Trang

Thứ Ba, 19 tháng 8, 2025

20.08.2025: THỨ TƯ TUẦN XX THƯỜNG NIÊN - THÁNH BÊ-NA-ĐÔ, VIỆN PHỤ, TIẾN SĨ HỘI THÁNH - Lễ Nhớ

 20/08/2025

 Thứ Tư tuần 20 thường niên.

 Thánh Bênađô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh.

Lễ nhớ.

 


Thánh nhân sinh năm 1090 gần Đi-giông, nước Pháp. Được giáo dục theo nếp sống đạo đức, năm 1111, người nhập dòng các đan sĩ Xitô. Ít lâu sau, người được chọn làm viện phụ. Người đã dùng hoạt động và gương sáng để hướng dẫn các đan sĩ tập luyện các nhân đức. Vì có sự phân ly trong Hội Thánh, người đã đi khắp châu Âu để lo vãn hồi sự hòa bình và hiệp nhất. Người đã biên soạn nhiều tác phẩm thần học và tu đức. Người qua đời năm 1153.

 

Bài Ðọc I: Tl 9, 6-15

“Ðang khi Chúa ngự trị giữa chúng tôi, các ngươi đã nói: “Xin cho một vua cai trị chúng tôi”.

Trích sách Thủ Lãnh.

Khi ấy, mọi người Sikem và tất cả các gia tộc thành Mêllô tụ họp lại, rồi kéo nhau đến gần cây sồi ở Sikem, và tôn Abimêlech lên làm vua.

Khi ông Giotham nghe tin ấy, liền đi lên đứng trên đỉnh núi Garizim, lớn tiếng kêu lên rằng: “Hỡi người Sikem, hãy nghe ta, để Thiên Chúa cũng nghe các ngươi. Các cây cối đều đến xức dầu phong một vị vua cai trị chúng, và nói cùng cây ôliu rằng: “Hãy đi cai trị chúng tôi”. Cây ôliu đáp lại rằng: “Chớ thì ta có thể bỏ việc sản xuất dầu mà các thần minh và loài người quen dùng, để được lên chức cai trị cây cối sao?” Các cây cối nói cùng cây vả rằng: “Hãy đến cầm quyền cai trị chúng tôi”. Cây vả trả lời rằng: “Chớ thì ta có thể bỏ sự ngọt ngào của ta, bỏ hoa trái ngon lành của ta, để được lên chức cai trị các cây cối khác sao?” Các cây cối nói với cây nho rằng: “Hãy đến cai trị chúng tôi”. Cây nho đáp rằng: “Chớ thì ta có thể bỏ việc cung cấp rượu, là thứ làm cho Thiên Chúa và loài người được vui mừng, để được lên chức cai trị các cây cối khác sao?” Tất cả những cây cối nói với bụi gai rằng: “Hãy đến cai trị chúng tôi”. Bụi gai trả lời rằng: “Nếu các ngươi thật lòng đặt ta làm vua các ngươi, thì các ngươi hãy đến nghỉ dưới bóng ta. Nhưng nếu các ngươi không muốn thì sẽ có lửa từ bụi gai phát ra thiêu huỷ các cây hương nam núi Liban”.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 20, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng 

Xướng: Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng; do ơn Chúa phù trợ, vua xiết bao hân hoan! Chúa đã ban cho sự lòng vua ao ước, và điều môi miệng vua xin, Chúa chẳng chối từ.

Xướng: Chúa đã tiên liệu cho vua được phước lộc may mắn, đã đội triều thiên vàng ròng trên đầu vua. Nhờ Chúa giúp mà vua được vinh quang cao cả, Chúa khoác lên người vua, oai nghiêm với huy hoàng.

Xướng: Vua xin Chúa cho sống lâu, thì Chúa đã ban cho một chuỗi ngày dài tới muôn muôn thuở. Chúa đã khiến vua nên mục tiêu chúc phúc tới muôn đời, Chúa đã cho vua được hân hoan mừng rỡ trước thiên nhan. 

 

Phúc Âm: Mt 20, 1-16a

“Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: “Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông.

“Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng”. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.

“Ðến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: “Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?” Họ thưa rằng: “Vì không có ai thuê chúng tôi”. Ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta”.

“Ðến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: “Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết”. Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: “Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?” Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?”

“Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết”.

Ðó là lời Chúa.

 

 


Chú giải về Thủ Lãnh 9,6-15

Hôm nay chúng ta có một bài đọc khá khác thường. Ghít-ôn giờ đã qua đời, và đúng như dự đoán, dân chúng lại một lần nữa sa vào sự thờ hình tượng. Bài đọc của chúng ta được trích từ một phần trong Sách Thủ Lãnh, đề cập đến triều đại của A-bi-me-léc.

Câu chuyện về A-vi-me-léc thực ra không thuộc về sách này. Lý do duy nhất cho sự xuất hiện của ông là vì ông là con trai của Ghít-ôn-Giơ-rúp-ba-an, nhưng ông không phải là một trong những thủ lãnh, thậm chí cũng không phải là vua của Ít-ra-en. Ông được miêu tả như một nhân vật cực kỳ tai tiếng. Ông là con trai của một người phụ nữ Si-khem và được người Ca-na-an tôn làm vua Si-khem nhờ mưu đồ và sự phô trương sức mạnh của ông. Chiến công duy nhất của ông là vụ thảm sát các anh em mình, cuộc chiến với quân nổi loạn Si-khem và cuộc tấn công vào thành phố Tê-vết của Ít-ra-en, kết thúc trong nhục nhã bằng cái chết của ông.

Câu chuyện chắc chắn mang tính lịch sử và làm sáng tỏ hoàn cảnh của thời kỳ đó, thế kỷ 14 TCN. Sự thất bại của A-vi-me-léc đã củng cố niềm tin của tác giả kiêm biên tập rằng không thể có vị vua nào khác ở Ít-ra-en ngoài một vị vua được Đức Chúa chọn. Điều đó sẽ không xảy ra cho đến khi Sa-un được bổ nhiệm. Giống như La Mã vào thời kỳ sau đó, có một tinh thần chống vua mạnh mẽ trong dân Ít-ra-en và điều này được phản ánh trong bài đọc hôm nay.

Khi bài đọc mở đầu, chúng ta được biết rằng:

...tất cả các lãnh chúa của Si-khem và toàn thể Bết Mi-lô đã nhóm họp lại, và họ đi tôn A-vi-me-léc làm vua, bên cạnh cây sồi của trụ đá tại Si-khem.

Như chúng ta đã thấy trước đây, Si-khem nằm ở chính giữa Palestine, và vào thời điểm đó thuộc lãnh thổ của Mơ-na-se. Bết Mi-lô có lẽ giống với Mích-đan Si-khem được đề cập sau đó trong câu chuyện (nhưng không có trong bài đọc của chúng ta). Millo bắt nguồn từ một động từ tiếng Do Thái có nghĩa là 'lấp đầy' và có lẽ ám chỉ đến việc lấp đất được sử dụng để dựng nền móng trên đó các bức tường và các công trình lớn khác được xây dựng. Do đó, Bết Mi-lô có thể có nghĩa là 'pháo đài' (xem Thủ Lãnh 9,46).

 

Tin tức về lời tuyên bố được truyền đến Giô-tham, em trai út của A-vi-me-léc. Ông lên đứng trên đỉnh núi Gơ-ri-dim và lớn tiếng kêu lớn. Ông hoàn toàn phản đối việc anh trai mình lên ngôi vua, và sau khi đọc diễn văn, ông đã chạy trốn để thoát khỏi tầm tay của A-vi-me-léc. Núi Gơ-ri-dim sau này sẽ là ngọn núi mà đối với người Sa-ma-ri, sẽ trở thành đối thủ của Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Điều này được thể hiện trong cuộc đối thoại giữa Chúa Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri khi bà hỏi Ngài nơi nào là đúng để thờ phượng Đức Chúa Trời (xem Gioan 4,1-42).

Những gì diễn ra sau đó được gọi là ngụ ngôn Giô-tham. Đây là ví dụ sớm nhất trong Kinh Thánh về một câu chuyện ngụ ngôn sử dụng thực vật hoặc động vật để minh họa cho một bài học đạo đức của con người. Những ví dụ sau này bao gồm câu chuyện ngụ ngôn mà Nathan kể cho Đa-vít để cảnh tỉnh ông về tội lỗi khủng khiếp của mình là ngoại tình và giết người liên quan đến Bết-se-ba (2 Sa-mu-ên 12,1-4) hoặc câu chuyện ngụ ngôn của Vua Giô-át về một cây kế cầu hôn một cây tuyết tùng Li-băng (2 Các Vua 14,9). Ê-dê-ki-ên cũng sử dụng một câu chuyện ngụ ngôn để nói về việc Na-bu-cô-đô-nô-xo trục xuất Vua Giô-gia-kim và đưa Xít-ki-gia lên ngôi thay thế.

Dạng văn học này được tìm thấy ở khắp mọi nơi, bao gồm cả Lưỡng Hà, Ai Cập và Hy Lạp. Ở Hy Lạp, người ta nghĩ đến những câu chuyện ngụ ngôn của Aesop, một phần trong kho tàng văn học thiếu nhi cho đến tận ngày nay. Câu chuyện được kể ở đây có thể đã tồn tại độc lập và được Giô-tham chuyển thể để thể hiện sự đánh giá của ông về A-vi-me-léc.

Câu chuyện ngụ ngôn của Giô-tham phản ánh sự ngờ vực đối với chế độ quân chủ, điều mà chúng ta thấy trong giai đoạn ngay trước khi Sa-un được chọn làm vị vua đầu tiên của Ít-ra-en (1 Sa-mu-ên 8). Vậy nên, ở đây, cây ô liu, cây vả và cây nho, vốn có giá trị đối với con người, lại từ chối vương quyền vì không phục vụ cho mục đích hữu ích nào. Chúng tượng trưng cho Ghít-ôn, người đã từ chối làm vua hay thành lập một triều đại. Bụi gai, vô trái và độc hại, chấp nhận vương quyền và tượng trưng cho A-vi-me-léc, một người hoàn toàn không phù hợp với vai trò này.

Câu chuyện ngụ ngôn tiếp theo như sau:

Những cái cây ngày xưa đã đi xức dầu cho một vị vua cai trị chúng.

Như đã đề cập, những câu chuyện ngụ ngôn kiểu này, trong đó các vật thể vô tri vô giác nói và hành động, rất phổ biến trong các dân tộc phương Đông thời đó - và thực sự ở cả chúng ta nữa, mặc dù bây giờ chúng có thể mang hình thức hoạt hình của Disney.

Câu chuyện ngụ ngôn tiếp tục:

Vì vậy, họ nói với cây ô liu: 'Hãy cai trị chúng tôi.'

Nhưng cây ô liu từ chối và trả lời họ:

Ta có nên ngừng sản xuất dầu phong phú của ta, thứ dầu mà các thần linh và phàm nhân đều tôn kính, để đi đu đưa trên cây cối không?

Dầu được sử dụng trong việc thờ phượng cả Đức Chúa Trời thật lẫn các thần giả; nó được quy định trong việc thờ phượng Đức Chúa. Nó cũng được sử dụng để phong chức cho các tiên tri, thầy tế lễ và vua chúa. Khi nói về Chúa Giê-su là 'Đấng Ki-tô', chúng ta đang nói về việc xức dầu. Christos có nghĩa là 'được xức dầu' và do đó Ngài là một vị Vua. Từ tiếng Do Thái tương đương là Messiah. Nhưng trên thực tế, Chúa Giê-su không được xức dầu; Đúng hơn, Ngài đã được Gioan Tẩy Giả làm phép rửa bằng nước.

Trở lại câu chuyện ngụ ngôn:

Bấy giờ, cây cối nói với cây vả:

‘Ngài đến cai trị chúng tôi.’

Cây vả đáp:

Ta há chẳng nên ngừng sản sinh ra những trái ngọt ngào và thơm ngon của ta để đi đu đưa trên cây cối sao?

Bấy giờ, cây cối nói với cây nho:

Ngài đến cai trị chúng tôi.

Cây nho cũng từ chối:

Ta há chẳng nên ngừng sản sinh ra thứ rượu nho làm vui lòng cả thần linh lẫn phàm nhân để đi đu đưa trên cây cối sao?

Rượu được dùng trong các nghi lễ cúng tế tại Đền thờ Giê-ru-sa-lem và các đền thờ ngoại giáo. Nhưng người ta cũng thường tin rằng các vị thần đã tham gia vào những trải nghiệm của con người như uống rượu (hãy nhớ đến Bacchus - thần rượu nho).

Nhìn chung, cây ô liu, cây vả và cây nho đều là những loài cây cho ra trái có tầm quan trọng lớn đối với người dân Cận Đông. Tất cả đều được nhắc đến thường xuyên trong Kinh Thánh, bao gồm cả Phúc Âm.

 

Cuối cùng, các cây tiến đến gần bụi gai:

Tất cả cây cối đều nói với cây mâm xôi: 'Hãy đến và cai trị chúng tôi.'

Cây mâm xôi trả lời các cây cối:

Nếu các ngươi thành tâm xức dầu cho ta làm vua cai trị các ngươi, thì hãy đến ẩn núp dưới bóng ta; nếu không, xin lửa từ cây mâm xôi bùng lên và thiêu rụi những cây bá hương Li-băng.

Cây bá hương Li-băng, loại cây quý giá nhất trong số các loại cây ở Cận Đông, ở đây tượng trưng cho những người lãnh đạo của Si-khem, những người đang được cảnh báo về hậu quả nếu họ không thể hiện lòng trung thành với A-vi-me-léc, người mà họ đã tôn làm vua.

'Mâm xôi' có lẽ là cây hắc mai gai nổi tiếng, một loại cây bụi rậm rạp phổ biến trên các ngọn đồi ở Palestine và là mối đe dọa thường trực cho việc canh tác ở đó. Nó không mang lại giá trị gì và là hình ảnh thích hợp để đại diện cho A-vi-me-léc. Khi che bóng mát cho cây cối, bụi gai tượng trưng cho vai trò truyền thống của các vị vua là người bảo vệ thần dân, nhưng lại có một yếu tố mỉa mai trong việc một cây như vậy che bóng mát cho những cây khác cao hơn nhiều so với chính nó. Dường như có một hàm ý rằng sự bảo vệ của các vị vua, đặc biệt là A-vi-me-léc, cũng chẳng hơn gì bụi gai.

Nhìn chung, câu chuyện phản ánh sự chán ghét của người Ít-ra-en đối với chế độ quân chủ vào thời điểm này. Nó ngụ ý rằng những người có giá trị và năng suất nhất không quan tâm đến việc làm vua. Thay vào đó, vai trò này được đảm nhiệm bởi những bụi gai hoàn toàn vô dụng (tượng trưng cho A-vi-me-léc).

Đôi khi chúng ta cũng có thể tránh né trách nhiệm vì chúng ta không muốn từ bỏ điều mình thích làm. Kết quả là, nhiệm vụ này có thể phải được thực hiện bởi những người không có năng lực hoặc không phù hợp. Mặt khác, chúng ta có thể có tham vọng về một vai trò nào đó mà chúng ta không phù hợp và điều đó làm cản trở việc sử dụng những tài năng thực sự mà chúng ta có. Sự phân định thường là cần thiết để khám phá xem liệu chúng ta có thực sự ở đúng nơi mà Chúa muốn chúng ta ở hay liệu chúng ta có đang sử dụng tốt những tài năng mà Chúa ban cho chúng ta hay không.

 


Chú giải về Mát-thêu 20,1-16

Hôm nay chúng ta có một dụ ngôn khác về Nước Trời. Và nó không liên quan gì đến câu chuyện trước đó về người giàu có. Khi đọc lần đầu, chúng ta có thể có khuynh hướng nghiêng về phía những người càu nhàu trong dụ ngôn. Suy cho cùng, dường như thật bất công khi những người chỉ làm việc một giờ lại nhận được số tiền bằng với những người đã làm việc từ sáng sớm và suốt cả ngày trời nóng nực.

Mặc dù tất cả đã đồng ý làm việc với một số tiền quy định, nhưng vẫn công bằng và đúng mực, người ta cảm thấy rằng những người đến sớm nên được trả nhiều hơn, hoặc những người đến muộn được trả ít hơn. Tuy nhiên, nếu chúng ta thấy mình đồng ý với điều này, thì điều đó cho thấy suy nghĩ của chúng ta là suy nghĩ của con người chứ không phải của Chúa. Suy ngẫm thêm một chút sẽ khiến chúng ta cảm thấy biết ơn vì Chúa đã làm việc như người chủ vườn nho.

Câu chuyện này, như thường thấy trong Phúc Âm, dường như phản ánh tình hình của Giáo hội sơ khai. Các Kitô hữu đầu tiên đều là người Do Thái. Trước khi cải đạo, họ đã cố gắng sống theo những đòi hỏi của đức tin Do Thái. Họ thuộc về một dân tộc có lịch sử tôn giáo hàng ngàn năm; họ là dân riêng của Chúa. Sau đó, người ngoại bang bắt đầu được chấp nhận vào cộng đồng. Một số người trong số họ có lẽ đến từ những môi trường hoàn toàn ngoại giáo. Họ có thể đã sống một cuộc sống rất vô đạo đức, nhưng một khi được chấp nhận và chịu phép rửa tội, họ được hưởng tất cả các đặc quyền của cộng đồng. Bằng cách nào đó, điều đó có vẻ không đúng.

Nhưng đây chính là công lý của Chúa mà chúng ta cần học hỏi. Không ngoại lệ, Ngài ban tình yêu của Ngài - tất cả tình yêu của Ngài - cho tất cả những ai mở lòng đón nhận. Điều đó xảy ra sớm hay muộn không quan trọng. Một lý do cho điều đó là vì tình yêu của Chúa không bao giờ có thể được giành giật, mà chỉ có thể được chấp nhận. Và, như câu chuyện trước đã chỉ ra, nhu cầu thực sự của tất cả mọi người nên được đáp ứng. Việc những người đến sau chỉ được thuê vào giờ chót không làm cho nhu cầu của họ kém hơn những người đến trước. Công lý của Chúa được đo lường bằng nhu cầu của chúng ta, chứ không phải bằng phép chia toán học.

Những gì mỗi người làm công nhận được là biểu tượng của tình yêu của Chúa, Đấng là chủ vườn nho. Tất cả mọi người—dù đến sớm hay đến muộn—đều nhận được tình yêu thương của Thầy và Chúa của họ. Tình yêu thương ấy không có nhiều mức độ khác nhau. Nó luôn là 100 phần trăm. Chúa là Tình yêu; Ngài không thể không yêu thương và Ngài không thể không yêu thương trọn vẹn. Ngài không thể và sẽ không ban tặng tình yêu ấy cho người này nhiều hơn người kia.

 

Đây quả thực là điều chúng ta nên biết ơn. Bởi vì điều đó có thể xảy ra—và có lẽ đã xảy ra rồi—khi tôi rời xa Chúa và tình yêu thương của Ngài; tôi có thể rời xa Ngài rất xa. Nhưng tôi biết rằng bất cứ lúc nào tôi quay về với Ngài, dù là giờ thứ 11, Ngài vẫn đang chờ đợi với vòng tay rộng mở. Cảm tạ Chúa vì sự công chính của Ngài!

 

https://livingspace.sacredspace.ie/o1204g/

 

 


Suy Niệm: Giá Trị Và Nhân Phẩm Con Người

Qua câu chuyện ngụ ngôn về người chủ vườn và các công nhân làm vườn nho, Chúa Giêsu đã diễn tả lòng quảng đại và lòng bác ái vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại. Ngài đã dùng một thực tại rất gần gũi với đời sống xã hội của người Do Thái đương thời là vào thời ấy các công nhân thường hay đứng đợi ở những nơi công cộng như chợ búa chẳng hạn, để chờ các chủ nhân đến mướn làm việc. Thường là những công việc làm ngắn hạn, có khi chỉ là một ngày công mà thôi cho nên nếu ngày nào mà có những công nhân đó không có việc làm có nghĩa là ngày ấy thiếu những bát cơm nóng trên bàn ăn của gia đình.

Trong chuyện ngụ ngôn hôm nay, người chủ nhân đã gọi các công nhân làm việc vào giờ cuối cùng nhưng đã rộng lượng trả tiền thù lao cho họ ngang bằng với tiền trả cho những người làm việc cả ngày. Qua lối nói ẩn dụ này Chúa Giêsu cho thấy lòng nhân ái của Chúa Cha đối với nhân loại, nhất là đối với những kẻ tội lỗi, những người bị áp bức và bị đẩy ra bên lề của xã hội phong kiến thời ấy. Có những người thất nghiệp không phải vì họ lười biếng không chịu làm việc mà vì hệ thống kinh tế thời đó không tạo ra công ăn việc làm cho người dân. Người chủ nhân mướn và trả công thật hậu cho những người làm việc vào giờ chót, cho thấy tấm lòng quảng đại bao la của ông, vì nếu ông chỉ trả lương đúng theo số giờ họ đã làm việc thì chắc chắn là gia đình của những người này sẽ thiếu ăn trong ngày hôm đó.

Thiên Chúa chính là vị chủ nhân tốt lành và quảng đại với tất cả tạo vật của Ngài. Ngài luôn quan tâm và thương xót nhân loại, nhất là đối với những người đau khổ về mặt vật chất lẫn tinh thần như lời Ngài nói: "Tất cả những ai mang gánh nặng nề hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng". Như thế, người chủ nhân đã rộng lòng trả tiền lương cho tất cả các công nhân ngang bằng nhau, không kể họ làm việc vào giờ nào, điều đó không phải là sự bất công. Người chủ vườn là Thiên Chúa luôn công bằng với các tạo vật của Ngài, ai làm việc nhiều giờ hay ít giờ đối với Ngài không là việc thiết yếu; điều quan trọng là ý định và thái độ làm việc của các công nhân.

Thiên Chúa yêu mến những ai phục vụ Ngài bằng với tinh thần yêu thương và hân hoan chứ không làm việc vì muốn được hưởng công hậu hay vì mục đích tham vọng cá nhân. Sự làm việc có một giá trị thiêng liêng đối với con người vì qua sự làm việc, con người làm vinh danh Thiên Chúa và cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu độ của Ngài. Qua công việc làm, con người trở nên hữu ích và góp phần vào công việc xây dựng và làm thăng tiến xã hội, và cũng qua đó tìm thấy giá trị và nhân phẩm của mình.

Qua chuyện ngụ ngôn hôm nay những công nhân được mướn làm giờ đầu tiên ám chỉ đến dân tộc Israel, là dân tộc đã được Thiên Chúa chọn làm dân riêng và được Ngài mạc khải chương trình cứu độ, nhưng dân Do Thái đã từ khước Thiên Chúa lại còn giết hại Con Một do Ngài sai tới để cứu chuộc thế gian. Nhưng tình yêu thương được thể hiện qua công trình cứu độ của Thiên Chúa không giới hạn trong quốc gia Do Thái mà còn mở rộng đến mọi dân tộc trên thế gian.

Các công nhân được gọi làm việc trong vườn nho vào giờ cuối cùng là hình ảnh tiêu biểu cho tất cả các dân ngoại đã từng hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa như Ngài đã ban ơn cho dân Do Thái.

Lạy Chúa,

Xin dạy cho chúng con biết phục vụ Chúa và những anh chị em khác với lòng quảng đại và niềm hân hoan. Xin cho chúng con biết dâng hiến nhiều hơn là cầu xin cho sự ích lợi của riêng mình.

(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét