04/08/2025
Thứ
Hai tuần 18 thường niên.
Thánh Gioan Maria Vianê, linh mục.
Lễ nhớ.
Bổn
mạng các linh mục
* Thánh nhân sinh năm 1786 tại Lyon. Sau biết bao
khó khăn gian khổ, người làm linh mục và được giao phó nhiệm vụ làm cha
sở họ Ars thuộc giáo phận Benle. Người quả là vị mục tử
gương mẫu: hoàn toàn lo việc loan báo lời Thiên Chúa, giải tội, cầu nguyện
và hãm mình. Có nhiều lúc, khuôn mặt người rạng rỡ khác thường, nhờ
tình yêu bắt nguồn từ bí tích Thánh Thể mà người đem hết lòng sốt sắng
để vừa cử hành, vừa thờ phượng. Người qua đời năm 1859.
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ds 11, 4b-15
“Một mình tôi không mang nổi dân này”.
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, con cái Israel nói rằng: “Ai sẽ cho
chúng tôi thịt ăn? Chúng tôi nhớ lại hồi còn ở Ai-cập, cá thì được ăn không, rồi
có dưa chuột, dưa gang, rau cải, hành tỏi. Giờ thì chúng tôi suy nhược, thiếu hết
mọi thứ: quay đi ngó lại chỉ thấy manna”.
Manna hình giống hạt ngò, sắc giống hạt châu. Dân chúng đi rảo
quanh mà hốt, rồi cho vào cối mà xay hoặc lấy chày mà giã; sau cùng, bỏ vào nồi
nấu thành bánh. Mùi vị nó như bánh chiên dầu. Cứ thường đêm, khi sương sa xuống
trại thì manna cũng rơi xuống.
Môsê nghe dân chúng than khóc, nhà nào cũng đứng ở cửa lều.
Chúa bừng bừng nổi giận. Môsê rất đỗi bực mình. Ông thưa cùng Chúa rằng: “Sao
Chúa làm khổ tôi tớ Chúa? Sao con không được nghĩa với Chúa? Sao Chúa bắt con
phải mang cả dân này? Con đâu có cưu mang cả đám dân này, con đâu có sinh ra
nó, mà Chúa bảo con: “Hãy ẵm nó vào lòng, như vú nuôi ẵm trẻ thơ, hãy mang nó
vào đất Ta đã thề hứa ban cho tổ tiên nó?” Con biết tìm đâu ra thịt để cho cả
đám dân này? Họ kêu khóc với con rằng: “Hãy cho chúng tôi ăn thịt”. Một mình
con không mang nổi dân này vì là gánh nặng nề đối với con. Nếu Chúa muốn xử với
con như thế, thì xin giết con đi, và cho con được nghĩa với Chúa, kẻo con phải
khốn cực dường này”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 80, 12-13. 14-15. 16-17
Ðáp: Hãy reo mừng
Thiên Chúa là Ðấng phù trợ chúng ta
Xướng: Dân tộc của
Ta chẳng có nghe Ta; Israel đã không vâng lời Ta răn bảo. Bởi thế nên Ta để mặc
cho chúng cứng lòng, để chúng sinh hoạt tuỳ theo sở thích.
Xướng: Phải chi
dân tộc của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối của Ta mà ăn ở, thì
lập tức Ta sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để đập tan quân địch của chúng, Ta
sẽ trở tay.
Xướng: Quân thù của
chúng sẽ phải xưng tụng chúng, và vận mạng của chúng sẽ bền vững muôn đời. Ta sẽ
lấy tinh hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho chúng ăn no mật từ hốc đá chảy ra.
Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! – Người ta sống không nguyên bởi bánh,
nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. – Alleluia.
Phúc Âm: Mt 14, 13-21
“Mọi người đều ăn no”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người
rời bỏ nơi đó xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết,
thì từ các thành phố đi bộ theo Người. Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng
đông đảo, thì thương xót họ và chữa những người bệnh tật trong họ.
Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: “Ðây là nơi
hoang địa, mà giờ đã chiều rồi: xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng
mạc mà mua thức ăn”.
Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Họ chẳng cần phải
đi, các con hãy cho họ ăn”. Các ông thưa lại rằng: “Ở đây chúng con chỉ có năm
chiếc bánh và hai con cá”. Người bảo các ông rằng: “Hãy đem lại cho Thầy”.
Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy
năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và
trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no.
Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn
là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.
Ðó là lời Chúa.
Chú giải về Dân số 11,4-15
Hôm nay, chúng ta sẽ chuyển sang Sách Dân số và chỉ có bốn
bài đọc từ sách này (từ Thứ Hai đến Thứ Năm). Tựa đề tiếng Do Thái của sách là
“Trong Hoang mạc”, có vẻ như mô tả nội dung sách phù hợp hơn. “Dân số” chỉ đơn
giản là phần đầu của sách, nơi mô tả cuộc điều tra dân số.
Toàn bộ sách được chia thành ba phần chính:
1. Chuẩn bị rời Sinai (1,1—10,10);
2. Hành trình đến Kadesh, nơi lần đầu tiên họ cố gắng tiến
vào Canaan (10,11—21,13); và
3. Hành trình từ Kadesh qua Transjordan với ý định tiếp cận
Canaan từ phía đông (21,14—36,13).
Theo ước tính của chính sách này, dân Israel đã dành hơn 35
năm trong tổng số 40 năm “lang thang” của họ tại Kadesh.
Sách Dân Số là sách tiếp theo ngay sau sách Lê-vi, là sách
thứ tư của Ngũ Kinh (Sáng Thế, Xuất Hành, Lê-vi, Dân Số, Đệ Nhị Luật). Sách này tiếp tục câu chuyện
về cuộc hành trình trong sa mạc, nhưng cũng bao gồm nhiều quy định pháp lý khác
nhau, hoặc bổ sung cho bộ luật Sinai, hoặc chuẩn bị cho thời điểm dân sự định
cư tại Ca-na-an.
Bốn chương đầu tiên của sách Dân Số bao gồm một cuộc điều
tra dân số của tất cả các chi tộc Ít-ra-en
(do đó có tên sách). Tiếp theo là các luật lệ khác nhau, các lễ vật của các thủ
lĩnh và lễ tấn phong người Lê-vi. Chương 9 bao gồm phần bổ sung cho sách Xuất
Hành về Lễ Vượt Qua. Trong chương 11, chúng ta đến một phần mô tả những lần dừng
chân trong hoang mạc. Bài đọc hôm nay được trích từ phần này, và chúng ta thấy
người Ít-ra-en vẫn còn phàn
nàn về số phận của họ.
Những người ngoại quốc trong số họ rất khao khát có thịt đến
nỗi người Do Thái cũng phàn nàn rằng họ cũng muốn có:
Ước gì chúng ta có thịt
để ăn!
Thực tế, thịt đã không phải là một phần trong chế độ ăn uống
thường xuyên của họ khi họ còn là nô lệ ở Ai Cập. Giờ đây, khi họ đang ở trong
một loại đau khổ mới, họ đã lãng mạn hóa quá khứ và giảm thiểu những khó chịu của
nó. Và họ không đề cập đến thịt như thức ăn họ có ở Ai Cập, mà chỉ có cá, rau
và trái cây.
Giờ đây, họ tuyên bố rằng họ đang chết đói, không có gì để
ăn, ngoài manna. Manna dường như có vị khá dễ chịu, nhưng như chúng ta cũng biết,
quá nhiều thứ gì cũng có thể trở nên nhàm chán. Nó dường như cũng khá bổ dưỡng,
vì vậy tuyên bố về nạn đói có phần phóng đại.
Chúng ta được mô tả về manna và cách chế biến nó. Nó giống
như hạt rau mùi, và trong Xuất Hành, chúng ta được biết rằng nó có màu trắng (nằm
trên mặt đất trông giống như sương muối) và có vị như bánh quế làm bằng mật
ong. Nó có vẻ ngoài giống như nhựa cây bdellium, một loại nhựa cây trong suốt,
màu hổ phách, cũng được đề cập trong Sáng Thế là được tìm thấy trong Vườn Địa
Đàng. Mỗi đêm (trừ ngày Sa-bát) khi sương rơi xuống, manna cũng rơi xuống. Để
ăn, dân chúng nghiền nó thành một loại bột, nấu trong nồi và làm thành những ổ
bánh mì có vị như bánh nướng phết dầu. Như thường lệ, mục tiêu và vật tế thần
cho những rắc rối của họ chính là Mô-sê,
người mà họ đổ lỗi cho hoàn cảnh hiện tại. Ngay cả Chúa cũng không mấy hài lòng
với sự vô ơn của dân tộc mà Ngài đã ban cho quá nhiều ân huệ.
Tội nghiệp Môi-se! Ông bị kẹt giữa hai phe, hứng chịu sự
công kích từ cả hai phía. Trong nỗi đau khổ tột cùng, ông thưa chuyện với Chúa.
Ông có những lời than phiền riêng:
Sao Ngài lại đối xử tệ
bạc với tôi tớ Ngài như vậy?
Ông muốn biết tại sao ông phải mang gánh nặng tội lỗi khi
chính Chúa là người có ý định đưa dân sự ra khỏi Ai Cập:
Phải chăng con đã thụ
thai toàn thể dân này? Phải chăng con đã sinh ra họ, mà Ngài lại bảo con: ‘Hãy
mang họ trong lòng như vú nuôi mang trẻ thơ, đến vùng đất mà Ngài đã thề hứa với
tổ tiên họ’?
Môi-se cảm thấy mình không thể một mình gánh vác gánh nặng nữa.
Bài đọc của chúng ta kết thúc với lời Môi-se nói rằng ông thà chết còn hơn phải
tiếp tục như thế này.
Thật ra, Chúa đã lắng nghe. Điều này không có trong bài đọc
hôm nay, nhưng Chúa đã nghe lời cầu nguyện của ông và giao phó trách nhiệm của
Môi-se cho 70 bô lão. Về lời kêu xin thịt của dân sự, họ được ăn chim cút mỗi
ngày trong suốt một tháng, cho đến khi họ phát ốm chỉ cần nhìn thấy thịt là không
muốn nhìn thấy nữa! Họ đã nhận được những gì họ cầu xin, nhưng nó lại trở thành
hình phạt cho sự càu nhàu của họ.
Bao nhiêu phần trăm trong những cuộc trò chuyện của chúng ta
với đồng nghiệp và bạn bè chỉ toàn là càu nhàu về đủ thứ chuyện? Bao nhiêu người
chúng ta thấy bị đem ra làm vật tế thần cho những điều chúng ta nghĩ là đã sai?
Bao nhiêu điều chúng ta nghĩ mình không thể làm mà không có lại mất đi sức hấp
dẫn khi chúng ta đã có được chúng một cách dư dả? Chúng ta cũng chẳng khác gì
dân Ít-ra-en.
Hôm nay, hãy cùng nhau nhìn lại những phước lành của mình. Rất
có thể, chúng ta sẽ thấy chúng lớn hơn nhiều so với những bất bình của mình.
Chú giải về
Mát-thêu 14,13-21
Lời loan báo về cái chết của Gioan Tẩy Giả được tiếp nối ngay sau trong Mát-thêu là việc Chúa Giê-su cho 5.000 người
ăn trong sa mạc. Mát-thêu kể
rằng Chúa Giê-su, khi nghe tin người anh họ qua đời một cách bi thảm, đã lên
thuyền đến một nơi hoang vắng một mình. Rõ ràng Ngài muốn có thời gian để suy
ngẫm. Ngài biết rằng, nếu mọi việc cứ tiếp diễn như vậy, Ngài cũng sẽ gặp rắc rối.
Tuy nhiên, đám đông biết Ngài đã đi đâu nên đã đi bộ dọc bờ
biển và:
Khi Ngài lên bờ, Ngài
thấy một đám đông rất đông, Ngài chạnh lòng thương và chữa lành những người bệnh.
Những rắc rối của riêng Ngài đã được gạt sang một bên khi
Ngài thấy nhu cầu lớn hơn của dân chúng. Tất nhiên, ở đây, chúng ta có một hình
ảnh về Thiên Chúa của chúng ta, tràn đầy lòng trắc ẩn với tất cả chúng ta và
mong muốn mang đến cho chúng ta sự chữa lành và sự trọn vẹn.
Khi chiều xuống, các môn đồ đề nghị sai dân chúng đến các
làng lân cận để kiếm thức ăn. Đây là lần đầu tiên sự hiện diện của các môn đồ
được nhắc đến. Trong phiên bản câu chuyện của Máccô, các tông đồ đã cùng Chúa
Giêsu đi thuyền theo lời mời của Người, để tất cả có một khoảng thời gian yên
tĩnh tránh xa đám đông. Câu trả lời của Chúa Giêsu rất đơn giản và thẳng thắn:
Họ không cần phải đi
đâu cả; chính các con hãy cho họ ăn.
Họ đáp:
Chúng con chỉ có năm
chiếc bánh và hai con cá.
Dĩ nhiên, đây là một dấu hiệu của tương lai. Trách nhiệm của
những người theo Chúa Giêsu là cung cấp cho dân chúng lương thực cần thiết cho
cuộc sống. Đôi khi, nguồn lực của họ dường như rất hạn hẹp, nhưng thời gian sẽ
chứng minh rằng những điều kỳ diệu có thể được thực hiện chỉ với rất ít. Hãy
nhìn vào những gì Thánh (Mẹ) Teresa thành Calcutta đã làm được mà không cần gì
cả.
Sau đó, dân chúng được lệnh ngồi xuống cỏ. Chúa Giêsu cầm lấy
bánh và cá, ngước mắt lên trời hướng về Chúa Cha, chúc lành cho thức ăn, bẻ ra
và trao cho các tông đồ, rồi các tông đồ phân phát cho dân chúng. Toàn bộ hành
động này rõ ràng báo trước Bí tích Thánh Thể và dẫn đến Bí tích này. Không có lời
giải thích nào về diễn biến sự việc, nhưng “năm ngàn người đàn ông”, không kể
phụ nữ và trẻ em cũng có mặt, đã được no nê. Chỉ có Matthew ghi nhận sự hiện diện
của phụ nữ và trẻ em. Vì người Do Thái không cho phép phụ nữ và trẻ em ăn chung
với đàn ông ở nơi công cộng, nên họ sẽ ở một nơi riêng biệt. Và số bánh còn lại
được chất đầy 12 giỏ - một con số hoàn hảo tượng trưng cho sự dư dật, đồng thời
cũng tượng trưng cho số lượng các Tông đồ.
Có hai bài học rõ ràng. Bài học thứ nhất là Chúa chăm sóc
dân Ngài. Chúng ta có thể hiểu việc cho ăn theo hai cách. Một mặt, chúng ta có
thể đơn giản coi đó là một sự kiện kỳ diệu, ám chỉ nguồn gốc thiêng liêng của
Chúa Giê-su. Mặt khác, có một khả năng khác với ý nghĩa riêng của nó. Khi các
tông đồ bắt đầu chia sẻ phần thức ăn ít ỏi của họ với những người xung quanh,
điều này đã khơi mào một phong trào tương tự trong đám đông, nhiều người trong
số họ thực sự đã mang theo một ít thức ăn. Khi mọi người chia sẻ, ai cũng có đủ
- một hình ảnh về loại xã hội mà Giáo hội nên hướng tới. Một số người có thể
cho rằng điều này đang giải thích sai lệch về phép lạ, nhưng nó cũng đưa ra một
điểm quan trọng để chúng ta suy ngẫm trong cuộc sống của chính mình. Bài học thứ
hai là chính các tông đồ chứ không phải Chúa Giêsu đã phân phát bánh và cá. Và
điều này cũng đúng trong thời đại của chúng ta. Nếu những người theo Chúa Giêsu
không chia sẻ với người khác những gì họ đã nhận được từ Người, thì công việc của
Chúa Giêsu và việc truyền bá Phúc Âm sẽ không thể diễn ra.
Cuối cùng, và như đã đề cập, có những yếu tố Thánh Thể rõ
ràng trong câu chuyện—đặc biệt là cách thức mang tính nghi lễ mà Chúa Giêsu đã
cầu nguyện, ban phép lành, bẻ bánh và phân phát bánh. Việc bẻ bánh (tên gọi của
Thánh Lễ) rất quan trọng vì nó biểu thị sự chia sẻ chứ không chỉ đơn thuần là
ăn uống. Thánh Thể là việc cử hành một cộng đồng chia sẻ. Nếu việc chia sẻ những
gì chúng ta có trong cuộc sống thực không diễn ra, thì Thánh Thể sẽ trở thành một
hình thức giả tạo mang tính nghi lễ, giống như:
... những ngôi mộ được
quét vôi trắng, bên ngoài trông đẹp đẽ nhưng bên trong đầy xương người chết…
(Mt 23,27)
https://livingspace.sacredspace.ie/o1182g/
Suy Niệm: Bánh Hóa Nhiều
Truyện kể một người đàn bà nghèo về vật chất, nhưng lại
giầu về lòng tin. Người chủ căn phòng, nơi bà thuê là một người đàn ông giàu
có, nhưng keo kiệt và vô đạo; ông thường đem lòng tin của người đàn bà ra làm
trò cười.
Một hôm, người đàn bà cầu nguyện lớn tiếng với Chúa rằng
hiện trong nhà không còn lấy một hột gạo. Ðể cho người đàn bà một bài học về sự
mê tín dị đoan, kẻ vô đạo liền lấy một ổ bánh mì, rón rén đặt trước cửa phòng
người đàn bà, bấm chuông rồi chạy vội về phòng mình.
Người đàn bà mở cửa phòng lấy ổ bánh mì, trở lại phòng và
cầu nguyện: "Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì con biết rằng lúc nào Chúa cũng
nhậm lời con".
Người đàn ông rất tâm đắc khi nghe một lời cầu nguyện như
thế. Ông đến gõ cửa phòng người đàn bà và nói vọng vào: "Hỡi người đàn bà
ngu xuẩn, bà tưởng rằng Chúa đã nhậm lời cầu xin của bà ư? Chính tôi là người
đã mang ổ bánh đặt trước cửa phòng bà đó".
Làm như thể không để ý đến lời nói của người đàn ông, người
đàn bà nghèo lại tiếp tục cầu nguyện: "Lạy Chúa, chúc tụng Chúa, vì Chúa
luôn trợ giúp con trong lúc túng ngặt: Chúa dùng ngay cả một tên quỷ để đáp lại
lời cầu xin của con".
Trong Tin Mừng hôm nay, khi các môn đệ xin Chúa giải tán dân
chúng về các làng mạc để họ tự mua thức ăn, Ngài đã truyền lệnh cho họ:
"Các con hãy liệu cho họ ăn". Rồi với năm chiếc bánh và hai con cá do
các môn đệ mang đến, Ngài đã nuôi trên 5,000 người được ăn no nê mà còn dư 12
thúng bánh vụn.
Ngày nay, các đám đông đói ăn ấy được nhân lên đến cả triệu
lần, họ không chỉ đói, mà còn chết đói là khác. Ðã và đang có biết bao người
làm những việc hy sinh để nuôi sống đám đông ấy, nhưng vấn đề quá lớn lao đối với
những giới hạn của con người. Dĩ nhiên, con người phải làm hết sức có thể để
giúp đỡ đồng loại, nhưng với sức riêng, con người không thể giải quyết được vấn
đề quá lớn lao ấy, họ cần có sự trợ lực từ bên trên. Thật thế, chúng ta cần phải
có những việc làm cụ thể, vì "đức tin không có việc làm là đức tin chết".
Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể mang lại cơm bánh cho người đói khát, khi chúng
ta cũng trao ban cho họ lời cầu nguyện của chúng ta. Tự sức mình, với năm chiếc
bánh và hai con cá, các môn đệ không thể nuôi sống trên 5,000 người; thế nhưng,
xem chừng Chúa Giêsu không thể làm phép lạ, nếu không có năm chiếc bánh và hai
con cá ấy.
Người Kitô hữu chúng ta không chỉ làm công tác xã hội. Năm
chiếc bánh và hai con cá do đóng góp và san sẻ của chúng ta cần phải đi đôi với
niềm tin và lời cầu nguyện. Với niềm tin và lời cầu nguyện, chúng ta hãy xác
tín rằng cách nào đó, Chúa hằng nhậm lời chúng ta và chắc chắn phép lạ luôn diễn
ra. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện: "Xin Cha cho chúng con hôm nay
lương thực hằng ngày".
Ước gì những cố gắng chia sẻ và trao ban của chúng ta luôn
được thực thi bằng tất cả niềm tin và lời cầu nguyện. Ước gì niềm tin và lời cầu
nguyện của chúng ta cũng được thể hiện bằng những nghĩa cử cụ thể của chúng ta.
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét