Ngày
28/04/2013
Chúa Nhật
Tuần V Mùa Phục Sinh Năm C
(Phần I)
BÀI ĐỌC I: Cv 14, 20b-26 (Hl 21-27)
"Các ngài thuật
lại những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba trở lại
Lystra, Icôniô và Antiôkia, củng cố tinh thần các môn đồ, khuyên bảo họ giữ
vững đức tin mà rằng: "Chúng ta phải trải qua nhiều nỗi gian truân mới
được vào nước Thiên Chúa". Nơi mỗi hội thánh, các ngài đặt những vị niên
trưởng, rồi ăn chay cầu nguyện, trao phó họ cho Chúa là Đấng họ tin theo.
Sau đó, các ngài sang Pisiđia, đi đến
Pamphylia. Sau khi rao giảng lời Chúa tại Perghê, các ngài xuống Attilia, rồi
từ đó xuống tàu trở về Antiôkia, nơi mà trước đây các ngài đã được trao phó cho
ơn Chúa để làm công việc các ngài mới hoàn thành. Khi đến nơi, các ngài tụ họp
giáo đoàn, thuật cho họ nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài và đã mở
lòng cho nhiều dân ngoại nhận biết đức tin.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 144, 8-9. 10-11.
12-13ab
Đáp: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa
đến muôn đời (c. 1).
Hoặc
đọc: Alleluia.
1)
Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi
loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Đáp.
2)
Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài
hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao
quyền năng của Ngài. - Đáp.
3)
Để con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước
Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời, chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ. - Đáp.
BÀI
ĐỌC II: Kh 21, 1-5a
"Thiên Chúa sẽ
lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ".
Trích
sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan đã thấy trời mới và đất mới. Vì
trời cũ và đất cũ đã qua đi, và biển cũng không còn nữa. Và tôi là Gioan đã
thấy thành thánh Giêrusalem mới, tự trời xuống, từ nơi Thiên Chúa: tề chỉnh như
tân nương được trang điểm cho tân lang của mình. Và tôi nghe có tiếng lớn tự
ngai vàng phán ra: "Đây là Thiên Chúa ở với loài người, và chính Thiên
Chúa sẽ ở với họ. Người sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ. Sự chết chóc sẽ không
còn nữa, cũng không còn than khóc, không còn kêu la, không còn đau khổ: bởi vì
các việc cũ đã qua đi". Và Đấng ngự trên ngai vàng đã phán rằng: "Này
đây, Ta đổi mới mọi sự". Đó là lời
Chúa.
ALLELUIA: Ga 13, 34
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy
yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con". - Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 13, 31-33a. 34-35
"Thầy ban cho các
con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền
phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi
Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người
được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển.
"Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các
con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu
thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau.
Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu
các con yêu thương nhau". Đó là lời
Chúa.
SUY NIỆM : Một Lệnh Mới:
"các con hãy yêu thương nhau"
Khung
cảnh tiệc ly của bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta có cảm tưởng phụng vụ muốn
chuẩn bị lễ Chúa lên trời sắp tới. Và bài sách Công vụ được chọn để ăn ý với
bài Tin Mừng cũng nói về việc các tông đồ từ giã các giáo đoàn. Nhưng trong
Kitô giáo, tin tưởng và bình an tràn ngập cả những trường hợp như thế. Những
cuộc ra đi kể trong các bài Kinh Thánh kia còn hứa hẹn và bảo đảm một sự sống
mới trong tương lai mà bài sách Khải Huyền hôm nay đã mở ra cho chúng ta thấy.
Nếu được phép trình bày lại một cách đơn giản, giáo huấn của Lời Chúa trong
thánh lễ này, chúng ta có thể nói:
-
Khi ra đi, Chúa đã để lại một lệnh mới.
-
Các tông đồ đã thi hành.
-
Một viễn tưởng về tương lai đang mở ra trước mắt mọi người.
Tức
là chúng ta sẽ lần lượt suy niệm bài Tin Mừng rồi bài sách Công vụ và sau cùng
đến bài Khải Huyền.
1. Một Lệnh Mới
Bài
Tin Mừng ngắn, nhưng không dễ. Nó có hai phần rõ rệt, tự nhận là lời của Chúa
nói với môn đệ trong bữa tiệc ly sau khi Giuđa đã bỏ bàn ăn ra ngoài.
Chúng
ta còn nhớ hôm ấy Chúa tổ chức một bữa từ giã các môn đệ trước khi Người ra đi
chịu chết. Theo tác giả Gioan, trong bữa ăn biệt ly ấy, Chúa đã rửa chân cho
môn đệ; và báo cho họ biết một người trong bọn họ sẽ nộp Người. Lập tức họ xôn
xao bàn tán: ai là kẻ phản phúc ấy? Và người nào cũng hỏi Thầy: "Có phải
con không?" Giuđa Iscariốt cũng hỏi. Người trả lời: "Phải!"
Nhưng không môn đệ nào nghe thấy. Sau đó, Người bảo y: "định làm gì thì
làm đi". Thế là y đứng dậy, ra khỏi bàn ăn. Tác giả Gioan viết rằng: Bấy
giờ trời tối. Trời tối ở bên ngoài phòng ăn và ở trong lòng Giuđa đang lao mình
đi trong bóng tối... chứ ở trong phòng tiệc ánh đèn vẫn làm sáng các khuôn mặt.
Và chính lúc ấy, theo lời Gioan kể, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Bây giờ Con Người
đã được tôn vinh...
Ðọc
vội, chúng ta có thể nghĩ Người nói như vậy để diễn tả một sự nhẹ nhõm của tâm
hồn sau khi tên phản bội ra đi khuất mắt. Nhưng đọc lại chúng ta không thấy như
thế. Chúng ta cũng có thể nghĩ, với những lời kia Chúa Giêsu muốn nói với các
môn đệ về vinh quang thánh giá mà Người sắp được vì tên phản phúc đã đi làm
việc của y. Người có thể thấy trước vinh quang ấy đã đến rồi, vì thật ra đối
với Người mầu nhiệm thánh giá là một sự đã rồi và Người đã chấp nhận hoàn toàn
khi khai mạc "giờ" của Người đã đến với bàn tiệc hôm nay. Nhưng tại
sao sau đó Người lại bảo vinh quang ấy sẽ đến và Chúa Cha sẽ tôn vinh Người?
Khó khăn này đã khiến các học giả đưa ra một giả thiết mà chắc chúng ta phải
coi là thật.
Giả
thiết này nghĩ rằng những lời Chúa Giêsu vừa tuyên bố phải được nghe sau phục
sinh. Nói đúng hơn đây là những ý tưởng có sau phục sinh, nhưng đã được đem đặt
lên trước. Nó không ăn ý lắm với văn mạch. Và người ta phải kết luận, nó đã
được nhét vào sau. Người làm công việc này có thể biện minh rằng: đã nói đến
việc Giuđa đi nộp Chúa thì phải gợi ngay đến ý tưởng vinh quang để ở đâu có mầu
nhiệm tử nạn cũng có mầu nhiệm phục sinh. Chỉ có điều người ấy đã khiêm nhường
đến nỗi không dám tạo ra một câu văn mới, mà chỉ dám lấy lời tuyên xưng đức tin
của Hội Thánh, một câu văn phụng vụ ca tụng Chúa Kitô, đem đặt vào chỗ này.
Nói
vắn tắt hơn, những câu đầu bài Tin Mừng hôm nay không phải là những câu Chúa
nói trong buổi tiệc ly. Một người đã đem những lời đó vào chỗ này để nói lên
niềm tin vào Chúa phục sinh khi thấy Giuđa bỏ bàn ăn ra đi với ý định nộp
Người. Và chính vì nội dung phục sinh của những lời này mà phung vụ hôm nay
trích đọc cho chúng ta.
Ðức
tin của Hội Thánh tuyên xưng ở đây rằng việc Ðức Giêsu chịu nộp, chịu chết đã
tôn vinh Thiên Chúa, để thiên hạ thấy Chúa Cha yêu thương loài người đến nỗi đã
thí ban Con Một yêu quí của Người để cứu chuộc chúng ta; cũng như để thiên hạ
thấy quyền năng của Thiên Chúa sẽ phục sinh Ðức Giêsu Kitô.
Và
việc này Thiên Chúa đã làm rồi. Ðức Giêsu đã chết và sống lại. Thiên Chúa đã
được tôn vinh nơi mầu nhiệm tử nạn phục sinh của Ðức Kitô; đồng thời chính
Thiên Chúa cũng đã tôn vinh Ðức Giêsu Kitô trong chính mình Người khi chấp nhận
sự vâng phục của Ngài mà đưa Ngài lên trên mọi danh hiệu dù ở trên trời hay ở
dưới đất và trong gầm biển. Chính mầu nhiệm tử nạn phục sinh đã tôn vinh Thiên
Chúa cũng như đã tôn vinh Ðức Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Ðức
Giêsu Kitô và Ðức Giêsu Kitô đã được tôn vinh trong Thiên Chúa.
Ðó
là đức tin của Hội Thánh về mầu nhiệm Phục Sinh. Nhưng chưa hết, vì mới khởi
đầu. Vinh quang phục sinh sẽ chỉ tỏ hiện hoàn toàn khi Chúa Giêsu trở lại. Và vì
thế bài Tin Mừng hôm nay viết: Ngay đây Thiên Chúa sẽ tôn vinh Ngài. Chỉ bấy
giờ khi Ngài trở lại trong vinh quang, tất cả vinh quang mà Thiên Chúa ban cho
Ngài mới tỏ hiện hết vì bấy giờ sẽ có đầy đủ tạo vật được cứu chuộc để bày tỏ
ảnh hưởng mầu nhiệm Chúa Kitô tử nạn phục sinh bao quát, rộng rãi và sâu xa
chừng nào. Nhưng từ nay đến ngày ấy, lịch sử luôn có thể cảm nghiệm ngay đây
Thiên Chúa sẽ tôn vinh Ngài, vì Danh Ngài mỗi ngày được biết tới và được ca
tụng. Nhờ đâu và thế nào, thì chúng ta có thể cứ đọc tiếp bài Tin Mừng.
Những
lời này đúng là những Lời Chúa nói với bàn tiệc ly, nếu chúng ta căn cứ vào văn
mạch. Hôm ấy, Chúa đã rửa chân cho môn đệ. Người con lập phép Thánh Thể. Người
tâm sự với môn đệ về tình yêu thương của Người. Bầu khí thật thuận lợi để Người
ban "một điều răn mới" vì chúng ta đừng quên Người mới ký một giao
ước mới trong chén máu của Người. Giao ước cũ đã có nhiều giới răn. Tất cả đã
qua rồi. Bây giờ khởi sự chế độ của giao ước mới, với chỉ một điều răn mà thôi,
là "các ngươi hãy yêu mến nhau".
Làm
sao có thể gọi là điều răn mới được? Lề luật đã dạy và vẫn dạy như thế. Có thể
nói nhiều bậc thánh hiền trong các dân tộc đã chủ trương tứ hải giai huynh đệ.
Làm sao Chúa Giêsu có thể bảo luật anh em yêu thương nhau là điều răn mới và là
điều răn của Người.
Có
người giải nghĩa rằng: Ðiều răn này mới vì đối tượng của nó là mọi người, kể cả
kẻ thù. Khá Lắm! Vì thật sự đây là một nét mới và độc đáo. Tuy nhiên lối giải
thích ấy cũng chưa đáng tin hoàn toàn. Tự bản chất, nó chưa có khả năng thuyết
phục tức khắc. Ðã có người khuyên đọc tiếp Lời Chúa phán hôm ấy, khi Người ban
điều răn mới, để thấy tính cách mới mẻ được nêu ngay trong lời nói sau đây:
"Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau".
Chắc
chắn rồi, Thiên Chúa, và cụ thể là Ðức Giêsu có lối yêu đặc biệt, như không có
"Chúa" nào yêu như thế và không có ai đã sống ở trần gian này yêu như
Ðức Giêsu Kitô. Nhưng làm sao loài người chúng ta có thẻ bắt chước được những
kiểu cách ấy?
Cuối
cùng có lẽ chúng ta cứ đọc hết Lời Chúa dạy hôm nay; biết đâu chân lý lại sẽ
không sáng lên nơi những lời cuối cùng. Chúa bảo môn đệ: "Chính nơi đây
điều này mọi người sẽ biết các ngươi là môn đồ Ta, ấy là nếu các ngươi có lòng
yêu mến nhau".
Dường
như Chúa đã hứa ban cho tình yêu của môn đệ một dấu hiệu đặc biệt: ấy là khi họ
yêu mến nhau thì người ta biết họ là môn đệ của Người. Và nếu vậy, chúng ta có
thể nói như sau về điều răn mới của Chúa ban hôm nay. Người đang nói với môn đệ
trong bàn tiệc ly, hình ảnh của Nước trời, và Người bảo họ hãy yêu mến nhau.
Nhiều lúc khác, Người đã dạy người ta phải yêu thương mọi người, kể cả thù
địch.
Ðó
là lòng bác ái phổ cập. Ở đây có lẽ Người không nói đến tình thương phổ quát
đó. Người nói đến tình yêu mến giữa các môn đệ, giữa những môn đệ, tín hữu của
giao ước mới trong máu Người. Họ phải yêu mến nhau bằng một tình yêu mới, tình
yêu mà Người đã biểu lộ ra cho họ khi ở với họ. Họ đã thấy, họ đã kinh nghiệm,
họ vừa chứng kiến tình yêu ấy "đi đến cùng" là bỏ áo xuống, cầm thau
nước đi rửa chân cho họ, tức là bỏ mạng sống mình để họ được sạch và đồng bàn
Nước trời với chính Người. Người bảo họ phải yêu mến nhau như vậy, và như vậy
là mới; và như vậy thì người ta biết họ là môn đồ của Người. Thế nên Gioan tác
giả của bài Tin Mừng hôm nay sẽ lần viết trong thư của người để giải thích về
điều răn mới. Người nói: Nơi điều này ta biết được lòng mến: là Ðấng ấy đã thí
mạng mình vì ta, và ta, ta cũng phải thí mạng mình vì anh em (1Ga 3,16).
Lòng
mến này nhất định mới. Nó không dễ, nên đừng lạm dụng và "đừng yêu mến
bằng lời nói, bằng đầu lưỡi, nhưng là bằng việc làm thật sự" (3,18) mà
việc làm ở đây không dễ...
Tuy
nhiên không ai được ngã lòng. Chúa ra lệnh thì Người ban khả năng, Người đã ban
khả năng dồi dào khi tuôn đổ Thánh Thần. Từ ngày đó lòng mến của điều răn mới
bốc cháy mọi nơi. Hôm nay chúng ta có thể nhìn thấy nó trong con người các tông
đồ của bài sách Công vụ.
2. Thi Hành Lệnh
Phaolô
và Barnaba đi giảng tin mừng. Các ông trẩy đi từ Antiôkia là nơi Thánh Thần đã
dạy Hội Thánh phải để hai ông đi làm công việc của Chúa. Các ông đi hết thành
này đến thành khác, từ đảo này sang đảo kia; lao nhọc, khó khăn, lo lắng, thử
thách, xỉ nhục, tù đày, các ông đã chịu và chịu vui vẻ vì danh Chúa và vì yêu
mến các linh hồn. Thật sự các ông đã yêu dân ngoại như Chúa đã yêu các ông. Các
ông đã thi hành điều răn mới. Và người ta đã nhìn nhận rõ các ông là môn đồ của
Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã yêu mến môn đồ cho đến cùng nên đã phó nộp mình vì họ.
Không
thể bảo đời các tông đồ là sung sướng được. Thế mà vừa chân ướt chân ráo lên
khỏi thuyền bè tròng trành sóng gió, các ông đã để giờ khích lệ tâm hồn người
ta và khuyên nhủ họ kiên vững trong đức tin. Có thể nói, các ông đối với người
ta như Chúa Giêsu đối với các ông ở bàn tiệc ly; Chúa đã quên sự chết của mình
để khuyên nhủ môn đồ kiên vững. Các ông cũng đã quên mình và số phận "khổ
sở" của mình để khích lệ tâm hồn các môn đồ. "Vì chưng chúng ta phải
trải qua nhiều gian khổ mới vào được Nước Thiên Chúa". Các ông nói như vậy
không những theo giáo lý của Chúa đã dạy phải đi vào con đường hẹp của mầu
nhiệm thánh giá, mà còn theo kinh nghiệm bản thân và hiểu biết của mình. Rồi
đây sói sẽ xông vào đàn chiên.
Viễn
tượng ấy khiến các tông đồ đặt cho mỗi Hội Thánh một hàng niên trưởng và phó
giao họ cho Chúa, Ðấng họ đã tin. Chắc chắn các ngài cũng muốn rằng bậc niên
trưởng này sẽ cư xử với anh em như Chúa đã ăn ở với các môn đồ. Họ cũng chẳng
phải thi hành điều răn mới và cũng là điều răn duy nhất của Chúa là họ hãy yêu
mến lẫn nhau.
Phải
chăng chúng tôi đã không vô tình trình bày khiến người ta có thể nghĩ điều răn
mới của Chúa chỉ thi hành được trong đời sống tông đồ và nơi những người đứng
đầu trong mỗi Hội Thánh? Ít nhất hết thảy chúng ta đều thấy các chức vụ trong
Hội Thánh đều để thi hành bác ái, và mọi ơn gọi tông đồ đều lãnh trách nhiệm
chứng tỏ lòng yêu mến của Chúa Kitô. Nhưng hết mọi tín hữu không phải là tông
đồ sao? Các tông đồ nơi bàn tiệc ly đã là nền tảng của Hội Thánh mới sẽ được
xây dựng lên sau ngày Chúa sống lại.
Chúng
ta hết thảy đều là những viên đá sống đứng trên nền tảng các tông đồ. Các ngài
đã nghe và nhận điều răn mới cho tất cả chúng ta. Và mọi người chúng ta phải
thi hành điều răn mới đó. Không ai trong Hội Thánh được dửng dưng với phần rỗi
của anh em và bao lâu người ta chưa hy sinh gì cho phần rỗi ấy, người ta chưa
thi hành điều răn mới của Chúa và chưa chứng tỏ là môn đệ của Người.
Và
điều này bổ túc cho những điều chúng ta đã nói trong Chúa Nhật trước về ơn gọi
tông đồ. Và nếu tuần trước chúng ta đã thấy Chúa đặt Phêrô ở chức vụ chăn
chiên, thì hôm nay thấy thánh Phaolô đặt hàng niên trưởng ở trong mỗi Hội
Thánh, chúng ta phải suy nghĩ về phận sự của mỗi người phải hy sinh cho phần
rỗi của anh em để thi hành điều răn mới của Chúa. Ðược như vậy chúng ta mới hy
vọng được thấy như Gioan trong bài sách Khải huyền hôm nay.
3. Giêrusalem Mới
Gioan
thấy vũ trụ của thời cánh chung. Trời cũ, đất cũ đã qua. Ðặc biệt, biển, nơi ấp
ủ những sức mạnh độc dữ, không còn nữa. Thay vào cảnh cũ, đã có một trời mới và
một đất mới. Và một Giêrusalem mới đã tự trời xuống, chỉnh tề như một tân
nương. Ðó là dân mới của Thiên Chúa, và là Hội Thánh chúng ta. Tất cả đã sẵn
sàng chờ đón đức lang quân. Và Người đã đến. Người là Thiên Chúa ở cùng họ.
Người sẽ lau sạch nước mắt và khử trừ sự chết... Tất cả những điều cũ đều đã
qua; và Chúa phán: Này Ta làm mới mọi sự.
Chắc
chắn đây là những điều viết về Nước Trời sau này, nhưng lại căn cứ vào thực tại
đã có và đang có. Ðức tin cho chúng ta biết, từ ngày Ðức Giêsu được tôn vinh
trong mầu nhiệm chết và sống lại, cũ đã qua và mới đã đến. Giêrusalem cũ đã
nhường chỗ cho Giêrusalem mới là Hội Thánh. Và Chúa Giêsu đã hứa ở cùng Hội
Thánh hằng ngày cho đến tận thế, nên Người là Thiên Chúa ở cùng Hội Thánh và là
Ðức Lang Quân của Hội Thánh. Và Thiên Chúa cũng đang làm mới mọi sự trong Hội
Thánh, không phải ở bình diện nào sâu xa và rõ ràng hơn bình diện bác ái.
Thật
vậy, người ta có thể thấy Hội Thánh là thế này hay thế kia, tùy theo thời đại
và quan điểm của mỗi người. Nhưng luôn luôn và mãi mãi, cơ bản Hội Thánh là
cộng đoàn có lòng yêu mến lẫn nhau, không phải bất cứ tình yêu mến nào nhưng là
tình yêu mến làm cho mọi người thấy Hội Thánh là cộng đoàn môn đệ của Chúa Kitô
và thi hành điều răn mới của Người. Những khi nào lòng yêu mến đó càng nổi, Hội
Thánh càng là tân nương trang sức chờ đón đức lang quân...
Những
điều này thật đáng suy nghĩ và đem ra thực hành. Có thể nói không lúc nào dễ
thi hành hơn lúc này, khi cử hành thánh lễ. Ðây là khung cảnh bàn tiệc ly của
Chúa Giêsu ngày xưa, đây là Hội Thánh của các tông đồ, đây là Giêrusalem mới.
Chúa Giêsu sẽ tỏ lòng yêu mến môn đệ Người cho đến cùng trong mầu nhiệm ban
thịt và máu rửa sạch linh hồn chúng ta. Người trao ban giới răn mới của Người.
Người bảo chúng ta đây hãy yêu mến nhau như Người yêu mến. Chúng ta có nhìn vào
nhau để nhận thấy nghĩa vụ phải lo cho phần rỗi của nhau thì mới là bác ái với
nhau. Và một cái nhìn như vậy sẽ lôi theo bao nghĩa vụ, những nghĩa vụ có thể
làm được và phải làm để cho người ta thấy chúng ta có lòng yêu mến của Chúa.
Một Giêrusalem mới sẽ ở giữa chúng ta. Giêrusalem mới đó sẽ chiếu ánh sáng cứu
độ của Chúa để dần dần cũ qua đi, mới đã đến, trời cũ đất cũ không còn, và một
trời mới đất mới đã có đó để tôn vinh thêm cho Chúa Giêsu phục sinh, đợi ngày
Người sẽ được Thiên Chúa tôn vinh nữa trong vinh quang bất diệt.
(Trích dẫn từ tập sách
Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Chúa Nhật 5
Phục Sinh, Năm C
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hiện tại là kết quả của quá khứ và dọn đường cho tương
lai.
Giáo
Hội được thành hình không phải là chuyện tự nhiên dễ dàng; nhưng là do biết bao
nhiêu công khó huấn luyện các tông đồ của Chúa Giêsu, sự hăng say rao giảng
không biết mỏi mệt của các tông đồ và những người kế vị, và sự bảo vệ của biết
bao các nhà lãnh đạo gìn giữ các tín hữu khỏi mọi lạc thuyết và tấn công của
quỉ thần cũng như thế gian qua bao thời đại. Gian khổ không làm cho Giáo Hội
yếu đi; nhưng càng làm cho Giáo Hội kiên trì hơn và chứng tỏ niềm tin của Giáo
Hội dành cho Đức Kitô.
Các
bài đọc hôm nay nêu bật giá trị của đau khổ trong việc đào luyện cá nhân cũng
như Giáo Hội. Trong bài đọc I, Phaolô và Barnabas cho các tín hữu tân tòng biết
sự thật: Họ phải trải qua nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa, và chính
các ông cũng phải trải qua biết bao gian khổ để thành lập và nuôi dưỡng các
cộng đoàn tiên khởi. Trong bài đọc II, tác giả Sách Khải Huyền nuôi dưỡng niềm
hy vọng của các tín hữu để họ trung thành giữ vững đức tin bằng cách cho các
tín hữu thấy trước những gì sẽ được: họ sẽ được ở với Thiên Chúa suốt đời, họ
sẽ được chính Thiên Chúa cai trị, và họ sẽ không bao giờ phải chịu những đau
khổ nữa. Trong Phúc Âm theo Gioan, giờ của Chúa Giêsu chịu treo trên Thập Giá
là giờ Ngài được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được nơi Ngài. Trước giờ ra đi,
Chúa Giêsu trối lại cho các môn đệ một giới răn yêu thương cách vô vị lợi, cách
hy sinh tất cả, và trung thành yêu thương đến cùng. Người ta cứ nhìn vào cách
yêu thương của các môn đệ, họ sẽ nhận ra ai là môn đệ thực thụ của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên
Chúa."
1.1/
Phaolô và Barnabas hoạt động không ngừng để xây dựng Hội Thánh.
(1)
Giáo Hội cần nhiều thợ nhiệt thành rao giảng Tin Mừng như Phaolô và Barnabas: Chỉ trong hai câu
ngắn ngủi, nhưng đã nói lên công việc rao giảng của Phaolô và Barbabas trong 4
thành phố: Derbe, Lystra, Iconium và Antioch .
Nếu hai ông không mạnh dạn chịu đựng đau khổ bước ra ngoài lãnh thổ của
Do-thái, làm sao đạo của Đức Kitô tràn sang được Âu-châu?
(2)
Hai ông không giấu các tín hữu con đường vinh quang qua đau khổ: Các ông không lừa dối
các tín hữu bằng việc hứa hẹn theo Thiên Chúa sẽ không phải chịu đau khổ; trái
lại, các ông báo trước cho họ biết: "Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới
được vào Nước Thiên Chúa." Các ông muốn nói: Đức tin của họ sẽ bị thử
thách bằng đau khổ; nhưng qua đau khổ, họ mới có cơ hội chứng tỏ niềm tin vào
Đức Kitô và làm cho đức tin của họ ngày càng mạnh mẽ hơn.
1.2/
Sáng kiến của Phaolô và Barnabas trong việc xây dựng Hội Thánh.
(1)
Những kỳ mục trong Hội Thánh: Phaolô và Barnabas biết hai ông không thể ở cố định một
nơi để nâng đỡ và bảo vệ đức tin cho các tín hữu; nên “trong mỗi giáo đoàn, hai
ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai ông phó
thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin.” Các Kỳ-mục là những người lớn
tuổi, đã có kinh nghiệm nhiều, nên có thể đứng ra điều khiển các giáo đoàn địa
phương cách trực tiếp. Phần Phaolô và Barnabas, hai ông tiếp tục lên đường
thiết lập các giáo đoàn mới; nhưng hai ông sẽ trở lại để nâng đỡ và củng cố các
giáo đoàn cũ khi có dịp.
(2)
Tất cả là ân sủng của Thiên Chúa: Phaolô và Barnabas thú nhận việc hai ông hoàn
thành sứ vụ được các tông đồ trao phó là do ân sủng của Thiên Chúa; chứ không
phải do sức riêng của hai ông. Sau cuộc hành trình thứ nhất, hai ông vượt biển
về Antioch, nơi trước đây các ông đã được giao phó cho ân sủng của Thiên Chúa
để lên đường truyền giáo cho Dân Ngoại.
2/
Bài đọc II: Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ
nữa.
2.1/
Những gì là cũ sẽ biến mất, cái mới sẽ xuất hiện.
(1)
Quan niệm về “hình dạng lý tưởng” của Hy Lạp: Theo triết gia Plato, tất cả những gì
hiện hữu nơi trái đất, đều có “hình dạng lý tưởng” nơi thế giới không thấy
được. Vì thế, theo tác giả của Sách Khải Huyền trong một thị kiến, ông thấy:
“trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa.
Và tôi thấy Thành Thánh là Jerusalem
mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để
đón tân lang.” Người xưa rất sợ đi biển, vì họ không có địa bàn để định hướng
như chúng ta bây giờ. Khi phải đi tàu, họ thường lái song song với đất liền.
Ngoài ra, dân chúng khắp nơi đã biết sức mạnh của gió, bão, nước, những cơn
sóng thần đã tiêu diệt cả hàng trăm ngàn người. Theo thị kiến của tác giả Sách
Khải Huyền: “biển sẽ không còn nữa,”
(2)
Quan niệm của Do-thái về Jerusalem mới: Riêng về việc tái tạo Thành Jerusalem
mới, chúng ta thấy bàng bạc trong các Sách ngôn sứ như Isaiah 54:11-12, 60:10-20;
Haggai 2-9; Ezekiel 48:31-35; Tobit 13:16-18. Sách Khải Huyền cũng nhiều lần
nói về Jerusalem mới trong tương lai sẽ được xây dựng toàn bằng đá quí, Con
Chiên là ngọn đuốc soi thành, thành có 12 cửa, người muôn nước sẽ kéo đến để
nhìn xem Jerusalem.
2.2/
Hiệu quả của sự trung thành với Thiên Chúa: Mục đích của tác giả khi viết Sách Khải Huyền
là để củng cố đức tin của các tín hữu trong những cơn bách hại. Trình thuật hôm
nay nêu bật 3 phần thưởng các tín hữu sẽ được nếu họ trung thành với Thiên Chúa.
(1)
Thiên Chúa sẽ ở với họ: Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: "Đây là nhà tạm
Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ.” Trong hành trình của
con cái Israel suốt 40 năm trong sa mạc, Thiên Chúa đã ra lệnh cho ông Moses
căng một chiếc Lều Hội Ngộ, trong đó có để Hòm Bia Thiên Chúa. Mục đích là để
cho dân chúng biết Thiên Chúa luôn ở với họ. Những người chiến thắng cũng thế,
họ sẽ được ở với Thiên Chúa suốt đời.
(2)
Mối liên hệ mật thiết giữa Thiên Chúa và con người: “ Họ sẽ là dân của
Người, còn chính Người sẽ ở với họ và là Thiên Chúa của họ.” Như Thiên Chúa đã
hứa trong Sách Ngôn Sứ Jeremiah 31:31-34, Ngài sẽ ký kết với họ một giao ước
mới. Theo giao ước này, Thiên Chúa sẽ là Chúa của họ; còn họ sẽ là dân của
Ngài. Ngài sẽ bảo vệ họ tới muôn đời.
(3)
Đau khổ và nước mắt sẽ không còn nữa: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ
không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những
điều cũ đã biến mất." Những gì các tín hữu phải trải qua trên thế gian chỉ
tạm thời: bệnh tật phần xác, đau khổ phần hồn, chia ly cách biệt... Khi về với
Thiên Chúa, Ngài sẽ cất sạch những đau khổ bất toàn này, và họ sẽ không còn
phải chịu bất cứ một thứ đau khổ gì nữa. Điều này cũng đã được nói tới bởi ngôn
sứ Isaiah 25:5-8.
3/
Phúc Âm: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
3.1/
Giờ tôn vinh trên Thánh Giá: “Khi Judah
đi rồi, Đức Giêsu nói: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa
cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên
Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.”
(1)
Chúa Giêsu được tôn vinh:
+
Giờ Chúa Giêsu được giương cao trên Thập Giá là giờ Ngài được tôn vinh (Isa 52:13; Jn 12:23,
13: 1). Khi Ngài được giương cao trên Thập Giá, Ngài sẽ lôi kéo mọi người đến
với Ngài (Jn 12:32). Trên Thập Giá, Chúa Giêsu hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao
phó, và mang ơn cứu độ cho mọi người.
+
Khi Chúa Giêsu bị giương cao trên Thập Giá, Thiên Chúa siêu tôn Chúa Giêsu bằng
cách ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu (Phi 2:11).
(2)
Thiên Chúa được tôn vinh:
+
Nhờ sự vâng phục của Chúa Giêsu, Thiên Chúa được tôn vinh: Tất cả những gì Chúa
Cha đã phác họa trong Kế hoạch Cứu Độ được thành công, nhờ sự vâng lời của Chúa
Giêsu. Ngài vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên Thập Giá (Phi
2:7c).
+
Nhờ sự vâng phục của Chúa Giêsu, con người yêu thương Thiên Chúa; thay vì chỉ biết
kính phục và sợ hãi Ngài. Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu của Chúa Cha cho con
người: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của
Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Jn 3:16). Khi nhìn lên
Thập Giá, con người không chỉ cảm thấy tình yêu của Chúa Giêsu đã hy sinh chết
thay cho con người, mà còn cảm thấy tình yêu của Chúa Cha đã hy sinh Con Một
cho thế gian đóng đinh Ngài.
3.2/
Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ:
(1)
Cách vô vị lợi: Khi con người yêu thương, họ luôn trông tìm được gì nơi người họ
yêu; khó lòng có thể kiếm được một người yêu thương người khác cách vô vị lợi.
Khi Chúa Giêsu yêu thương các môn đệ, Ngài không trông mong được hưởng gì nơi
các ông, nhưng hoàn toàn cho đi.
(2)
Cách hiểu biết: Khi mới gặp hay chỉ ở với nhau vài lần, con người thường dễ che
đậy tật xấu và khuyết điểm của mình; nhưng khi đã ở với nhau lâu, mọi tật xấu
và khuyết điểm bắt đầu lộ ra. Chúa Giêsu đã biết rõ tính tốt cũng như tật xấu
của các môn đệ; tuy vậy, Ngài vẫn chấp nhận, hy sinh và yêu thương các ông.
(3)
Cách trung thành đến cùng: Con người dễ ngừng yêu thương khi đối tượng không còn
đáng yêu nữa; nhất là còn phản bội người đã yêu thương lo lắng cho mình. Chúa
Giêsu yêu thương các môn đệ đến cùng cho dẫu các ông đã phản bội Ngài. Chúa
luôn đi bước trước, Ngài tìm đến với các ông khi Ngài sống lại.
3.3/
Dấu để mọi người nhận ra một người là môn đệ Chúa Giêsu: Chúa Giêsu trăn trối
cho các môn đệ giới răn duy nhất: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh
em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh
em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có
lòng yêu thương nhau.”
Dấu
để mọi người nhận biết một người là môn đệ Chúa Giêsu là yêu thương như Chúa
Giêsu yêu thương. Điều này bao gồm tất cả những điều trên là yêu thương cách vô
vị lợi, yêu như người đó là, và trung thành yêu thương đến cùng cho dẫu bị phản
bội.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
-
Con đường hy sinh chấp nhận đau khổ là con đường Chúa Cha đã chọn, Chúa Giêsu
đã đi qua, và người tín hữu phải chấp nhận mới có thể làm môn đệ của Chúa
Giêsu.
-
Con đường dễ dãi, tuy nhiều người chọn để đi; nhưng chỉ dẫn tới đổ vỡ và diệt
vong.
-
Phần thưởng cho những người chọn đi con đường thánh giá: họ sẽ được ở với Thiên
Chúa mãi, không còn phải chịu hành hạ bởi đau khổ, và được sống muôn đời với
Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh
Minh Tiên OP
Hãy Nâng Tâm
Hồn Lên
28
THÁNG TƯ
Chúng Ta Là Đàn chiên
Do Ngài Dẫn Dắt
Vào thời
đại Thánh Kinh, người mục tử không chỉ là một người lãnh đạo mà còn là một
người bảo vệ cẩn mật và chuyên chăm. Anh ta quan tâm tới sự sống của đàn chiên.
Anh ta dẫn đàn chiên tới những đồng cỏ và suối nước. Anh ta bảo vệ đàn chiên
cho khỏi những kẻ rình rập và thú dữ. Anh ta lo phòng tránh mọi mối nguy hiểm
cho đàn chiên.
Người mục
tử là một vị cứu tinh. Chiên có thể tín nhiệm vào anh ta với một tấm lòng đơn
sơ – như chúng ta ngày nay tín thác vào Chúa Kitô vậy – bởi vì anh ta cung cấp
cho chiên cuộc sống an toàn và phong phú. Thật dễ nhận ra nơi người mục tử uy
quyền của Thiên Chúa, Đấng là Thủ Lĩnh Tối Cao. Ngài trao ban sự tốt lành và ân
sủng, Ngài quan tâm tới con người và trở thành sự đỡ nâng vững chắc của con
người. Vâng, chúng ta thuộc về Ngài. Ngài đã dựng nên chúng ta. Chúng ta là dân
Ngài. Chúng ta là đàn chiên do Ngài dẫn dắt. Đức Kitô đã gọi các môn đệ Người
là “của tôi”, vì “Cha tôi … đã ban chúng cho tôi” (Ga 10,29).
Mỗi tín hữu
đều đã được Chúa Cha trao cho Chúa Con bằng một cách thế đặc biệt. Chúa Con đã
trở thành con người để đảm nhận lấy mối ưu tư của Chúa Cha đối với con người:
mối ưu tư của người mục tử đối với đàn chiên. Mối quan tâm của một người mục tử
có thể so sánh với sự quan phòng từ phụ của Thiên Chúa như được trình bày trong
Thánh Kinh. Sự quan phòng này trở thành một thực tại sống động đối với chúng ta
xuyên qua Chúa Con – là Đức Kitô.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô
II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul
II
Lời Chúa
Trong Gia Đình
Ngày
28-4
Chúa
Nhật V Phục Sinh
Cv
14, 21b-27; Kh 21, 1-5a; Ga 13, 31-33a.34-35.
LỜI SUY NIỆM: “Thây
ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy
thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Điều
răn của Chúa Giêsu thật là một điều răn mới, bởi trong Cựu Ước, tình yêu bị
giới hạn bởi những chỉ thị phức tạp của Lề Luật. Trong Tân Ước Chúa Giêsu đã
nêu gương tình yêu thương khi sống với nhân loại, cũng như yêu kính vâng phục
Thiên Chúa. Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương
chúng ta, là yêu thương nhằm giải phóng tha nhân, giúp họ phát huy các tài năng
mà Thiên Chúa đã trao ban cho họ, yêu thương là biết tôn trọng nhận vị, nhân
phẩm, và quyền được sống của người anh em. Bởi mỗi con người là một mầu nhiệm;
trong họ. Có Thiên Chúa đang hiện diện. Tất cả là hình ảnh của Thiên Chúa và có
sự sống của Thiên Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
28/04 - Thánh PHÊRÔ CHANEL
Linh
Mục (1803 - 1841)
Phêrô
Chanel sinh ngày 12 tháng 7 năm 1803 tại Cuet. Hồi nhỏ, Phêrô chăn chiên quanh
vùng Belley. Một linh mục chú ý tới Ngài, lo dạy dỗ và đưa Ngài vào chủng viện
Brou. Ngày 15 tháng 7 năm 1827 Ngài được thụ phong linh mục. Trước hết Ngài
được bổ nhiệm làm phó xứ Ambere, sau đó làm cha sở Crozet. Năm 1831, Ngài nhập
Hội dòng Maria và đi truyền giáo ở Ocenia.
Thánh
nhân tới đảo Futuna với cha Maria Niziep ở tại hòn đảo hoang vẫn còn tập tục ăn
thịt người này, Ngài đã dốc toàn lực mở mang nước Chúa. Một tu sĩ phụ tá luôn
sát cánh với Nhà truyền giáo đã kể lại như sau:
"Làm
việc dưới sức nóng nung của trong ánh sáng mặt trời, Ngài trở về nhà ướt đẫm mồ
hôi, đói khát, nhọc mệt, nhưng vẫn vui tươi nhanh nhẹn, tâm hồn sảng khoái như
vừa trở về từ một nơi hạnh phúc. Đây không phải chỉ có một lần mà dường như
ngày nào cũng vậy".
"Người
không từ chối người dân Futuna điều gì cả. Đối với những ai bắt bớ Ngài, Ngài
luôn tha thứ và không khước từ họ, dù cho họ có dốt nát hủ lậu đi nữa. Ngài
luôn hiền dịu đối với mọi người".
Thật
lạ lùng gì khi dân chúng gọi Ngài là "Người phúc hậu" chính Ngài đã
thường nói với các bạn : - Trong cuộc truyền giáo khó khăn thế này chúng ta
phải thánh thiện mới được.
Rao
giảng Chúa Kitô và Phúc âm, Ngài đã chỉ nhận được những kết quả nhỏ nhoi. Dầu
vậy, Ngài cũng xác quyết rằng: việc truyền giáo là việc của loài người và đồng
thời cũng là của Thiên Chúa nữa. Gương và lời Chúa đã nói: "Người lo gieo
và người khác sẽ gặt". Nên thánh nhân luôn nỗ lực rao giảng giáo lý Kitô
giáo và chống lại việc sùng bái của các thần dữ. Nhiệt tình của Ngài đã gây nên
nhiều ghen ghét đe dọa tới chính mạng sống Ngài.
Hôm
trước ngày qua đời thánh nhân còn nói: - Kitô giáo được gieo trồng trên đảo sẽ
không bị tiêu diệt với cái chết của tôi, vì đây không phải là việc của loài
người mà là của Thiên Chúa.
Ngày
28 tháng 4 năm 1241 thánh Phêrô bị sát hại. Nhưng ít lâu sau toàn thể dân đảo
Futuna đã trở lại đạo công giáo, đức tin từ Futuna lấn sang các đảo lân cận ở
Oceania và thánh Phêrô được tôn kính như một vị tử đạo tiên khởi.
(daminhvn.net)
28 Tháng Tư
Thắp Lên Ngọn Ðèn Cũ
Trong một cuộc phỏng
vấn, Mẹ Têrêxa thành Calcutta
đã thuật lại một sự kiện như sau: Ở Úc Châu có một người thổ dân Aborigines kia
sống trong một hoàn cảnh thật thảm thương. Ông cũng đã khá cao niên rồi, sống
trong một túp lều xiêu vẹo. Khởi đầu câu chuyện tôi nói với ông:
- Ðể tôi dọn dẹp nhà
và sửa soạn giường ngủ cho ông. Ông ta trả lời một cách hững hờ:
- Tôi đã quen sống như
vậy rồi.
- Nhưng ông cũng cảm
thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp. Sau cùng ông ta bằng lòng để
tôi dọn dẹp nhà cửa lại cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp
nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:
- Có bao giờ ông thắp
đèn này chưa? Ông ta trả lời một cách cộc lốc:
- Nhưng thắp đèn cho
ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu. Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề
trông thấy một người nào cả. Tôi hỏi ông:
- Nếu như các nữ tu
đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không?
- Dĩ nhiên rồi.
Từ ngày đó các nữ tu
quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Từ đó ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn
dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi chết ông nhờ
các nữ tu ghé thăm nhắn tin cho tôi:
- Xin nhắn với Mẹ
Têrêxa, bạn tôi rằng, ngọn đèn mà Mẹ đã thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu
sáng. Ðó chỉ là một việc nhỏ mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một
tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.
Chúng
ta đều cảm nghiệm được niềm vui sướng vì được yêu thương, được chính Chúa
thương yêu. Và chúng ta cũng hiểu được giới răn của Chúa: "Hãy thương yêu
nhau, như Thầy yêu thương các con".
(Lẽ Sống)
28-4
Thánh Phêrô Chanel
(1803 - 1841)
B
|
ất cứ ai từng làm việc trong cô độc, và cần phải thích ứng tối đa
và rất ít cơ hội thành công, đều tìm thấy một tinh thần tương tự nơi Thánh
Phêrô Chanel.
Thánh Phêrô Chanel sinh ở Clet trong giáo phận Belley, nước Pháp.
Khi là học sinh tiểu học, ngài đã được thầy giáo chú ý vì sự thông minh và đạo
đức. Khi gia nhập đại chủng viện, ngài được sự thương mến và quý trọng của các
giáo sư cũng như đồng bạn. Khi là linh mục trẻ, ngài làm hồi sinh một giáo xứ
trong khu "tồi tệ" của thành phố chỉ sau ba năm hoạt động. Tuy nhiên ngài
vẫn muốn trở thành nhà truyền giáo, do đó lúc 28 tuổi ngài gia nhập Dòng Ðức
Mẹ, là tu hội chú trọng đến công việc truyền giáo ở trong và ngoài nước. Nhưng,
trái với điều mong ước, ngài lại được chỉ định công việc dạy học ở đại chủng
viện Belley trong vòng năm năm kế đó, và ngài thi hành nhiệm vụ ấy với tất cả
nhiệt thành.
Vào năm 1836, nhà dòng được giao cho vùng New Hebrides ở Thái Bình
Dương để truyền giáo, và Cha Phêrô thật vui sướng được bổ nhiệm là bề trên của
nhóm truyền giáo, tuy nhỏ nhưng hăng say rao giảng Ðức Tin cho dân cư trên đảo.
Sau mười tháng lênh đênh trên biển, họ đã cập bến và tách ra làm
hai nhóm, và nhóm của Cha Phêrô thì đến Ðảo Futuna với hai người phụ tá, gồm
một thầy dòng và một giáo dân người Anh. Khi ấy dân cư trên đảo còn trong tình
trạng bán khai mà lệnh cấm ăn thịt người chỉ vừa mới được ban hành. Lúc đầu các
vị truyền giáo được người bản xứ và tù trưởng Niuliki tiếp đón niềm nở. Tuy
nhiên, khi các ngài càng ngày càng sành sõi tiếng địa phương và càng được dân
chúng tin tưởng thì ông tù trưởng cảm thấy ghen tức và lo sợ; ông thấy rằng
việc chấp nhận đức tin Công Giáo sẽ đưa đến sự bãi bỏ một số đặc quyền mà ông
đang được hưởng, với tư cách của một thượng tế và vừa là người cầm quyền. Sau
cùng, khi chính con trai ông bày tỏ lòng ước ao muốn được rửa tội, sự căm thù
của ông bùng nổ và ông sai các chiến sĩ của ông đi bắt vị trưởng nhóm truyền
giáo. Do đó, ngày 28 tháng Tư 1841, Cha Phêrô bị bắt và bị đánh đập cho đến
chết bởi những người mà ngài muốn cứu vớt linh hồn họ.
Chỉ trong vòng hai năm sau cái chết của ngài, mọi người trên đảo
đều theo đạo Công Giáo và vẫn trung thành với đức tin ấy cho đến ngày nay. Cha
Phêrô Chanel là vị tử đạo đầu tiên ở Ðại Dương Châu và là quan thầy của châu
này.
Lời Bàn
Chịu đau khổ vì Ðức Kitô có nghĩa sự đau khổ vì muốn trở nên giống
như Ðức Kitô. Thường thường chúng ta bị chống đối là vì hậu quả của sự ích kỷ
và thiếu khôn ngoan. Chúng ta không phải là người tử đạo khi bị "bạc
đãi" bởi những người đã đối xử với chúng ta y như chúng ta đối xử với họ.
Một vị tử đạo Kitô Giáo là người, giống như Ðức Kitô, chỉ đơn giản làm chứng
cho tình yêu Thiên Chúa, và sống thật với chính mình.
Lời Trích
"Không ai là vị tử đạo chỉ vì một quyết định, không ai là
vị tử đạo vì một ý kiến; chính đức tin tạo nên vị tử đạo" (Ðức Hồng Y Newman, Bài
Diễn Văn cho Các Giáo Ðoàn Hỗn Hợp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét