa với con người, nhất
là những kẻ khốn cùng, những kẻ thấp hèn nhất trong xã hội, thì mỗi một lần
chúng ta khước từ hay xúc phạm đến người anh em, là mỗi lần chúng ta chối bỏ
Ngài và đóng đinh Ngài vào thập giá. Qua mỗi người anh em của chúng ta, Chúa
Giêsu vẫn còn tiếp tục bị chối bỏ và chịu đóng đinh.
(Lẽ Sống)






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét