20/08/2020
Thứ Năm tuần 20
thường niên.
Thánh Bênađô, viện
phụ, tiến sĩ Hội Thánh.
Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh năm 1090 gần Đi-giông, nước Pháp. Được giáo dục theo nếp
sống đạo đức, năm 1111, người nhập dòng các đan sĩ Xitô. Ít lâu sau, người được chọn làm viện phụ.
Người đã dùng hoạt động và gương sáng để hướng dẫn các đan sĩ tập luyện các
nhân đức. Vì có sự phân ly trong Hội Thánh, người đã đi khắp châu Âu để lo vãn hồi sự hòa bình và hiệp
nhất. Người đã biên soạn nhiều tác phẩm
thần học và tu đức. Người qua đời năm 1153.
BÀI ĐỌC I: Ed 36, 23-28
“Ta sẽ ban cho các ngươi quả
tim mới, và đặt giữa các ngươi một thần trí mới”.
Trích sách Tiên tri
Êdêkiel.
Đây Chúa phán: Ta sẽ thánh hoá danh cao cả Ta đã bị xúc phạm giữa các dân
tộc, nơi mà các ngươi đã xúc phạm danh thánh Ta, để các dân tộc biết Ta là
Chúa, Thiên Chúa các đạo binh phán, khi Ta tự thánh hoá nơi các ngươi trước mặt
họ. Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi từ các nước,
và dẫn dắt các ngươi trên đất các ngươi. Ta sẽ dùng nước trong sạch mà rảy trên
các ngươi, và các ngươi sẽ được rửa sạch mọi vết nhơ. Ta sẽ thanh tẩy các ngươi
sạch mọi vết nhơ các bụt thần. Ta sẽ ban cho các ngươi quả tim mới, đặt giữa
các ngươi một thần trí mới, cất khỏi xác các ngươi quả tim bằng đá và ban cho
các ngươi quả tim bằng thịt. Ta đặt thần trí Ta giữa các ngươi, làm cho các
ngươi thực thi các huấn lệnh Ta, làm cho các ngươi tuân giữ và thực hành các lề
luật Ta. Các ngươi sẽ cư ngụ trong xứ Ta đã ban cho tổ phụ các ngươi; các ngươi
sẽ là dân Ta, còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 50, 12-13.
14-15. 18-19
Đáp:Ta sẽ dùng nước
trong sạch mà rảy trên các ngươi, và các ngươi sẽ được rửa sạch mọi vết nhơ (Ed
36, 25).
Xướng:
1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần
cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi
Thánh Thần Chúa ra khỏi con. – Đáp.
2) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ; với tinh thần quảng đại, Chúa
đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về
với Ngài. – Đáp.
3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ
không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng
chê tấm lòng tan nát, khiêm cung. – Đáp.
ALLELUIA: Tv 147, 12a
và 15a
Alleluia, alleluia!
– Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Đấng đã sai Lời Người xuống cõi trần ai. –
Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 22, 1-14
“Các ngươi gặp bất cứ ai, thì mời
vào dự tiệc cưới”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những
dụ ngôn này rằng: “Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua
sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến.
Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: ‘Hãy nói cùng những người đã được mời rằng:
Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn
sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới’. Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa
gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác
thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh
nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của
chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: ‘Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng
những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất
cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới’. Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận
tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.
Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người
không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: ‘Này bạn, sao bạn vào
đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?’ Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền
cho các đầy tớ rằng: ‘Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải
khóc lóc và nghiến răng!’ Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn
thì ít”. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Tiệc Cưới,
Áo Cưới
Dụ ngôn tiệc cưới và
chiếc áo cưới trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta mặc lấy một trong những
tâm tình cơ bản nhất của Kitô giáo, đó là hân hoan, vui mừng. Kitô giáo thiết yếu
là đạo của Tin Mừng.
Trong rất nhiều sinh
hoạt và hình ảnh của cuộc sống, Chúa Giêsu đã chọn bữa ăn như dấu chỉ ưu việt
nhất để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Nước Trời giống như một tiệc cưới, đây là một
trong những hình ảnh được Chúa Giêsu sử dụng nhiều nhất để nói lên niềm vui của
Nước Trời. Chúa Giêsu cũng mặc cho bữa tiệc của Ngài một ý nghĩa tượng trưng đặc
biệt. Chúng ta chỉ cần nhớ lại tiệc cưới Cana, trong đó Chúa Giêsu đã biến nước
thành rượu để khách dự tiệc được tiếp tục cuộc vui. Ngài dự tiệc do Lêvi, do
Zakêu và rất nhiều người thu thuế khoản đãi; Ngài đồng bàn với họ, chia sẻ một
tấm bánh và uống một chén rượu với họ.
Không những đồng bàn với
những người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng không từ chối lời mời của những người Biệt
phái, những người giàu có. Ngài chia sẻ bữa ăn thân thiết với gia đình Marta,
Maria và Lazarô tại Bêtania. Ngài thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối
cùng của Ngài với các môn đệ. Sau khi sống lại, Ngài ngồi đồng bàn với hai môn
đệ trên đường Emmau. Ngài hiện ra trên bờ hồ và chuẩn bị bữa ăn cho các môn đệ,
rồi Ngài cùng ăn cùng uống với các ông.
Bữa ăn là nơi thể hiện
của những giá trị cao quí nhất trong cuộc sống của con người, như gặp gỡ, hiệp
thông, trao ban, chia sẻ, hân hoan. Chính vì ý nghĩa cao quí ấy, Chúa Giêsu đã
mượn hình ảnh bữa tiệc để nói lên những thực tại Nước Trời. Ðến đây, chúng ta
hiểu được ý nghĩa của hình ảnh chiếc áo cưới mà thực khách phải mặc vào khi dự
tiệc cưới. Chiếc áo cưới ấy chính là tâm tình gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, hân
hoan mà con người phải mặc lấy để thuộc về Nước Trời.
Có người đã tưởng tượng
ra Thiên đàng, hỏa ngục như hai bàn tiệc. Bàn tiệc dưới hỏa ngục cũng mâm cao cỗ
đầy, thế nhưng khách dự tiệc thì ngồi ủ rũ buồn thiu, bởi vì mỗi người đều cầm
trong tay một đôi đũa dài đến độ thức ăn thì gắp được, nhưng không thể đưa thức
ăn vào miệng. Bàn tiệc trên Thiên đàng cũng y hệt, nhưng khác một điều, là thay
vì gắp thức ăn cho vào miệng mình, người ta lại gắp thức ăn và đưa vào miệng người
đối diện, thế là vui vẻ cả, vì ai cũng được ăn uống no nê.
Ước gì niềm vui bàn tiệc
thánh mà chúng ta tham dự cũng được tiếp tục thể hiện trong đời thường của
chúng ta. Ước gì cả cuộc sống chúng ta luôn được diễn ra trong gặp gỡ, chia sẻ,
trao ban, vui tươi, nhờ đó chúng ta cảm nhận được niềm vui đích thực của Nước
Trời và thắng vượt được mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 20 TN2
Bài đọc: Eze
36:23-28; Mt 22:1-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải luôn biết quí trọng những hồng ân Thiên Chúa ban.
Con người dễ rơi vào
thái độ nhàm chán và khinh thường những gì họ đã quá quen thuộc. Một khi họ đã
trở nên quá quen với những ân huệ và đặc quyền được hưởng, họ có khuynh hướng
khinh thường chúng. Để có thể nhận ra và quí trọng của những ân huệ và đặc quyền
được hưởng, con người nhiều khi cần phải đổi môi trường sinh sống. Trong đời sống
thiêng liêng cũng vậy, nhiều khi đã quá quen với chương trình phụng vụ của gia
đình hay giáo xứ, con người trở nên khô khan nguội lạnh. Những lúc như thế, con
người cần có một luồng khí mới để làm sống lại tinh thần hăng say phấn khởi của
thuở ban đầu.
Các bài đọc hôm nay
nêu bật thói quen nhàm chán và khinh thường này. Trong bài đọc I, vì người
Do-thái khinh thường tình yêu và sự bảo vệ của Thiên Chúa, Ngài để cho quân thù
đến phá tan tất cả và đem họ đi lưu đày. Sống trong nơi lưu đày, họ có thời
gian suy nghĩ và nhận ra tình yêu và đặc quyền Thiên Chúa đã ban, họ hối hận và
trở lại cùng Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng một dụ ngôn để bày tỏ nỗi
lòng yêu thương của Ngài: Ngài xuống trần là để đem Tin Mừng trước tiên cho người
Do-thái; nhưng vì họ không chịu tiếp nhận, nên Tin Mừng được đem đến cho tất cả
những ai mở lòng đón nhận.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Quả tim mới, thần khí mới.
Dân Do-Thái đã được
Thiên Chúa thương yêu cách đặc biệt nên được chọn làm Dân Riêng của Chúa và cho
hưởng những đặc quyền hơn tất cả những Dân Ngoại khác: Ngài đã dẫn ra họ ra khỏi
cảnh nô lệ bên Ai-Cập, dạy dỗ và ban cho họ Thập Giới, cho họ đánh đuổi các dân
khác và định cư nơi Đất Hứa… Chính họ đã từng hãnh diện vì chưa có một thần
linh nào xuống ở cùng và ban những điều luật như Thiên Chúa của họ. Thế nhưng,
sau khi đã trở thành một dân tộc mạnh mẽ và giàu có, họ khinh thường Chúa, họ
chạy theo các thần ngoại và vi phạm các giới răn của Ngài.
Để cho họ nhận ra những
lầm lỗi của họ và những đặc ân Thiên Chúa đã làm cho họ, Ngài để cho ngọai bang
xâm lấn và bắt đi lưu đày bên Assyria và Babylon. Sống trong cảnh khổ cực nơi
lưu đày, họ hồi tưởng lại quá khứ và nhận ra tình thương và sự che chở của
Chúa, nhận ra sự cần thiết của Đền Thờ và tuân giữ giới răn của Chúa. Họ ăn năn
trở lại và Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội họ đã phạm và cho quay trở về cố
hương để xây dựng lại Đền Thờ.
Trong trình thuật hôm
nay, ngôn sứ Ezekiel nhìn thấy trước Thiên Chúa không chỉ cho họ hồi hương và
xây dựng lại Đền Thờ, Thiên Chúa còn thanh tẩy và thánh hóa họ từ bên trong để
họ có thể xứng đáng làm Dân Riêng của Ngài, như tiên tri viết: “Rồi Ta sẽ rảy
nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được
sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt
thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các
ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta
sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ
các phán quyết của Ta và đem ra thi hành. Các ngươi sẽ cư ngụ trong đất Ta đã
ban cho tổ tiên các ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên
Chúa các ngươi.”
Luật lệ Thiên Chúa đã
ban sẽ không bao giờ thay đổi. Điều cần được thay đổi là trái tim con người.
Thiên Chúa sẽ cất đi trái tim cứng lòng chai đá và thay vào đó bằng quả tim bằng
thịt, quả tim biết yêu thương. Một khi con người đã hết lòng yêu Chúa thì họ sẽ
tuân giữ các Lề Luật của Ngài.
2/ Phúc Âm: Tiệc Cưới Nước Trời.
Cùng một tư tưởng như
Bài đọc I, Chúa Giêsu muốn nói cho những người Do-thái biết họ được đặc quyền
Thiên Chúa ban để lắng nghe Tin Mừng trước hết; nhưng vì sự cứng lòng của họ
nên Tin Mừng được loan báo đến cho Dân Ngoại. Để quảng diễn điều này, Đức Giêsu
lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: “Nước Trời cũng giống như chuyện một vua
kia mở tiệc cưới cho con mình. Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được
mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến. Nhà vua lại sai những đầy
tớ khác đi, và dặn họ: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn,
ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc
cưới!” Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại,
người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và
giết chết. Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy
và thiêu huỷ thành phố của chúng.”
Vì những khách được mời
từ chối không chịu tham dự, nên đặc quyền bị lấy đi, và chủ cho lệnh mời tất cả
những người khác, cho dẫu là những khách qua đường. Đầy tớ liền đi ra các nẻo
đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy
thực khách. Vì người Do-thái từ khước đón nhận Tin Mừng, nên Thiên Chúa truyền
các tông-đồ đem Tin Mừng đến cho tất cả các Dân Ngoại, và số người tin Chúa
càng ngày càng phát triển.
Nhiều người có lý do để
thắc mắc làm sao khách qua đường có thể chuẩn bị để mặc y phục lễ cưới như chủ
đòi; nhưng chủ cũng có lý nói lại rằng nếu từ chối không tham dự thì không sao,
nhưng một khi đã nhận lời mời thì cũng phải mặc y phục lễ cưới. Ai muốn vào Nước
Trời cũng đều phải tuân theo những luật lệ của Nước Trời đòi hỏi.
Lời cuối cùng của Phúc
Âm là một lời cảnh tỉnh cho những người coi thường những hồng ân và đặc quyền
Thiên Chúa đã ban: “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.” Nếu họ
không biết dùng những hồng ân và đặc quyền Chúa ban, Chúa sẽ lấy đi và trao cho
người biết xử dụng để sinh lời hơn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
– Thói quen làm con
người nhàm chán và khinh thường những gì được hưởng. Chúng ta cần phải dành thời
giờ hồi tâm thường xuyên để nhận ra những ơn lành của Thiên Chúa đã ban xuống
trong cuộc đời của mỗi người, gia đình, và cộng đoàn.
– Nhiều khi chúng ta cần
đổi chỗ để nhận ra và biết quí trọng những gì mình đang được hưởng: giầu sang
ra nghèo khó, tự do ra nô lệ, khỏe mạnh ra yếu ớt… Đau khổ cần có để thanh tẩy
con người.
– Điều quan trọng cần
phải thay đổi là thay đổi từ bên trong tâm hồn và trái tim cũ, để mặc lấy trái
tim mới và thần khí mới. Đây là công việc của Chúa Thánh Thần, nhưng cần sự cộng
tác của chúng ta.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
20/08/2020 – THỨ NĂM TUẦN 20 TN
Th. Bê-na-đô, viện phụ
Mt 22,1-14
NIỀM VUI TIỆC NƯỚC TRỜI
“Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho
con mình.” (Mt 22,2)
Suy niệm: Trong các thứ tiệc, tiệc cưới là tiệc vui vẻ nhất,
chẳng thế mà người ta hay trang hoàng tiệc cưới bằng hai chữ “song hỷ”. Đức
Giê-su đã mượn hình ảnh vui vẻ của tiệc cưới này để so sánh với Nước Trời mà
Ngài đem đến cho con người. Được mời tham dự tiệc Nước Trời là cả một vinh dự lớn
lao, được sống trong Nước Trời ấy là một niềm vui bất tận. Thế nhưng, đã có những
người từ khước lời mời gọi tham dự tiệc Nước Trời. Lý do họ đưa ra không có gì
xấu: họ không đi ăn cướp, cũng không đi giết người… họ chỉ đi thăm trang trại,
đi buôn bán… thôi mà! Thế nhưng, tựa như họ, ta đã đảo lộn thứ tự ưu tiên đúng
đắn: dễ bận rộn với những việc mau qua, mà quên việc vĩnh cửu, để lòng trí đến
những điều mắt thấy, mà quên mất điều vô hình.
Mời Bạn: Tiệc cưới Nước Trời vẫn đang tiếp diễn qua bàn tiệc
Thánh Thể mỗi ngày, và thái độ thờ ơ vẫn tồn tại nơi tôi, nơi bạn: Chúng ta vẫn
quá “vô tư” khi bố trí thời giờ gặp gỡ Chúa, cầu nguyện, lãnh nhận bí tích vào
những giờ phút thừa thãi… Dần dà, ta sẽ cảm thấy đạo Chúa gây phiền hà, là chướng
ngại cho đời sống trần thế. Mời bạn xem lại Chúa đang ở vị trí nào trong đời bạn?
Sống Lời Chúa: Mỗi lần tham dự thánh lễ là mỗi lần bạn cảm nếm được
phần nào niềm vui của Nước Trời. Bạn hãy cố gắng tham dự thánh lễ ngày thường
hoặc ngày Chúa Nhật với một tâm tình thật sốt sắng, trân trọng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, như những thực khách trong dụ ngôn, nhiều
lúc chúng con đã viện những lý do trần tục để khước từ tham dự bàn tiệc Thánh
Thể. Xin Chúa tha lỗi cho chúng con.
(5 Phút Lời Chúa)
SUY NIỆM : Tiệc cưới
đã sẵn sàng
Suy niệm :
Dụ ngôn hôm nay nói về một
tình yêu bị từ chối.
Chẳng có gì long trọng
và tưng bừng cho bằng tiệc cưới của hoàng tử.
Tiệc cưới này do chính
nhà vua khoản đãi với sự chuẩn bị chu đáo.
Vua đã mời các quan
khách từ trước, và còn mời nhiều lần sau đó.
Trước những lời mời
trân trọng của nhà vua, họ đã chối từ.
Thái độ của quan khách
thật không sao hiểu nổi.
Họ chẳng sợ xúc phạm đến
nhà vua khi coi chuyện đi buôn và chăn nuôi
quan trọng hơn chuyện
dự tiệc cưới hoàng tử (c. 5).
Thậm chí có kẻ còn bắt
các đầy tớ, hành hạ và giết đi (c. 6).
Những khách quý bây giờ
trở thành kẻ sát nhân.
Họ sẽ phải chịu cơn thịnh
nộ ghê gớm của nhà vua về sự xúc phạm đó.
Như thế tiệc cưới cho
hoàng tử sẽ đi về đâu?
Ai là người sẽ được mời
tiếp theo, khi những người trước tỏ ra bất xứng?
Nhà vua đã đưa ra một
quyết định rất bất ngờ.
“Hãy đi ra các ngả đường,
gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (c. 9).
Như thế phòng tiệc bây
giờ vẫn đầy người được mời, có cả tốt lẫn xấu.
Dụ ngôn trên đây lại
được kết nối với một dụ ngôn khác.
Chúng ta ngạc nhiên
khi thấy nhà vua đi vào phòng tiệc
để quan sát cách ăn mặc
của những vị khách đến từ đường phố (c. 11).
Có người không mặc y
phục lễ cưới và đã bị trừng phạt nặng nề (c. 13).
Tại sao lại phạt anh,
khi anh bất ngờ được đưa vào ăn cưới?
Nhưng đừng quên các
người khác đều mang y phục lễ cưới đầy đủ,
nên anh chẳng nói được
gì để tự biện minh (c. 12).
Lịch sự với Thiên Chúa
là điều ta dễ quên.
Ngài vẫn trân trọng mời
ta dự tiệc chung vui với Ngài, với Con của Ngài.
“Mọi sự đã sẵn, mời
quý vị đến dự tiệc cưới” (c. 4).
Đối với Ngài, sự hiện
diện của chúng ta đem lại niềm vui lớn.
Khi đa số dân Do thái,
những khách quý được mời trước, từ chối Ngài,
Ngài đã không muốn
phòng tiệc bị trống, tiệc cưới bị đình hoãn.
Thiên Chúa chấp nhận mở
cửa phòng tiệc cho mọi người.
Họ đến từ muôn phương,
có người tốt người xấu, để làm nên Giáo hội.
Giáo hội gồm những người
được mời và được gọi một cách nhưng không.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn
cần lịch sự với Thiên Chúa, người chủ tiệc,
cần mặc y phục lễ cưới
một cách đàng hoàng.
Y phục ấy chính là một
đời sống nghiêm túc theo giáo huấn của Đức Giêsu.
Các Kitô hữu chúng ta
đã được ngồi trong phòng tiệc của Thiên Chúa.
Chúng ta đã được mời
và được gọi để sống trong Giáo hội,
nhưng chưa chắc chúng
ta nằm trong số những người được tuyển chọn.
Số người được chọn bao
giờ cũng ít hơn số người được gọi.
Để vào số những người
được chọn, chúng ta phải biết trân trọng ơn ban.
Có khi chúng ta cũng
coi chuyện buôn bán làm ăn của mình
quan trọng hơn những lời
mời khẩn thiết đến từ Thiên Chúa.
Làm thế nào để chúng
ta giữ được ơn cứu độ Chúa đang ban hôm nay?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội
Thánh là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn
làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm
chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở
nên men
được vùi sâu trong khối
bột loài người
để bột được dậy lên và
trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành
cây to bóng rợp
để chim trời muôn
phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh trở
nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng
niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho
chúng con
biết xây dựng một Hội
Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ
lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội
Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước
Trời ở gần bên. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao
Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
20 THÁNG TÁM
Hiệp Nhất: Sứ Mạng
Cốt Thiết Của Giáo Hội
Công Đồng xác nhận những
xác tín của các tín hữu khi tuyên bố rằng Giáo Hội nhìn nhận tất cả những điều
thiện hảo có thể được tìm thấy trong trật tự xã hội ngày nay: nhất là, khát vọng
hiệp nhất, sự phát triển của công cuộc “xã hội hóa y tế“ giữa các dân tộc, và một
sự nhấn mạnh về “sự liên đới kinh tế và dân sự”. Thật vậy, “sự thăng tiến hiệp
nhất tương ứng với sứ mạng cốt thiết của Giáo Hội, bởi trong Đức Kitô, Giáo Hội
có sứ mạng trở thành một bí tích và một dấu chỉ của sự hiệp nhất với Thiên Chúa
và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại… Năng lực mà Giáo Hội đóng góp cho xã hội
con người hiện đại là năng lực đức tin và tình yêu được sống cụ thể, chứ không
phải năng lực của một thế lực bên ngoài xuyên qua duy chỉ những phương tiện của
con người” (MV 42).
Vì những lý do này, một
mối gắn kết sâu sắc và thậm chí một sự đồng nhất nào đó được ghi nhận giữa -một
đàng – sự phát triển và tiến bộ của con người trong xã hội và – đàng khác – lịch
sử cứu độ. Kế hoạch cứu độ có gốc rễ của nó trong những ước vọng thực và trong
những mối quan tâm sâu thẳm nhất của con người. Tiếng gọi đón nhận ơn cứu chuộc
không ngừng được loan báo cho con người trong thế giới. Vì Giáo Hội luôn luôn đứng
trước thế giới khi Giáo Hội đặt mình trước những ước vọng và những ưu tư của
con người.
Vâng, lịch sử cứu độ
diễn ra giữa lòng lịch sử thế giới, nhận lấy lịch sử thế giới làm lịch sử của
chính mình theo một nghĩa nào đó. Nếu nói ngược lại cũng đúng. Những thành tựu
vĩ đại của con người và những chiến thắng thật sự của lịch sử cũng chính là nền
móng của triều đại Thiên Chúa trên trái đất này. Hiệp nhất chính là mục đích của
kế hoạch Thiên Chúa, Đấng vừa vượt trên mọi sự vừa ở trong mọi sự.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 20/8
Thánh Bênađô, viện
phụ
tiến sĩ Hội Thánh
Ed 36, 23-28; Mt
22, 1-14.
LỜI SUY NIỆM: Đức Giêsu lại
dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: “Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở
tiệc cưới cho con minh.”
Nước Trời là một mầu nhiệm, với trí tuệ của con người không thể nào hiểu rõ hết
được, nên Chúa Giêsu đã đưa ra rất nhiều dụ ngôn, để diễn tả về Nước Trời; Qua
các dụ ngôn với sự nhiệt thành tìm hiểu với đức tin, dưới sự sáng soi của Chúa
Thánh Thần và ơn ban cả Ngài, mỗi người sẽ nhận biết và sống với niềm hy vọng.
Lạy Chúa Giêsu. Trong cuộc sống hôm nay. Gióa Hội đang muốn quy tụ chúng con đến
với các hội đoàn, đoàn thể, để cùng nhau sinh hoạt nâng cao đời sống đức tin.
Xin cho mỗi người trong chúng con đừng bao giờ từ chối vì một sở thích riêng
tư, hay vì một lợi lộc nào khác, mà không sống tinh thần hiệp thông và chia sẻ.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
20-08: Thánh BERNADÔ
Tu Viện Trưởng, Tiến
Sĩ Hội Thánh (1090 – 1153)
Bernađô sinh năm 1090,
tại lâu đài Phontaine gần Dijon. Cha Ngài là hiệp sĩ Tescelin khôn ngoan và đạo
đức. Mẹ Ngài là bà Aleth Thánh thiện. Một đêm kia bà mơ thấy Bernađô đang nô
đùa bỗng hoá thành con chó sủa vang. Giấc mơ này tiên báo Bernađô sẽ trở thành
tông đồ, thành nhà giảng thuyết đại tài. Bernađô luôn luôn khẩn cầu Thiên Chúa
cho lòng mình khỏi vướng tội nhơ. Một lần lỡ nhìn người phụ nữ, Ngài đã dìm
mình xuống hồ giá lạnh cho tới tận cổ.
Năm 22 tuổi, cả một
tương lai sáng mở ra rước mắt, tại triều đình, nơi quân ngũ, trong toà án, mỗi
nơi có thể ao ước, Ngài đều có thể thành công. Nhưng một đêm Giáng sinh, Ngài
được thị kiến thấy Chúa Giêsu âu yếm ẵm lấy Ngài, kỷ niệm này in dấu sâu đậm suốt
đời Ngài. Một ngày khác vào thánh đường, tha thiết cầu xin Chúa cho Ngài biết
thánh ý Chúa, cũng như xin Chúa ban ơn can đảm thi hành thánh ý ấy. Chỗi dậy,
Ngài quyết định gia nhập dòng Citeax, một dòng tu nổi tiếng khắc khổ. Thế là
giã từ danh vọng thế gian và các niềm vui giả tạo.
Một hiệp sĩ trẻ trung
sắp chôn vùi đời mình trong tu viện. Sẽ hiến mình cầu nguyện liên lỉ, làm việc
cực nhọc và hãm mình hết mực. Điều đặc biệt là Ngài đã chọn một tu viện xa nhà
và nghèo khổ thay vì những tu viện Bênêdictô mà tặng vật và ảnh hưởng của gia
đình có thể bảo đảm cho Ngài những chức vụ sáng giá.
Bernađô trình bày ý định
với cha, Ngài đã bị phản đối, anh em trong gia đình cũng không chấp nhận được ý
kiến này. Ngài nói: – Này hãy tin tôi đi, cuộc chinh phục linh hồn không được
đáng giá sao ?
Cương quyết và nhiệt
tình, Bernađô không những đã làm cho cha mẹ và anh em nhượng bộ, lại còn lôi cuốn
họ vào dòng theo chân mình nữa. Lần kia em út Nivard đang ngồi chơi, Guy người
anh cả nói: – Giã từ em nhé. Tất cả sản nghiệp thuộc về em, bằng lòng chứ ?
Người em út nói lớn: –
Sao ? Trời cho các anh, còn đất cho em, phân chia chẳng đồng đều tý nào.
Rồi người em út cũng
theo cha và các anh vào dòng. Ngoài ra ông cậu và các bạn của Bernađô, cả thẩy
trên 30 người đã theo chân Ngài vào dòng.
Sự gia nhập đông đảo
này đã tiêm một nhiệt huyết mới vào dòng Citeaux. Thái độ của Bernađô và của
các bạn còn được một số đông các bạn trẻ noi theo. Đức viện phụ của dòng lúc ấy
là thánh Têphanô Harding, một người gốc Anh, thánh hiện, khôn ngoan và uyên
bác. Ngài sai từng nhóm nhỏ đi lập các tu viện mới rập theo khuôn mẫu của nhà mẹ.
Ba năm sau, tới phiên Bernađô, Ngài dẫn đầu một nhóm tu sĩ 12 người đến một
thung lũng gần Langres. Họ dựng chòi một nhà nguyện, nhà ăn, làm những cái hòm
giống như quan tài để ngủ. Sự thánh thiện của các tu sĩ cũng như vùng thung
lũng trở thành thung lũng ánh sáng hay là Claivaux.
Thánh Bernađô sẽ là
đan viện phụ của tu viện này cho đến hết đời. Lúc đầu Ngài tỏ ra đòi hỏi gắt
gao. Nhưng rồi về sau, Ngài đã hiểu và nhân hậu hơn. Danh tiếng Ngài lan rộng.
Nhiều người từ xa đến xin Ngài giúp đỡ, hay xin Ngài phân xử cho những vụ tranh
chấp. Việc này không được mọi người bằng lòng, vì Ngài không biết sợ ai cả.
Ngày kia người nhận được một lá thư ngắn ngủi từ Roma, dạy đừng xen mình vào
chuyện đời. Không gì làm Ngài vui mừng bằng được ở yên trong tu viện. Nhưng vì
cảm thấy mình có liên hệ tới lợi ích của Giáo hội nên đã không ngại viết một lá
thư hồi âm rất can đảm nhiệt tình.
Ngài là người ủng hộ
nhiệt liệt cho những cải cách Hildebrand, nhưng Ngài nghĩ rằng: sự tập quyền
trong Giáo hội đã đi quá xa. Khi nâng đỡ cho những đòi hỏi của toà thánh, Ngài
không tin là phải phỉnh nịnh Đức giáo hoàng. Nhưng khi sự phân rẽ đe dọa làm rạn
nứt Giáo hội, Ngài được triệu vời đến. Một cách rạng rỡ, Ngài đã đánh bại vị phản
giáo hoàng. Lúc này danh tiếng Ngài lan rộng khắp Châu Au. Cả thế giới đều như
muốn quay về Ngài để tìm ý kiến giúp đỡ. Không đến với Ngài được người ta viết
thư và Ngài đã quyết hồi âm cho tất cả mọi người. Một phần nhỏ trong số thư tín
khổng lồ này con sót lại, nhưng cũng là một trong những nguồn tài liệu lịch sử
chính yếu về thời đó.
Như nhà dẫn đầu trong
cuộc cải tổ dòng Citeaux, Ngài tranh luận với các tu sĩ dòng Bênêdictô thuộc cộng
đoàn chung. Rất tôn trọng cách sống của họ, Ngài không thể tha thứ cho những lạm
dụng đang thịnh hành trong một vài nhà dòng. Dầu vậy đối với Đan viện phụ
Cluny, cha đáng kính Phêrô, Ngài vẫn giữ được một tình bạn nghĩa thiết. Nhưng sự
chống đối của thánh Bernađô với Phêrô Abelardô mới thật nổi bật. Không những chống
lại các chủ trương của ông, Ngài còn chống lại cả cách thức ông kiêu hãnh tranh
luận về các vấn đề thánh nơi chợ búa. Thánh Bernađô luôn nghĩ tới đức tin của
những người dân đơn sơ và đứng về phái bảo thủ, nhưng vẫn là bạn của người học
thức đỡ đầu cho các học giả như Robertô Pullen và Gioan miền Sabisbury.
Đối với Đức Maria,
thánh Bernađô có một lòng sùng kính đặc biệt. Một ngày kia tại nhà thờ chính
tòa Sprine, khi nghe hát Kinh Lạy Vữ Vương, Ngài đã nhiệt tình thêm vào:
– Ôi khoan thay, nhân thay, dịu thay, Thánh Maria trọn đời đồng trinh.
Chính Ngài cũng Ngài
viết thánh thư cảm động: Ave Maria Stella. Dường như Ngài cũng là tác giả kinh
“Hãy nhớ” nữa.
Suốt thời gian làm đan
viện phụ của thánh Bernađô dòng Clairvaux phát triển mạnh và sinh ra 60 nhà
khác nữa rải rác khắp Âu Châu. Rất bận rộn công việc, Ngài không sao lãng việc
chăm sóc cho các tu sĩ của mình. Suốt đời, Ngài là một tu sĩ và là một nhà thần
bí. Ngài trước tác những bài chú giải sách Nhã Ca và nhiều tác phẩm thần học và
thần bí khác nữa.
Những năm cuối cùng đời Ngài bị phủ mờ vì sự thất bại của đạo binh thánh giá thứ
nhì. Đức giáo hoàng cậy Ngài cổ động cho đạo binh này. Nghe lời Ngài toàn Au
Châu cầm khí giới lên đường. Nhưng khi xa khỏi ảnh hưởng của Ngài, các nghĩa
binh thánh giá đã quên hẳn lý tưởng cao cả của mình mà làm vỡ cuộc viễn chinh
vì đánh phạt nhau và vì các việc làmbất xứng với danh hiệu Kitô hữu.
Dầu không thể quy
trách được cho thánh Bernađô, nhưng như các thánh nhân khác và như chính Chúa
Kitô, Ngài đã qua đời ngày 20 tháng năm 1153, dưới bóng mây mù vì thất bại đã
quá rõ ràng. Ngài nói với con cái Ngài : – Cha không phải giải quyết thế nào.
Tình thương yêu con cái đời cha ở lại nhưng tình yêu Thiên Chúa kéo cha lên
cao.
Cả Âu Châu thương tiếc
Ngài. 21 năm sau, Đức Alexander III phong Ngài lên bậc hiển thánh. Năm 1830,
Ngài được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh. Ngài đã sống trước khi hình thành thuyết
kinh viện và bởi vì giáo huấn của Ngài còn nằm trong truyền thống các giáo phụ,
người ta thường coi Ngài là thánh giáo phụ cuối cùng.
(daminhvn.net)
20 Tháng Tám
Hai Vì Sao Mỉm Cười
Một vị ẩn sĩ nọ tịnh
niệm và chay tịnh đến suốt ngày không động đến thức ăn và nước uống.Từ trên đỉnh
núi cao, ai ai cũng thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa ban ngày: đó là dấu hiệu
trời cao chấp nhận của lễ hy sinh của ông.
Ngày nọ, vị ẩn sĩ
quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn lên cao hơn trong sự khổ chế. Vừa lúc
ông đương leo núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo. Không thể từ
chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé đi theo. Họ ra đi khi mặt trời vừa lên.
Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn cô bé
gái đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của mình,
nhưng ông lại giục cô gái hãy uống nước. Cuối cùng, không ai chạm đến nước. Vị ẩn
sĩ không uống nước vì lời thề của mình, còn cô gái không nỡ uống một
mình.
Họ càng đi, cơn
khát càng dằn vặt. Ðến một lúc, vị ẩn sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy cô bé phải
quằn quại trong cơn khát. Cuối cùng, ông đành lỗi lời thề. Ông cầm lấy nước đưa
lên miệng và lúc bấy giờ cô bé gái cũng mỉm cười uống nước với ông. Sau khi đã
uống nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông cứ đinh ninh rằng vì
sao hiện ra mỗi ngày như một chứng giám cho sự khổ chế của ông, giờ đây có lẽ
đã biến mất. Thế nhưng, trước sự ngạc nhiên vỡ lở của ông, khi ông ngước mắt
nhìn lên đỉnh núi, ông thấy có hai vì sao lấp lánh như đang mỉm cười với ông.
Ðể mặc khải cho chúng
ta bộ mặt thông cảm, nhân từ, yêu thương của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã không ngần
ngại đến ngồi đồng bàn với những người thu thuế, những kẻ tội lỗi. Phúc Âm ghi
lại rằng, khi đi qua dãy bàn thu thuế, Ngài đã nhìn thấy Matthêô. Ngài đã chọn ông
vào số các tông đồ của Ngài. Trong bữa tiệc do Matthêô khoản đãi, những người bạn
của ông ngồi cùng bàn với Chúa Giêsu. Thấy thế, những người biệt phái đã tỏ ra
khó chịu. Chúa Giêsu đã nói với họ như sau: “Không phải những kẻ khỏe mạnh cần
đến thầy thuốc, mà chính là những người đau ốm. Hãy đi học hiểu câu nói: Ta muốn
lòng nhân từ chứ không phải của lễ”.
Qua thái độ và lời
phát biểu trên đây, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng cốt lõi của Tin Mừng,
cốt lõi của Ðạo chính là tình thương. Thực thi bác ái là việc ăn chay có giá trị
nhất, là của lễ cao đẹp nhất mà con người có thể dâng lên Thiên Chúa. Nếu chỉ
có một vì sao mọc lên để chứng giám cho một hành động khổ chế, thì sẽ có hai vì
sao hiện ra để xác nhận cho một hành động bác ái. Thật ra, bác ái đích thực
cũng là một hành động khổ chế, bởi vì nó đòi hỏi con người phải chết cho bản
thân, phải ra khỏi chính mình để đến với người khác. Một hành động bác ái đích
thực phải là một cái chết dần chết mòn trong chính bản thân.
Nói như mẹ Têrêxa
Calcutta: “Khi tôi chia sẻ, khi tôi trao ban cho người một điều gì làm tôi cảm
thấy mát mát, đau khổ, thì sự chia sẻ của tôi mới có giá trị. Tôi không chia sẻ
và trao ban của dư thừa, mà chính là trao ban chính tôi.
Khi tôi cố gắng chào hỏi
một người tôi ghét cay ghét đắng, đó mới thật sự là một hành động bác ái. Khi
tôi có thể đến sống nghèo, chia sẻ kiếp sống nghèo của người khác, đó mới là một
hành động bác ái. Khi tôi có thể tha thứ cho những người xúc phạm đến tôi, đó mới
là một hành động bác ái thực sự. Tôi đã chết đi một phần và cái chết ấy sẽ được
Thiên Chúa của lòng nhân từ đón nhận như là lễ hy sinh đích thực”.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét