20/05/2025
Thứ Ba
tuần 5 Phục Sinh
Bài Đọc I: Cv 14, 18-27
“Các ngài thuật cho giáo đoàn nghe những gì Thiên Chúa đã
làm với các ngài”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, có mấy người Do-thái từ Antiôkia và
Icôniô đến xúi giục dân chúng. Họ ném đá Phaolô, và tưởng rằng Phaolô đã chết,
nên kéo ngài ra bỏ ngoài thành. Nhưng đang khi các môn đồ đứng xung quanh ngài,
ngài liền chỗi dậy đi vào thành, và hôm sau, ngài cùng Barnaba đi sang Ðerbê.
Khi đã rao giảng Tin Mừng cho thành này và dạy dỗ được nhiều người, các ngài trở
lại Lystra, Icôniô và Antiôkia, củng cố tinh thần các môn đồ, khuyên bảo họ giữ
vững đức tin mà rằng: “Chúng ta phải trải qua nhiều nỗi gian truân mới được vào
nước Thiên Chúa”. Nơi mỗi hội thánh, các ngài đặt những vị niên trưởng, rồi ăn
chay cầu nguyện, trao phó họ cho Chúa là Ðấng họ tin theo.
Sau đó, các ngài sang Pisiđia, đi đến Pamphylia. Sau khi rao
giảng lời Chúa tại Perghê, các ngài xuống Attilia, rồi từ đó xuống tàu trở về
Antiôkia, nơi mà trước đây các ngài đã được trao phó cho ơn Chúa để làm công việc
các ngài mới hoàn thành. Khi đến nơi, các ngài tụ họp giáo đoàn, thuật cho họ
nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài và đã mở lòng cho nhiều dân ngoại
nhận biết đức tin. Các ngài còn ở lại đó với môn đồ trong một thời gian lâu
dài.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 10-11. 12-13ab. 21
Ðáp: Lạy Chúa,
các bạn hữu Chúa nhận biết vinh quang nước Chúa
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Lạy Chúa,
mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng
Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của
Ngài
Xướng: Ðể con cái
loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước
vĩnh cửu muôn đời, chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ.
Xướng: Miệng
tôi hãy xướng lời ca ngợi khen Chúa, mọi loài huyết nhục hãy chúc tụng danh Chúa
tới muôn đời.
Alleluia: Ga 16, 28
Alleluia, alleluia! – Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế
gian, bây giờ Thầy lại bỏ thế gian mà về cùng Cha. – Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 27-31a
“Thầy ban bình an của Thầy cho các con”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy để lại
bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các
con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi.
Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại với các
con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi
lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để
khi việc xảy ra, thì các con tin. Thầy không còn nói nhiều với các con nữa, vì
thủ lãnh thế gian đã đến. Nó không có quyền lực gì đối với Thầy. Nhưng để cho
thế gian biết rằng Thầy yêu mến Cha, thì Thầy làm như Cha đã truyền dạy”.
Ðó là lời Chúa.
Chú giải về Tông Đồ Công vụ 14,19-28
Hôm nay chúng ta đến với phần mô tả cuối cùng về chuyến hành
trình truyền giáo đầu tiên của Phao-lô và Ba-na-ba. Trong đoạn trước, họ ở
Lystra, và trong tình huống ngượng ngùng khi bị coi là thần thánh vì đã chữa
lành một người bại liệt. Nhưng vinh quang của họ không kéo dài được lâu; kẻ thù
của họ đang bám sát họ.
Những người Do Thái mà họ đã gây ra sự thù địch ở các thị trấn
Antioch và Iconium đã xuất hiện và thành công trong việc khuấy động cảm xúc của
người dân Lystra chống lại hai Sứ đồ. Nhưng điều quan trọng cần nhớ là cũng có
những người Do Thái khác ở những thị trấn này đã trở thành tín đồ Ki tô
Phản ánh sự thất thường của đám đông, những người vừa mới
coi các Sứ đồ như thần thánh giờ đã ném đá Phao-lô và bỏ mặc ông cho đến chết.
Có vẻ như việc này được thực hiện bên trong thành phố chứ không phải ở nơi hành
quyết thông thường bên ngoài các bức tường. Điều này có thể chỉ ra rằng đó là một
vụ bạo lực bùng nổ tự phát của đám đông chứ không phải là một vụ hành quyết
chính thức. Nhưng Phao-lô là người mà chúng ta gọi là 'người cứng rắn' và ngay
khi các môn đồ tụ tập quanh ông, ông đột nhiên đứng dậy (có lẽ là một gợi ý về
sự phục hồi nhanh chóng kỳ diệu trong mô tả của Lu-ca?). Cũng có thể người bạn
đồng hành tương lai của ông, Ti-mô-thê, đã có mặt. Ti-mô-thê, như đã đề cập trước
đó, dường như là người bản xứ ở Lystra. Trải nghiệm của Phao-lô có thể đã có
tác động tương tự đến ông như trải nghiệm của Tê-pha-nô đối với Sau-lô (Phao-lô).
Với lòng can đảm thường thấy trong hành động của mình, Phao-lô
đã quay trở lại thị trấn vào ngày hôm sau cùng với Ba-na-ba trên đường đến Đẹt-bê,
điểm dừng chân cuối cùng của họ trong hành trình này. Đẹt-bê là một thị trấn
biên giới ở phía đông nam của vùng Ga-la-ti thuộc Lyca-on. Một dòng chữ khắc
tên thành phố đã được phát hiện cách nơi trước đây được cho là địa điểm của
thành phố khoảng 50 km (30 dặm) về phía đông. Tại đây, hai nhà truyền giáo một
lần nữa rao giảng Phúc âm và "làm cho nhiều người trở thành môn đồ".
Phao-lô hẳn phải là một nhà thuyết giáo khá ấn tượng, xét
theo thành công của ông ở tất cả các thị trấn mà ông đã giảng đạo. Người ta tự
hỏi liệu việc ông là người Pharisiêu
có ảnh hưởng đến những người Do Thái nghe ông không, mặc dù rõ ràng là điều đó
cũng có tác động tiêu cực. Nếu một người Pharisiêu ngoan đạo có thể cải đạo theo Đạo của Chúa Giêsu, thì có lẽ có điều gì đó trong đó. Đồng
thời, những người khác sẽ coi ông là kẻ phản bội hoàn toàn với đức tin Do Thái
của mình.
Sau đó, họ bắt đầu hành trình trở về, đi qua từng thị trấn
mà họ đã truyền bá phúc âm ban đầu—Lystra, Iconium và Pisidian Antioch—và nơi họ
đã gặp phải sự phản kháng dữ dội như vậy. Nhưng người ta phải nhớ rằng họ cũng
đã cải đạo nhiều người theo đạo Ki
tô trong cả người Do Thái và người Ngoại. Đây sẽ là hạt giống của các giáo hội mới ở mỗi nơi.
Chúng ta được biết rằng Phao-lô:
… củng cố tâm hồn của
các môn đồ và khuyến khích họ tiếp tục đức tin, nói rằng, “Chúng ta phải trải
qua nhiều cuộc bách hại mới vào được vương quốc của Đức Chúa Trời.”
Ông đã rao giảng và cảnh báo họ về những thử thách và khó
khăn mà họ có thể phải đối mặt—giống như ông đã làm. Đây là điều kiện cần thiết
để vào Vương quốc.
Trong mỗi nhà thờ, một cấu trúc mục vụ được thiết lập lần đầu
tiên với việc bổ nhiệm ‘presbyters’ (tiếng Hy Lạp, presbyteroi) hoặc các trưởng lão. Với những lời cầu nguyện và ăn
chay, họ được giao phó cho Chúa. Các trưởng lão (hoặc các presbyters) là những
nhà lãnh đạo cộng đồng được chọn từ các cộng đồng bằng cách đặt tay. Trong trường
hợp này, các trưởng lão cũng được các Tông đồ chọn chứ không phải cộng đồng.
Trong khi từ ‘priest’ hiện đại của chúng ta bắt nguồn từ từ này, họ không phải
là các linh mục như chúng ta biết thuật ngữ này hiện nay trong Giáo hội Công
giáo.
Như Tân Ước nhấn mạnh, chúng ta thực sự chỉ có một Thầy Tế lễ,
Chúa Giê-su Ki-tô, đóng vai
trò là Đấng Trung gian và Người xây Cầu (tiếng Hy Lạp, Pontifex) giữa chúng ta và Thiên Chúa (xem Thư của Phao-lô gửi cho người Do Thái).
Từ Pisidian Antioch, Phao-lô và Barnabas đã quay lại
Pisidia, Perga ở Pamphylia và xuống thị trấn ven biển Attalia, cảng chính của
Pamphylia. Từ đó, họ đi tàu trở về Antioch ở Syria, thành phố mà họ đã khởi
hành ban đầu.
Khi trở về Antioch, hai Sứ đồ đã tường thuật đầy đủ về những
trải nghiệm truyền giáo của họ và kể về cách Chúa “mở cánh cửa đức tin cho dân
ngoại” và họ đã chấp nhận sứ điệp của Phúc âm tốt như thế nào. Trên thực tế,
Phao-lô và Barnabas đã để lại không chỉ những tín đồ cá nhân mà còn cả những cộng
đồng đang hoạt động với sự lãnh đạo của riêng họ. Sau khi trở về, họ ở lại
Antioch và “ở đó với các môn đồ một thời gian”, có lẽ ít nhất là một năm. Bây
giờ, dường như Phao-lô đã được cộng đồng chấp nhận hoàn toàn, những người trước
đây đã từng nghi ngờ ông.
Trong công việc của chúng ta cho Giáo hội, chúng ta cũng cần
báo cáo với cộng đồng những gì chúng ta đang làm. Chúng ta cần phải tuân theo sự
đánh giá và khuyến khích của họ. Công việc của Giáo hội không bao giờ chỉ là của
một người, dù là giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ hay giáo dân. Giáo hội
càng không phải là một 'trạm dịch vụ' nơi tôi chỉ đến để đáp ứng nhu cầu riêng
tư của mình.
Trong khi đó, con đường đang được chuẩn bị cho sự kiện lớn
tiếp theo trong lịch sử của Giáo hội sơ khai—Công đồng Giê-ru-sa-lem, Công đồng
đầu tiên của Giáo hội. Đây cũng sẽ là bước ngoặt lớn trong hướng đi của cộng đồng
mới.
Chú giải về Gioan 14,27-31
Khi Chúa Giêsu
chuẩn bị rời xa các môn đồ, Người biết rằng họ sợ hãi và buồn bã, và họ sẽ còn
sợ hơn nữa khi thấy những gì mọi người sắp làm với Người. Khi đó, lời tạm biệt
của Người bao gồm một món quà bình an. ‘Bình an!’ (Shalom) là lời chào và lời tạm biệt thông thường của người Do Thái,
và Chúa Giêsu sử dụng nó khi
Người hiện ra với các môn đồ sau khi Phục sinh. Ban đầu, nó có nghĩa là cơ thể
khỏe mạnh, nhưng sau đó nó trở thành biểu tượng của hạnh phúc hoàn hảo và sự giải
thoát mà Đấng Mê-si-a được
mong đợi sẽ mang lại. Đây chính là sự trọn vẹn, là mục tiêu của sứ mệnh của
Chúa Giêsu.
Nhưng đó không phải là hòa bình như ‘thế gian’ hiểu. Đối với
Chúa Giêsu, hòa bình không chỉ
đơn thuần là sự vắng bóng của bạo lực; đó là điều gì đó tích cực hơn nhiều, sâu
sắc hơn nhiều. Nghịch lý thay, nó có thể tồn tại song song với thời kỳ hỗn loạn
lớn. Đó là điều gì đó bên trong, không phải bên ngoài. Nó xuất phát từ cảm giác
an toàn bên trong, của niềm tin rằng Chúa ở cùng chúng ta và trong chúng ta và
rằng chúng ta đang ở đúng nơi. Đó là điều mà ngay cả mối đe dọa của cái chết
cũng không thể lấy đi được.
Đó là điều mà sự ra đi của Chúa Giêsu không thể xóa bỏ. Chúa
Giêsu nói với các môn đồ của Người:
Nếu các con yêu mến
Ta, các con sẽ vui mừng vì Ta sẽ đến cùng Cha…
Luôn luôn là dấu hiệu của tình yêu khi ưu tiên hàng đầu của
chúng ta là hạnh phúc của người khác. Người nói:
…Cha vĩ đại hơn Ta.
Điều này theo nghĩa là với tư cách là Cha, Người có một loại
ưu tiên và là nguồn gốc tối thượng của mọi thứ, mặc dù Chúa Con chia sẻ tất cả
những điều đó với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Vinh quang thiêng liêng trọn vẹn
của Chúa Con trong Chúa Giêsu cũng bị che khuất sau nhân tính của Người trong
thời điểm hiện tại, nhưng sau Thập giá, Người sẽ bước vào vinh quang trọn vẹn của
Chúa Cha.
Rõ ràng là vị trí của Chúa Giêsu là với Cha Người. Các môn đồ
của Người, nếu họ yêu Người, sẽ biết điều đó và không cản đường Người. Tất
nhiên, như Chúa Giêsu chỉ ra, Chúa Giêsu ra đi cũng vì lợi ích của chính các
môn đồ, vì chỉ khi đó, Chúa Thánh Thần mới ngự xuống trên tất cả họ.
Sự kết thúc đã gần:
…vì kẻ thống trị thế
gian này đang đến.
Nhưng họ không cần phải lo lắng. Quyền lực của cái ác bị giới
hạn trong những gì chúng có thể làm, và tất cả những gì xảy ra với Chúa Giêsu
chỉ đơn giản là biểu hiện của tình yêu lớn lao của Người dành cho Cha Người và
mong muốn làm theo ý muốn của Cha Người. Nghĩa là, bằng cách trải qua những gì
Người phải đối mặt, Chúa Giêsu sẽ truyền đạt cho thế giới tình yêu to lớn của
Cha Người dành cho mỗi người chúng ta.
https://livingspace.sacredspace.ie/e1053g/
Suy niệm: Tâm bất biến
Cuộc đời luôn có mâu thuẫn. Vì thế phải chiến đấu. Như Chúa
Giê-su.
Mâu thuẫn đi – đến. Chúa ra đi nhưng không vắng mặt. Mà để
hiện diện. Vắng mặt thể lý. Nhưng hiện diện mầu nhiệm. Hiện diện bí tích. Hiện
diện thực sự tích cực hơn.
Mâu thuẫn thế gian - Chúa Cha. Chúa đi vì Thủ lãnh thế gian
đến. Không phải Chúa chịu thua ác thần. Nhưng chỉ vì muốn làm trọn thánh ý Chúa
Cha.
Mâu thuẫn chiến đấu - bình an. Từ bỏ thế gian để làm theo ý
Chúa Cha. Đây là cuộc chiến đấu quyết liệt. Vì trong thế gian có ta. Ý riêng của
ta giống với thế gian. Trái với ý Cha. Chỉ khi từ bỏ chính mình ta mới bình an.
Mâu thuẫn biến động - bất biến. Cả thế gian xao động. Toa rập
nhau chống lại Chúa. Từ vua chúa đến thượng tế. Từ dân chúng đến môn đệ. Và ý
riêng. Chúa Giê-su giữ tâm hồn bất biến. Luôn kết hợp với Chúa Cha. Luôn vâng lời
Cha.
Chúa đạt đến bình an. Chúa để lại bình an đó cho ta. Bình an
là chính Chúa. Vì thế ta phải chiến đấu để đạt tới Chúa. Như thánh Phao-lô vượt
qua mâu thuẫn.
Đi – đến. Khi Chúa còn ở dương gian, thánh nhân chưa hề gặp
Chúa. Nhưng khi Chúa đã ra đi, thánh nhân gặp Chúa sống động, mãnh liệt. Thay đổi
cả cuộc đời.
Thế gian – Nước Trời. Hôm nay người ta đã ném đá. Để ngài
thoi thóp ngoài thành. Nhưng ngài không sợ đau khổ, vất vả. Vì ngài làm theo ý
Chúa.
Chiến đấu – bình an. Thánh nhân đã chiến đấu quyết liệt. Với
ác thần. Với công việc. Với thiên nhiên. Với chính mình. Để đạt tới bình an
trong tâm hồn.
Biến động – bất biến. Cuộc đời ngài đầy xáo động. Vì vua
chúa kết án. Vì thượng tế tố cáo. Vì dân chúng hành hung. Nhưng tâm hồn ngài bất
biến. Giứ được tâm bất biến giữa giòng đời vạn biến.
Xin cho con nhận được bình an của Chúa. Cho con biết vượt
qua mọi mâu thuẫn trong đời. Để con đạt tới chính Chúa. Là nguồn bình an đích
thực.
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét