20/12/2020
Chúa Nhật 4 Mùa Vọng năm B
BÀI ĐỌC I: 2 Sm 7, 1-5. 8b-12.
14a. 16
“Nước Đavít sẽ tồn tại muôn đời trước mặt
Chúa”.
Bài trích sách Samuel quyển thứ hai.
Khi ấy vua Đavít ngự trong đền và khi Chúa cho ông được bằng
yên tư bề, khỏi mọi quân thù chung quanh, thì vua nói với tiên tri Nathan rằng:
“Ông thấy không? Ta ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, còn hòm bia Chúa thì để ở
trong lều bằng da ư?” Nathan trả lời với vua rằng: “Điều vua nghĩ trong lòng,
vua hãy đi thực hiện, vì Chúa ở với vua”. Nhưng xảy ra là, đêm ấy, có lời Chúa
phán cùng Nathan rằng: “Hãy nói với Đavít tôi tớ Ta rằng: ‘Chúa phán thế này:
Có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi nhà để ở chăng?’
“Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ, lúc ngươi còn theo sau đoàn
chiên, để ngươi trở nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta ở cùng ngươi trong mọi
nơi ngươi đi. Ta đã tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi, và Ta sẽ làm cho
danh ngươi nên cao trọng như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ đặt chỉ một
nơi cho Israel dân ta, và Ta sẽ vun trồng nó tại đó. Nó sẽ ở đó và sẽ không còn
bị khuấy rối nữa. Con cái sự dữ sẽ không còn đến đàn áp nó như xưa nữa, như
ngày Ta thiết lập các vị Thẩm phán trên Israel dân Ta. Ta sẽ cho ngươi được bằng
yên khỏi mọi quân thù, và Chúa phán trước cho ngươi biết là Chúa sẽ tạo lập cho
ngươi một nhà. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước
mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29
Đáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới
muôn đời (x. c. 2a).
Xướng:
1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi
thế hệ, miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa, vì Ngài đã phán: “Tình
thương của Ta đứng vững muôn đời”; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung
tín. – Đáp.
2) Ta đã ký minh ước cùng người ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng
Đavít là tôi tớ của Ta rằng: “Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi,
và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ”. – Đáp.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: “Chúa là Cha con, và Thiên
Chúa là Đá Tảng cứu độ của con”. Đời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và
lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 16, 25-27
“Mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nay được
tỏ bày”.
Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, kính chúc Đấng có quyền năng làm cho anh em
được vững vàng theo Phúc Âm tôi loan truyền, và lời giảng dạy của Chúa Giêsu
Kitô, theo mạc khải mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nhưng nay được tỏ bày,
và nhờ các tiên tri ghi chép theo lệnh của Thiên Chúa hằng hữu, được thông tri
cho các Dân Ngoại, để dẫn đưa họ về vâng phục đức tin.
Kính chúc Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan độc nhất, nhờ Chúa
Giêsu Kitô, kính chúc Người vinh quang muôn đời! Amen. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 1, 38
Alleluia, alleluia! – Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin
vâng như lời Thiên thần truyền. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 1, 26-38
“Này Trinh Nữ sẽ thụ thai và sẽ sinh một con
trai”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ
Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là
Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào trinh nữ
đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ”. Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự
hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với
Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người
sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người
ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều
đại Người sẽ vô tận”.
Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được,
vì tôi không biết đến người nam?”
Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy
quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng
Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ
thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà
thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”.
Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời
Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt trinh nữ. Đó là lời Chúa.
Suy
Niệm Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm B:
(2Samuel
7,1-5.8b-11.16; Roma 16,25-27; Luca 1,26-38)
Suy niệm: Mầu Nhiệm Nhập Thể
"Tình
yêu" là hai tiếng nói luôn ở trên môi miệng và trong con tim của nhân loại,
hai tiếng nói căn bản và thâm sâu nhất của cuộc sống.
Sinh ra, lớn
lên và chết đi, lúc nào con người cũng mong đợi tình yêu.
Có tình
yêu, con người hết là những viên đá nằm lạnh lùng bên cạnh nhau trên một con đường,
những thân cây vô tri vô giác mọc lên trong một đám rừng hay những con vật đi
ăn chung thỉnh thoảng cắn xé nhau để tranh miếng mồi ngon.
Tình yêu
khiên con người không những sống gần nhau, mà còn đi vào cuộc đời của nhau, chấp
nhận chia sẻ từ miếng cơm manh áo cho đến tâm tình ý tưởng của nhau, cùng vui,
cùng khổ, cùng lao động, cùng phấn đấu và vươn lên thoát khỏi nô lệ và vong
thân trong xã hội. Tình yêu là ánh sáng chiếu dọi, là sức nóng sưởi ấm giúp con
người triển nở trong hạnh phúc.
Tình yêu là
động lực thúc đẩy con người đến với nhau, gắn bó với nhau, để tất cả nên một: một
lòng, một trí, một ý chí, một cuộc đời.
Thánh Kinh
luôn khẳng định Thiên Chúa thương yêu con người cách đặc biệt. Tình yêu ấy khiến
Thiên Chúa đến với con người, trước khi con người đến gặp Thiên Chúa.
Tình yêu được
biểu lộ trong lịch sử, biến lịch sử thành môi trường cứu độ, nơi gặp gỡ giữa
con người và Thiên Chúa.
Những
chương đầu của sách Sáng thế cho thấy Yavê sống thân mật với con người, ngay từ
khi con người được tạo dựng. Ngài đi dạo mát với con người trong vườn Eđen,
Ngài chăm sóc sức khỏa và đời sống của con người. Ngài cho con người hưởng các
hoa quả, cho con người một bạn đường. Ngài đối thoại thân mật với con người.
Sách Sáng
thế còn cho thấy Ngài đến với con người qua dấu hiệu của thời tiết. Nhưng đặc
biệt Ngài đã đến viếng Abraham và ban cho ông lời hứa. Ngài đã ký kết với
Abraham một giao ước tình yêu và nhất quyết thi hành Giao ước đó. Ngài để ý đến
nỗi khổ của ông: tuổi đã già mà không có con nối dõi tông đường. Ngài đã cho
ông một miêu duệ lớn gấp trăm ngàn lần mong muốn.
Khi con
cháu Abraham chịu khổ cực và bị áp bức trong nước Aicập ngoại bang, Ngài đã đến
để giải phóng họ và Ngài muốn chọn Maisen - một người có lòng yêu nước nồng nàn
- Ngài đã gọi Maisen lúc ông bị đuổi bắt và chạy trốn vào sa mạc, vì đã giết chết
một người ngoại bang để bênh vực cho kẻ đồng hương.
Với Maisen,
Thiên Chúa cũng đã ký kết một giao ước và từ đó thiết lập một dân riêng làm chứng
cho Ngài giữa muôn nước.
Trong sa mạc,
Thiên Chúa luôn hiện diện. Hòm bia thánh là dấu hiệu sự gần gũi: ở giữa và ở gần
kề. Qua đám mây và cột lửa, chính Ngài hướng dẫn họ suốt cuộc hành trình.
Sự hiện diện
của Chúa là sự hiện diện giải phóng. Ngài cứu dân khỏi lầm than đau khổ và giúp
họ chiến đấu với kẻ thù để sống còn và tiến dần vào Ðất hứa.
Khi dân
Chúa đã sống ổn định và thiết lập một vương quốc bình an thịnh vượng, Chúa vẫn
hiện diện và bảo đảm cho sự trường tồn và hạnh phúc của họ. Ðavít muốn xây cho
Chúa một đền thờ, nhưng Ngài muốn hiện diện ở giữa lòng dân. Qua lời sấm
Nathan, Ngài chưa bao giờ có ý nghĩ đòi dân xây cho mình một đền thờ bằng gạch
đá như các thần minh của dân ngoại. Chính dân là đền thờ Ngài ngự. Và Ðền thờ
đó do Ngài xây dựng, chứ không phải do tay con người làm nên. Chính Chúa tạo ra
một Ðền thờ đích thực; đó là dòng dõi, là con cháu Ðavít; và qua những con người
sống thực thuộc dòng dõi ông, Ngài sẽ hiện diện trong lịch sử loài người.
Với Ðavít
và miêu duệ ông, Thiên Chúa càng ngày càng gần gũi với nhân loại. Ngài tác động
trên lịch sử loài người và đặc biệt trong lịch sử dân riêng Ngài. Ngài hướng dẫn
và thanh luyện dân Ngài qua những biến cố đau thương như thất trận, lưu đày...
Ngài răn bảo và thúc giục... đôi khi Ngài phẫn nộ - nhưng Ngài cũng an ủi vỗ về
và hứa hẹn một thời kỳ vui mừng tràn lan ơn cứu độ. Dụng cụ Chúa thường dùng
chính là "lời nói" và "cuộc sống" các tiên tri.
Ngài thương
dân như cha yêu thương con cái, như mẹ bế bồng nâng niu, như mục tử chăm sóc
đoàn chiên.
Nhưng Thiên
Chúa như chưa bằng lòng với những gì Ngài đã làm cho dân. Ngài muốn đến cư ngụ
với dân, không chỉ như một thần linh vô hình, nhưng chấp nhận hoàn toàn thân phận
con người và chia sẻ trọn vẹn kiếp sống của nó. Thiên Chúa trở thành Người như
mọi người. Ngài bị ràng buộc bởi thời gian và không gian. Ngài sẵn sàng đón nhận
những khắc khoải lo âu của cuộc sống. Ngài cũng ăn, uống, lao động, phấn đấu cho
đời sống vật chất như mọi người. Ngài cũng vui, cười và than khóc như những ai
khác. Ngài chấp nhận mọi giới hạn và ngay cả cái chết là giới hạn sau cùng và
quan trọng nhất của con người.
Yêsu, con của
Maria và Yuse thuộc dòng dõi Ðavít là chính Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Nhưng Ngài cũng là con của trần thế, con của một dân tộc, con của người Trinh nữ
nghèo nàn sống ở Nadarét.
Ðó là khía
cạnh huyền diệu nhất của mầu nhiệm Nhập thể! Chúa muốn làm con của trần thế, để
ta nhận ra gương mặt đích thực của Ngài, một tình thương thực tế không viễn
vông, không lý thuyết Ngài không là "kẻ thuộc thế giới xa lạ". Theo
Ngài không phải để đi về thế giới ảo tưởng nào khác, nhưng để sống tình yêu
chân thật.
Maria thụ
thai Ðức Yêsu là nhân loại thụ thai Ðức Yêsu! Maria hạ sinh Ðức Yêsu là nhân loại
hạ sinh Ngài. Bài Phúc Âm Luca 1, 26-38 ví Maria như thiếu nữ Sion, nghĩa là
Israel dân Chúa. Thiên Thần kêu mời Maria hãy vui lên vì sắp sinh quý tử. Ðó
cũng là lời loan báo niềm vui cho nhân loại: chính từ nhân loại mà phát sinh một
con người toàn thiện xứng đáng làm Trưởng tử giữa muôn loài.
Mầu nhiệm
Nhập thể là tột đỉnh của sự gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa: Thiên Chúa đến
viếng thăm dân Người khiến từ lòng dân nảy sinh Ðấng Cứu độ. Chồi cây Yêsê do
Thiên Chúa vun trồng đã nở hoa.
Ðức Yêsu là
bí tích, là dấu hiệu, là điểm gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Ðức Yêsu là
nơi hội tụ của tình thương giữa Thiên Chúa và dân Người: Ngài vừa là lời mời gọi
của Thiên Chúa, vừa là tiếng đáp trả của nhân loại.
Phúc Âm cho
thấy Ðức Yêsu là một con người cụ thể, với những nét đặc thù và sống động.
Nhưng Ðức Yêsu còn là Con của Chúa Cha. Từ lúc sinh ra cho đến khi chết, mọi hoạt
động của Ngài đều do Thánh Thần của Chúa Cha thúc đẩy. Lc 1,35 nhấn mạnh đến sự
can thiệp của Thánh Linh : "Thánh Thần sẽ đến trên Cô và quyền năng Ðấng Tối
cao trên Cô rợp bóng".
Thánh Thần
Thiên Chúa đã hoạt động trong lịch sử trước ngày Ðức Yêsu sinh ra. Nhưng Ngài đặc
biệt hiện diện trong cuộc đời Yêsu. Và nhờ quyền năng Thiên Chúa, Yêsu tuy phải
chết như mọi người, đã sống lại và chiến thắng sự chết, báo hiệu "phần số"
tốt đẹp Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Ðức Yêsu sống
lại được Chúa Cha ban trọn vẹn Thánh Linh và chính nhờ Thánh Linh mà Ðức Yêsu
hiện diện giữa dân Ngài "mọi ngày cho đến tận thế".
Nhờ Thánh
Linh Ðức Yêsu vẫn ở giữa loài người, không phải chỉ cách đây hai ngàn năm, mà
Ngài vẫn hiện diện, vẫn sống giữa nhân loại hôm nay. Giáo hội là nơi Ngài hiện
diện bằng chính những hoạt động không ngừng của Thánh Linh Ngài ban. Ngài vẫn
tiếp tục hiện diện qua các sự kiện lịch sử và các biến cố. Ta có thể gặp Ngài
và phải tìm Ngài trong đó. Ngài ra đi trở về cùng Cha, không phải để rời bỏ trần
thế, nhưng để dễ dàng đồng hóa mình với mọi người sinh ra trong lịch sử, đặc biệt
với những người bé mọn, những người đói khát, những kẻ tù đày... Matthêô cũng
như Luca cho thấy sự hiện diện của Ðức Kitô phục sinh và lên trời trở thành hữu
hình trong người anh em: "Ta đói, các ngươi cho ăn, Ta khát, các ngươi cho
uốn, Ta là khách trọ các ngươi tiếp rước, Ta mình trần các ngươi cho mặc, Ta
đau yếu các ngươi viếng thăm, Ta ở tù các ngươi đến với Ta" (Mt 25,35-36).
Ðức Kitô vẫn
luôn ở giữa chúng ta. Chúng ta sẽ nhận ra Ngài khi cử hành nghi lễ bẻ bánh, khi
lắng nghe lời Ngài, khi thao thức tìm Ngài trong các dấu chỉ của thời đại.
Chúng ta sẽ tìm được Ngài khi nhìn vào những người anh em sống gần kề ta. Ngài ở
cạnh ta, cùng xây dựng xã hội và môi trường với ta. Với Ngài, ta sẽ góp công biến
đổi trần thế thành Ðất mới, Trời mới, thực hiện lời thánh Phaolô: "Tất cả
thuộc về anh em, anh em thuộc về Ðức Kitô, Ðức Kitô thuộc về Thiên Chúa".
Bài Giảng Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm B:
Càng gần lễ
Giáng sinh, công việc chuẩn bị của chúng ta lại càng gấp rút. Tôi ca ngợi thiện
chí và nỗ lực của mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả mọi cố gắng của
chúng ta, để lễ Giáng sinh năm nay được chan hòa ơn thánh.
Nhưng chính
trong bầu khí nhiệt liệt chuẩn bị Ðại lễ Giáng Sinh này, mà các bài sách Thánh
hôm nay muốn nâng bổng tâm hồn chúng ta lên, để thay vì chỉ mải miết thu dọn những
công việc bề ngoài, chúng ta biết tìm dịp chiêm ngưỡng những gì mà Chúa đang muốn
thực hiện cho chúng ta.
Quả vậy,
khi Ðavít suy tính sắp sửa xây cất cho Chúa một đền thờ xứng đáng, Người đã sai
tiên tri Nathan đến thưa nhà vua rằng: Chính Người sẽ xây cho nhà vua một nhà,
một họ, một dòng tộc để tồn tại muôn đời. Hôm nay Chúa cũng muốn bảo chúng ta,
những người đang làm hang đá, dọn máng cỏ cho Chúa rằng: chúng ta hãy chú ý đến
những gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho ta. Ngài sai sứ thần Gabriel đến báo
tin cho Maria biết: Ngôi Lời muốn trở thành nhục thể, Thiên Chúa muốn sinh ra
làm người. Ðó là sứ điệp của Chúa nhật hôm nay. Sứ điệp ấy gửi đến để ta đón nhận,
suy niệm rồi thực hành, để Chúa có thể đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong thời
đại này, trên quê hương Việt Nam đang hình thành một nếp sống mới.
Trước hết
chúng ta hãy đón nhận Tin Mừng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Dĩ nhiên Người
không còn đầu thai nữa như xưa kia ở trong lòng Trinh nữ Maria. Nhưng Người vẫn
còn muốn đầu thai cách mầu nhiệm trong bí tích bàn thờ này, để được đầu thai
trong tâm hồn chúng ta qua việc rước lễ, để đầu thai nữa trong nếp sống hằng
ngày của chúng ta, hầu ai thấy đời sống tốt đẹp của chúng ta, cũng nhận ra vinh
quang của Chúa mà ca tụng Ngài. Mầu nhiệm đầu thai qua bí tích Thánh Thể ấy
không cần phải quảng diễn thêm.
Nhưng còn một
cách nữa Chúa vẫn dùng để đầu thai nơi ta giữa thời buổi này, chính là Lời Chúa
khi đến với ta trong sức mạnh của Thánh Thần. Lời Chúa mà ta nghe và đọc trong
Thánh Kinh có thể trổ sinh trong lòng ta một cuộc sống mới, thánh thiện và tốt
đẹp. Ta sẽ trở thành con cái Chúa một cách trung thực hơn và dần dần dòng dõi
những người con Chúa trở thành một thực tại có thể cảm nghiệm được. Ngay đến mọi
biến cố xảy ra hàng ngày cũng có thể mang theo nhiều ân sủng, khiến ai đón nhận
như thánh ý Chúa, sẽ làm cho Nước Người được lan rộng; và như vậy Thiên Chúa lại
như nhập thể ở giữa chúng ta.
Do đó thật
là chủ bại khi nghĩ rằng thế giới càng ngày xấu đi; đời sống chẳng còn nghĩa lý
gì nữa; và nói đến tương lai mà làm gì! Nhưng người có đức tin không thể nghĩ
như thế. Tinh thần mùa Vọng nhắc nhở: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Ngài
muốn đời sống con người thật đáng sống. Và vì Thiên Chúa đã đầu thai trong lòng
một Trinh nữ bình dân, nơi một điểm nhỏ bé trên bản đồ thế giới, đang buổi suy
yếu của dân tộc Dothái, chúng ta càng có quyền hy vọng tràn trề khi hoàn cảnh
chung quanh dường như không đáng lạc quan. Chính nơi Thập giá đã có ơn cứu độ
chúng ta. Chính máu chảy ra ở trên đó đã rửa sạch ta để ta trở nên con cái
Chúa. Như vậy, có gì phải bi quan? Tất cả, ngược lại, như đang có thể kéo ơn cứu
độ xuống. Và ở bất cứ hoàn cảnh nào, ơn Chúa nhập thể vẫn có thể đến để phục hồi
tất cả.
Chúng ta chỉ
cần noi gương một Ðavít và một Maria. Ðavít đã biết quên mình để nghĩ đến Chúa.
Maria cũng đã tự xưng là nữ tì để thi hành hết mọi ý định của Ðấng mình tôn thờ.
Chúng ta nhiều khi không sống như vậy. Chúng ta nghĩ đến mình quá nhiều, nghĩ đến
sự sống của bản thân, và không quan tâm đến Nước Chúa và đến tương lai của dân
tộc dủ. Chúng ta tìm sự sống mình, như lời Phúc Âm nói. Nhưng cũng như Phúc Âm
đã nói tiếp: chúng ta sẽ mất sự sống ấy. Còn ai tìm Nước Thiên Chúa và sự công
chính trước, sẽ được ban cho tất cả sau. Làm sao tương lai có thể đẹp được, khi
ai ai cũng chỉ biết nghĩ đến cá nhân của mình? Ngược lại khi người ta nghĩ đến
công ích, làm việc cho công bình bác ái ngự trị, thì những khó khăn hiện tại sẽ
khắc phục được dễ dàng. Ðavít đã không nghĩ đến mình, Ðức Maria cũng thế. Nên
Thiên Chúa đã tìm được người cộng tác để thực hiện công trình của Người, ở trần
gian, là chính Người sẽ nhập thể để mang hạnh phúc đến cho loài người.
Thế thì hôm
nay và những ngày sắp tới, đang khi hân hoan sửa soạn mừng lễ Giáng sinh, chúng
ta cần nhất phải mở rộng tâm hồn để đón nhận hồng ân của Chúa đang đến với
chúng ta. Ngài dùng Lời Thánh Kinh và Bánh Thánh Thể để đi vào trong tâm hồn
ta, biến ta nên con người muốn sống như Chúa; và như vậy Ngài đang muốn nhập thể
tiếp nối cuộc đời của Ngài ở nơi ta. Ngài dùng mọi biến cố xảy đến hằng ngày,
kêu gọi ta đón nhận như Thánh ý Ngài gửi đến, để ta hợp tác thi hành trong tinh
thần xã hội Kitô giáo, hầu ơn Ngài có thể tràn lan trong thế gian, khiến Chúa ở
trong mọi sự và mầu nhiệm nhập thể được kiện toàn. Ðiều cần hơn hết là chúng ta
luôn phải tin vững vàng rằng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Người muốn sống
giữa trần gian. Ngài kêu gọi ta nhìn vào cuộc sống và muốn nhập thể với Ngài.
Chúng ta có sẵn sàng đem tinh thần Phúc Âm vào thế giới để đáp lại Lời mời gọi
đó không?
Nguyện chúc
tất cả anh em được như vua Ðavít và Ðức Maria: sẵn sàng trở thành cộng sự viên
của mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể vì yêu thương trần gian.
Ðức Mẹ Mùa Vọng
Chúng ta
còn lạ gì: mục đích của mùa Vọng không phải chỉ là để đi đến Mầu nhiệm Giáng
sinh vì Chúa Cứu thế đã giáng sinh rồi không còn phải trông đợi theo kiểu dân
Dothái ngày trước nữa. Nhưng mùa Vọng vẫn lấy lễ Giáng sinh làm một điểm tựa chắc
chắn để lao mình về đàng xa, về ngày Chúa quang lâm tái giáng. Mùa Vọng nhìn
vào mầu nhiệm Chúa Giáng sinh để chắc chắn về mầu nhiệm Chúa sẽ đến và mùa Vọng
gợi lại thời gian trông đợi ngày trước để kiện toàn tinh thần trông đợi ngày
nay. Nói vắn tắt, mùa Vọng muốn hiện đại hóa thời gian Cựu Ước để hoàn tất thời
kỳ Tân Ước. Trong mùa này, chúng ta được mời gọi kết thúc lịch sử để đưa nó
sang đời sau. Vinh dự cho chúng ta biết bao được cộng tác vào công cuộc vĩ đại
và đẹp đẽ này.
Và cũng như
Cựu Ước ngày trước đã được kết thúc một cách tuyệt diệu nơi con người Ðức
Maria, trong mùa Vọng phụng vụ này Giáo hội cũng mời gọi ta chiêm ngưỡng Người
như là khuôn mẫu phải đi tới. Người thật là bông hoa của Cựu Ước. Những cái
tinh túy nhất của Cựu Ước đã đúc nặn nên Người. Ở nơi Người, ta có thể gặp lại
tất cả lòng tin sâu xa của Abraham, lòng cậy của tất cả Ngôn sứ, lòng mến của
tác giả các thánh vịnh. Thiên Chúa đã phải khôn ngoan nhẫn nhục dẫn đưa lịch sử
dân Người và lịch sử thế giới để tạo nên được một con người như thể để Ngôi Hai
Thiên Chúa có thể giáng trần.
Nếu quả thật
trong bao ngàn năm lịch sử, "vạn phương khát vọng từ vân vũ hóa nhi"
thì phải đợi đến khi Maria xuất hiện, người ta mới thấy "nhất phiến cổ
hoài tịnh thổ sản phúc quả", nghĩa là mới tìm ra được một mảnh đất thanh sạch
đón nhận đám mây từ nhân mưa Ðấng công chính xuống. Ðức Maria vì thế trở thành
lý tưởng mà Giáo Hội và chúng ta phải đạt tới để chuẩn bị ngày Chúa trở lại.
Nhưng một
lý tưởng bao giờ cũng phong phú có rất nhiều khía cạnh thâm thúy và sâu xa,
không ai có thể nói lên được tất cả, huống nữa là nói lên trong một lúc. Tuy
nhiên, mỗi lần nói, người ta vẫn ước vọng có thể khơi lên ở nơi người nghe một
cảm tình mộ mến dẫn sang một thích thú muốn tìm hiểu thêm. Và đó là tham vọng của
phụng vụ trong mùa này khi gợi lên cho chúng ta thấy một vài nét trong cuộc đời
của Ðức Mẹ.
Chúng ta đừng
thấy lễ Vô Nhiễm là lễ Ðức Mẹlà lễ Ðức Mẹ lớn nhất trong mùa này mà vội tưởng
đó là hình ảnh Ðức Mẹ phải tập trung mọi cái nhìn suy niệm của ta. Không, mùa Vọng
không đặt ra lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm. Lễ này cũng đã được đặt ra phải vì mùa Vọng.
Giáo hội La Mã vẫn có óc lịch sử và pháp luật, thấy rằng đã tưởng niệm cuộc đời
của Chúa trong các mầu nhiệm nào thì cũng phải nên tưởng niệm cuộc đời Ðức Mẹ
trong các mầu nhiệm ấy; đã mừng việc Chúa đản sinh và đầu thai, thì cũng nên mừng
sinh nhật và đầu thai của Mẹ. Và hai sự kiện mầu nhiệm phải cách nhau 9 tháng.
Lễ sinh nhật Mẹ đã được đặt vào ngày 8 tháng 9 rồi, thì lễ Người đầu thai vô
nhiễm phải đưa lên 9 tháng trước tức là phải mừng vào ngày 8 tháng 12.
Các nhà làm
lịch lễ dường như không để ý đến mùa Vọng khi đặt ra lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm, nhưng
đặt rồi họ mới thấy đây là một sự trùng hợp có ý nghĩa. Có lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm,
mùa Vọng Kitô giáo trở thành hân hoan chắc chắn, khác với mùa Vọng của Dothái
ngày xưa. Thuở trước, các linh hồn thánh thiện vẫn chờ mong ngày thực hiện lời
của Thiên Chúa tình yêu trong vườn địa đàng: một người nữ sẽ sinh ra một dòng
dõi đạp dập đầu con rắn. Người nữ ấy là ai? Bao giờ Người xuất hiện để cho
chúng tôi được nhìn thấy ơn cứu độ? Các thế hệ Cựu Ước dường như lúc nào cũng hỏi
nhau câu ấy. Có lần, đàn thiếu nữ Sion tưởng đã có thể nhảy múa hân hoan vì kìa
bà Yuđích cắt đầu địch thủ đang trở về. Lần khác họ lại tưởng Esther trong vai
trò cứu nguy dân tộc sẽ là người nữ cần trông đợi... Nhưng rồi họ vẫn phải chờ,
chờ mãi... Mùa Vọng của họ dường như thiếu bảo chứng.
Nhưng nay,
lễ Ðức Mẹ hiện lên bầu trời mùa Vọng Kitô giáo, sự trông chờ của chúng ta đã có
bảo đảm rõ rệt. Vì thế chúng ta có thể hân hoan chắc chắn. Người nữ vô tì ố đã
xuất hiện thì ơn cứu độ cũng đã đến. Chúng ta chưa được nhìn thấy Chúa Cứu Thế,
nhưng việc Người đến không còn hồ nghi được nữa. Maria thật là vì Sao Mai mọc
trước Mặt Trời. Mùa Vọng Kitô giáo chắc chắn và hân hoan làm sao!
Nhưng ta vẫn
phải nói, lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm đã không được đặt ra vì mùa Vọng; mùa Vọng sung sướng
đón nhận lễ này nhưng lễ này không phải là mục tiêu mà mùa Vọng muốn tập trung
những cái nhìn suy niệm của toàn dân Chúa hướng vào. Phụng vụ Giáo hội muốn cho
chúng ta có một cái nhìn rộng rãi hơn về địa vị của Ðức Maria trong bầu khí mùa
Vọng. Ngay từ đầu, phụng vụ mùa Vọng của Giáo hội đã muốn cho hình ảnh của Người
chan hòa khắp trong nếp sống chờ mong của toàn dân Thiên Chúa. Giáo hội chỉ chờ
mong với Người và bằng cách nhìn vào Người. Nói cách khác, hình ảnh Ðức Maria
không phải chỉ chiếm một ngày trong mùa Vọng, nhưng hằng ngày trong suốt mùa phụng
vụ này, Giáo hội phải sống với Ðức Maria, phải nhìn ngắm Người và trông đợi với
Người.
Kể ra làm
gì những bản kinh phụng vụ mùa Vọng gián tiếp hoặc trực tiếp nói về Ðức Maria;
các bản văn ấy bây giờ đổi theo hằng năm. Nhưng cứ bỏ các kinh ấy đi mà xem,
mùa Vọng phụng vụ sẽ không còn nữa. Ðiều đó chứng tỏ hình ảnh Ðức Mẹ thật đã được
gắn liền với mùa Vọng. Chúng ta sẽ có lợi hơn nếu để giờ tìm hiểu vì sao Ðức
Trinh Nữ Mẹ chúng ta lại thiết yếu cho tinh thần mùa Vọng như thế, vì như vậy,
chúng ta mới biết được thâm ý của phụng vụ, hầu mới biết sống được cái cốt yếu.
Tinh thần
mùa Vọng như chúng ta biết nhắm thẳng về đàng trước, chờ đón mầu nhiệm Chúa trở
lại. Tinh thần đó không thụ động, mặc cho ai muốn làm mưa làm gió ở trần gian
này. Trái lại, đó là tinh thần của các ngôn sứ ngày xưa không thể ngồi yên khi
thấy các bất công xã hội và thấy các liên minh chính trị bàn truyện thế giới
như thể không còn có một sức mạnh vô hình nào bá chủ hoàn vũ. Giáo hội biết
trong giai đoạn lịch sử này những người con Chúa phải tỉnh thức, phải giũ bỏ cuộc
đời đen tối và bước đi trong ánh sáng để càng ngày càng đi tới thời đại huy
hoàng của Ðức Kitô. Thế mà Giáo hội biết không mẫu người nào đã chuẩn bị ngày
Chúa đến viếng thăm một cách đắc lực như Trinh nữ Maria. Kể cả các ngôn sứ. Họ
còn là những người trỏ tay vào Maria để chờ đón ngày Người xuất hiện. Hơn nữa
Giáo hội còn biết rõ Ðức Maria không phải chỉ là gương mẫu chờ đợi và chuẩn bị
trong quá khứ, Người đang còn chờ đợi và chuẩn bị với chúng ta với tư cách là Ðấng
Ðồng Công Cứu Chuộc. Chỉ có những thứ thần học nông cạn mới không biết đến điều
đó; mới nghĩ rằng Ðức Kitô đã chấm dứt mọi hoạt động của Người khi trút hơi
trên Núi Sọ và mới quyết rằng Ðức Mẹ đồng trinh của Người cũng chỉ đồng công cứu
chuộc đến có khi ấy. Ngược lại, những thứ thần học chân chính đều thấy việc Ðức
Kitô tắt thở trên Núi Sọ chỉ là giai đoạn Ngài phải vượt qua để có thể hoạt động
hữu hiệu hơn ở ngoài những ràng buộc của không gian và thời gian; Ngài phải từ
bỏ xác thịt yếu đuối để hoạt động mạnh mẽ bằng Thánh Thần Ngài sẽ tuôn đổ xuống
trên Giáo hội; vì Thánh Thần tuôn đổ này chính là Thần Linh của Ngài. Những thứ
thần học sâu xa đó cũng nhận thấy ngay, lúc đứng ở chân Núi Sọ, Ðức Maria không
những chưa chấm dứt vai trò đồng công cứu chuộc của Người, nhưng ngược lại,
chính khi đó, Người mới bắt đầu trở nên Mẹ của Yoan, tức là của Giáo hội. Chính
vì vậy mà tác giả sách Công vụ các Tông đồ cho ta thấy Giáo hội ngay từ thuở sơ
khai đã cầu nguyện và sinh hoạt với Ðức Maria, Mẹ Chúa Yêsu.
Chúng ta muốn
nhìn thấy các hoạt động cụ thể của Ðức Mẹ ư? Sao chúng ta không muốn biết như
thế về hoạt động của Ðức Kitô hiện nay ở trong Giáo hội. Cả hai Ngài vẫn nội tại
với đời sống hiện nay của thế giới, nhưng không hiện diện như thân thể chúng ta
đang sống. Theo tục ngữ Việt Nam có thể bảo: người ta hiện nay sống thì khôn,
còn các Ngài hiện nay đã thác thì thiêng. Khôn thì ở một bình diện, còn thiêng
lại ở bình diện cao hơn và cao hẳn. Không phải những trí óc khôn ngoan đang dẫn
đưa lịch sử của thế giới này, nhưng chính là những bậc thiêng liêng huyền bí.
Không phải chúng ta đang xếp đặt thời gian sẽ đến nhưng chính Ðức Kitô, chính vị
đồng công cứu chuộc với Ngài đang âm thầm nhưng mạnh mẽ hành động qua chúng ta
và muốn chúng ta cộng tác vào, vì cũng như ngày trước, đất có sẵn thì mây trời
mới mưa Ðấng công chính xuống.
Muốn biết
chúng ta phải cộng tác chuẩn bị bằng cách nào sao? Phụng vụ mùa Vọng bảo chúng
ta nhìn vào Ðức Mẹ. Thánh Yoan trong sách Khải huyền cũng mơ thấy Giáo hội sau
này trở thành người hôn thê kiều diễm, tức là người trinh nữ vẹn sạch mà dung
nhan Ðức Mẹ thể hiện ở trước mặt chúng ta. Trên khuôn mặt khả ái đó, Thiên Chúa
đã để lại những nét luôn luôn hấp dẫn tình yêu thương vô bờ bến của Ngài, mà
Ngài muốn cho Giáo hội có trên nếp sống của mình. Một đôi mắt trong sạch không
bao giờ dừng lại trên những gì dơ bẩn; một đôi môi dịu dàng chỉ có sẵn những lời
êm ái; một dáng điệu tùng phục sâu xa tất cả những gì là của Chúa; một sự lanh
lẹ không quản gian lao để đi cứu với Người... Mầu nhiệm dâng mình, mầu nhiệm đồng
trinh, mầu nhiệm vâng theo ý Chúa, mầu nhiệm yên lặng trước nỗi nghi ngờ chính
đáng của Yuse, mầu nhiệm đi thăm bà Elisabeth và nhất là mầu nhiệm kết hợp tận
tụy và âm thầm làm tất cả những gì cần thiết để chờ đón Chúa: đó là những nét
đã được ghi sâu trong cuộc đời, nên dung nhan của Ðức Mẹ và mùa Vọng phụng vụ ước
mong chúng ta chiêm ngưỡng và bắt chước.
Chúng ta
cũng chỉ là những con người đang có một nếp sống âm thầm với những phận sự nhỏ
nhặt, nhưng tất cả những sự âm thầm nhỏ nhặt ấy lại là những yếu tố mà Thần
Linh hiện nay đang muốn dùng để xây dựng Nước Trời, để chuẩn bị việc Chúa Kitô
tái giáng. Thật là tuyệt diệu nếu chúng ta cũng biết sống và làm những công việc
ấy như Trinh nữ Maria, với cái nhìn trong sạch, với các nụ cười hiền dịu, với
các lời lẽ từ tốn, với lòng nhiệt thành không sợ gian nan... như dung nhan của
Người đang cho chúng ta thấy. Cuộc đời của chúng ta sẽ nên như cuộc sống của
Người và khuôn mặt của Giáo hội sẽ đang vẽ lại dung nhan Ðức Mẹ mùa Vọng.
(Trích dẫn
từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức
cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét