Trang

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013

28-04-2013 : (phần I) CHÚA NHẬT V MÙA PHỤC SINH năm C


Ngày 28/04/2013
Chúa Nhật Tuần V Mùa Phục Sinh Năm C
(Phần I)


BÀI ĐỌC I: Cv 14, 20b-26 (Hl 21-27)
"Các ngài thuật lại những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài".

Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba trở lại Lystra, Icôniô và Antiôkia, củng cố tinh thần các môn đồ, khuyên bảo họ giữ vững đức tin mà rằng: "Chúng ta phải trải qua nhiều nỗi gian truân mới được vào nước Thiên Chúa". Nơi mỗi hội thánh, các ngài đặt những vị niên trưởng, rồi ăn chay cầu nguyện, trao phó họ cho Chúa là Đấng họ tin theo.
Sau đó, các ngài sang Pisiđia, đi đến Pamphylia. Sau khi rao giảng lời Chúa tại Perghê, các ngài xuống Attilia, rồi từ đó xuống tàu trở về Antiôkia, nơi mà trước đây các ngài đã được trao phó cho ơn Chúa để làm công việc các ngài mới hoàn thành. Khi đến nơi, các ngài tụ họp giáo đoàn, thuật cho họ nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài và đã mở lòng cho nhiều dân ngoại nhận biết đức tin.  Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 144, 8-9. 10-11. 12-13ab
Đáp: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa đến muôn đời  (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.

1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Đáp.
2) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. - Đáp.
3) Để con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời, chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ. - Đáp.

BÀI ĐỌC II: Kh 21, 1-5a
"Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ".

Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan đã thấy trời mới và đất mới. Vì trời cũ và đất cũ đã qua đi, và biển cũng không còn nữa. Và tôi là Gioan đã thấy thành thánh Giêrusalem mới, tự trời xuống, từ nơi Thiên Chúa: tề chỉnh như tân nương được trang điểm cho tân lang của mình. Và tôi nghe có tiếng lớn tự ngai vàng phán ra: "Đây là Thiên Chúa ở với loài người, và chính Thiên Chúa sẽ ở với họ. Người sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ. Sự chết chóc sẽ không còn nữa, cũng không còn than khóc, không còn kêu la, không còn đau khổ: bởi vì các việc cũ đã qua đi". Và Đấng ngự trên ngai vàng đã phán rằng: "Này đây, Ta đổi mới mọi sự".  Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 13, 34

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con". - Alleluia.

PHÚC ÂM: Ga 13, 31-33a. 34-35
"Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển.
"Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau".  Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Một Lệnh Mới: "các con hãy yêu thương nhau"
Khung cảnh tiệc ly của bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta có cảm tưởng phụng vụ muốn chuẩn bị lễ Chúa lên trời sắp tới. Và bài sách Công vụ được chọn để ăn ý với bài Tin Mừng cũng nói về việc các tông đồ từ giã các giáo đoàn. Nhưng trong Kitô giáo, tin tưởng và bình an tràn ngập cả những trường hợp như thế. Những cuộc ra đi kể trong các bài Kinh Thánh kia còn hứa hẹn và bảo đảm một sự sống mới trong tương lai mà bài sách Khải Huyền hôm nay đã mở ra cho chúng ta thấy. Nếu được phép trình bày lại một cách đơn giản, giáo huấn của Lời Chúa trong thánh lễ này, chúng ta có thể nói:
- Khi ra đi, Chúa đã để lại một lệnh mới.
- Các tông đồ đã thi hành.
- Một viễn tưởng về tương lai đang mở ra trước mắt mọi người.
Tức là chúng ta sẽ lần lượt suy niệm bài Tin Mừng rồi bài sách Công vụ và sau cùng đến bài Khải Huyền.

1. Một Lệnh Mới
Bài Tin Mừng ngắn, nhưng không dễ. Nó có hai phần rõ rệt, tự nhận là lời của Chúa nói với môn đệ trong bữa tiệc ly sau khi Giuđa đã bỏ bàn ăn ra ngoài.
Chúng ta còn nhớ hôm ấy Chúa tổ chức một bữa từ giã các môn đệ trước khi Người ra đi chịu chết. Theo tác giả Gioan, trong bữa ăn biệt ly ấy, Chúa đã rửa chân cho môn đệ; và báo cho họ biết một người trong bọn họ sẽ nộp Người. Lập tức họ xôn xao bàn tán: ai là kẻ phản phúc ấy? Và người nào cũng hỏi Thầy: "Có phải con không?" Giuđa Iscariốt cũng hỏi. Người trả lời: "Phải!" Nhưng không môn đệ nào nghe thấy. Sau đó, Người bảo y: "định làm gì thì làm đi". Thế là y đứng dậy, ra khỏi bàn ăn. Tác giả Gioan viết rằng: Bấy giờ trời tối. Trời tối ở bên ngoài phòng ăn và ở trong lòng Giuđa đang lao mình đi trong bóng tối... chứ ở trong phòng tiệc ánh đèn vẫn làm sáng các khuôn mặt. Và chính lúc ấy, theo lời Gioan kể, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Bây giờ Con Người đã được tôn vinh...
Ðọc vội, chúng ta có thể nghĩ Người nói như vậy để diễn tả một sự nhẹ nhõm của tâm hồn sau khi tên phản bội ra đi khuất mắt. Nhưng đọc lại chúng ta không thấy như thế. Chúng ta cũng có thể nghĩ, với những lời kia Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ về vinh quang thánh giá mà Người sắp được vì tên phản phúc đã đi làm việc của y. Người có thể thấy trước vinh quang ấy đã đến rồi, vì thật ra đối với Người mầu nhiệm thánh giá là một sự đã rồi và Người đã chấp nhận hoàn toàn khi khai mạc "giờ" của Người đã đến với bàn tiệc hôm nay. Nhưng tại sao sau đó Người lại bảo vinh quang ấy sẽ đến và Chúa Cha sẽ tôn vinh Người? Khó khăn này đã khiến các học giả đưa ra một giả thiết mà chắc chúng ta phải coi là thật.
Giả thiết này nghĩ rằng những lời Chúa Giêsu vừa tuyên bố phải được nghe sau phục sinh. Nói đúng hơn đây là những ý tưởng có sau phục sinh, nhưng đã được đem đặt lên trước. Nó không ăn ý lắm với văn mạch. Và người ta phải kết luận, nó đã được nhét vào sau. Người làm công việc này có thể biện minh rằng: đã nói đến việc Giuđa đi nộp Chúa thì phải gợi ngay đến ý tưởng vinh quang để ở đâu có mầu nhiệm tử nạn cũng có mầu nhiệm phục sinh. Chỉ có điều người ấy đã khiêm nhường đến nỗi không dám tạo ra một câu văn mới, mà chỉ dám lấy lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh, một câu văn phụng vụ ca tụng Chúa Kitô, đem đặt vào chỗ này.
Nói vắn tắt hơn, những câu đầu bài Tin Mừng hôm nay không phải là những câu Chúa nói trong buổi tiệc ly. Một người đã đem những lời đó vào chỗ này để nói lên niềm tin vào Chúa phục sinh khi thấy Giuđa bỏ bàn ăn ra đi với ý định nộp Người. Và chính vì nội dung phục sinh của những lời này mà phung vụ hôm nay trích đọc cho chúng ta.
Ðức tin của Hội Thánh tuyên xưng ở đây rằng việc Ðức Giêsu chịu nộp, chịu chết đã tôn vinh Thiên Chúa, để thiên hạ thấy Chúa Cha yêu thương loài người đến nỗi đã thí ban Con Một yêu quí của Người để cứu chuộc chúng ta; cũng như để thiên hạ thấy quyền năng của Thiên Chúa sẽ phục sinh Ðức Giêsu Kitô.
Và việc này Thiên Chúa đã làm rồi. Ðức Giêsu đã chết và sống lại. Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi mầu nhiệm tử nạn phục sinh của Ðức Kitô; đồng thời chính Thiên Chúa cũng đã tôn vinh Ðức Giêsu Kitô trong chính mình Người khi chấp nhận sự vâng phục của Ngài mà đưa Ngài lên trên mọi danh hiệu dù ở trên trời hay ở dưới đất và trong gầm biển. Chính mầu nhiệm tử nạn phục sinh đã tôn vinh Thiên Chúa cũng như đã tôn vinh Ðức Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Ðức Giêsu Kitô và Ðức Giêsu Kitô đã được tôn vinh trong Thiên Chúa.
Ðó là đức tin của Hội Thánh về mầu nhiệm Phục Sinh. Nhưng chưa hết, vì mới khởi đầu. Vinh quang phục sinh sẽ chỉ tỏ hiện hoàn toàn khi Chúa Giêsu trở lại. Và vì thế bài Tin Mừng hôm nay viết: Ngay đây Thiên Chúa sẽ tôn vinh Ngài. Chỉ bấy giờ khi Ngài trở lại trong vinh quang, tất cả vinh quang mà Thiên Chúa ban cho Ngài mới tỏ hiện hết vì bấy giờ sẽ có đầy đủ tạo vật được cứu chuộc để bày tỏ ảnh hưởng mầu nhiệm Chúa Kitô tử nạn phục sinh bao quát, rộng rãi và sâu xa chừng nào. Nhưng từ nay đến ngày ấy, lịch sử luôn có thể cảm nghiệm ngay đây Thiên Chúa sẽ tôn vinh Ngài, vì Danh Ngài mỗi ngày được biết tới và được ca tụng. Nhờ đâu và thế nào, thì chúng ta có thể cứ đọc tiếp bài Tin Mừng.
Những lời này đúng là những Lời Chúa nói với bàn tiệc ly, nếu chúng ta căn cứ vào văn mạch. Hôm ấy, Chúa đã rửa chân cho môn đệ. Người con lập phép Thánh Thể. Người tâm sự với môn đệ về tình yêu thương của Người. Bầu khí thật thuận lợi để Người ban "một điều răn mới" vì chúng ta đừng quên Người mới ký một giao ước mới trong chén máu của Người. Giao ước cũ đã có nhiều giới răn. Tất cả đã qua rồi. Bây giờ khởi sự chế độ của giao ước mới, với chỉ một điều răn mà thôi, là "các ngươi hãy yêu mến nhau".
Làm sao có thể gọi là điều răn mới được? Lề luật đã dạy và vẫn dạy như thế. Có thể nói nhiều bậc thánh hiền trong các dân tộc đã chủ trương tứ hải giai huynh đệ. Làm sao Chúa Giêsu có thể bảo luật anh em yêu thương nhau là điều răn mới và là điều răn của Người.
Có người giải nghĩa rằng: Ðiều răn này mới vì đối tượng của nó là mọi người, kể cả kẻ thù. Khá Lắm! Vì thật sự đây là một nét mới và độc đáo. Tuy nhiên lối giải thích ấy cũng chưa đáng tin hoàn toàn. Tự bản chất, nó chưa có khả năng thuyết phục tức khắc. Ðã có người khuyên đọc tiếp Lời Chúa phán hôm ấy, khi Người ban điều răn mới, để thấy tính cách mới mẻ được nêu ngay trong lời nói sau đây: "Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau".
Chắc chắn rồi, Thiên Chúa, và cụ thể là Ðức Giêsu có lối yêu đặc biệt, như không có "Chúa" nào yêu như thế và không có ai đã sống ở trần gian này yêu như Ðức Giêsu Kitô. Nhưng làm sao loài người chúng ta có thẻ bắt chước được những kiểu cách ấy?
Cuối cùng có lẽ chúng ta cứ đọc hết Lời Chúa dạy hôm nay; biết đâu chân lý lại sẽ không sáng lên nơi những lời cuối cùng. Chúa bảo môn đệ: "Chính nơi đây điều này mọi người sẽ biết các ngươi là môn đồ Ta, ấy là nếu các ngươi có lòng yêu mến nhau".
Dường như Chúa đã hứa ban cho tình yêu của môn đệ một dấu hiệu đặc biệt: ấy là khi họ yêu mến nhau thì người ta biết họ là môn đệ của Người. Và nếu vậy, chúng ta có thể nói như sau về điều răn mới của Chúa ban hôm nay. Người đang nói với môn đệ trong bàn tiệc ly, hình ảnh của Nước trời, và Người bảo họ hãy yêu mến nhau. Nhiều lúc khác, Người đã dạy người ta phải yêu thương mọi người, kể cả thù địch.
Ðó là lòng bác ái phổ cập. Ở đây có lẽ Người không nói đến tình thương phổ quát đó. Người nói đến tình yêu mến giữa các môn đệ, giữa những môn đệ, tín hữu của giao ước mới trong máu Người. Họ phải yêu mến nhau bằng một tình yêu mới, tình yêu mà Người đã biểu lộ ra cho họ khi ở với họ. Họ đã thấy, họ đã kinh nghiệm, họ vừa chứng kiến tình yêu ấy "đi đến cùng" là bỏ áo xuống, cầm thau nước đi rửa chân cho họ, tức là bỏ mạng sống mình để họ được sạch và đồng bàn Nước trời với chính Người. Người bảo họ phải yêu mến nhau như vậy, và như vậy là mới; và như vậy thì người ta biết họ là môn đồ của Người. Thế nên Gioan tác giả của bài Tin Mừng hôm nay sẽ lần viết trong thư của người để giải thích về điều răn mới. Người nói: Nơi điều này ta biết được lòng mến: là Ðấng ấy đã thí mạng mình vì ta, và ta, ta cũng phải thí mạng mình vì anh em (1Ga 3,16).
Lòng mến này nhất định mới. Nó không dễ, nên đừng lạm dụng và "đừng yêu mến bằng lời nói, bằng đầu lưỡi, nhưng là bằng việc làm thật sự" (3,18) mà việc làm ở đây không dễ...
Tuy nhiên không ai được ngã lòng. Chúa ra lệnh thì Người ban khả năng, Người đã ban khả năng dồi dào khi tuôn đổ Thánh Thần. Từ ngày đó lòng mến của điều răn mới bốc cháy mọi nơi. Hôm nay chúng ta có thể nhìn thấy nó trong con người các tông đồ của bài sách Công vụ.

2. Thi Hành Lệnh
Phaolô và Barnaba đi giảng tin mừng. Các ông trẩy đi từ Antiôkia là nơi Thánh Thần đã dạy Hội Thánh phải để hai ông đi làm công việc của Chúa. Các ông đi hết thành này đến thành khác, từ đảo này sang đảo kia; lao nhọc, khó khăn, lo lắng, thử thách, xỉ nhục, tù đày, các ông đã chịu và chịu vui vẻ vì danh Chúa và vì yêu mến các linh hồn. Thật sự các ông đã yêu dân ngoại như Chúa đã yêu các ông. Các ông đã thi hành điều răn mới. Và người ta đã nhìn nhận rõ các ông là môn đồ của Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã yêu mến môn đồ cho đến cùng nên đã phó nộp mình vì họ.
Không thể bảo đời các tông đồ là sung sướng được. Thế mà vừa chân ướt chân ráo lên khỏi thuyền bè tròng trành sóng gió, các ông đã để giờ khích lệ tâm hồn người ta và khuyên nhủ họ kiên vững trong đức tin. Có thể nói, các ông đối với người ta như Chúa Giêsu đối với các ông ở bàn tiệc ly; Chúa đã quên sự chết của mình để khuyên nhủ môn đồ kiên vững. Các ông cũng đã quên mình và số phận "khổ sở" của mình để khích lệ tâm hồn các môn đồ. "Vì chưng chúng ta phải trải qua nhiều gian khổ mới vào được Nước Thiên Chúa". Các ông nói như vậy không những theo giáo lý của Chúa đã dạy phải đi vào con đường hẹp của mầu nhiệm thánh giá, mà còn theo kinh nghiệm bản thân và hiểu biết của mình. Rồi đây sói sẽ xông vào đàn chiên.
Viễn tượng ấy khiến các tông đồ đặt cho mỗi Hội Thánh một hàng niên trưởng và phó giao họ cho Chúa, Ðấng họ đã tin. Chắc chắn các ngài cũng muốn rằng bậc niên trưởng này sẽ cư xử với anh em như Chúa đã ăn ở với các môn đồ. Họ cũng chẳng phải thi hành điều răn mới và cũng là điều răn duy nhất của Chúa là họ hãy yêu mến lẫn nhau.
Phải chăng chúng tôi đã không vô tình trình bày khiến người ta có thể nghĩ điều răn mới của Chúa chỉ thi hành được trong đời sống tông đồ và nơi những người đứng đầu trong mỗi Hội Thánh? Ít nhất hết thảy chúng ta đều thấy các chức vụ trong Hội Thánh đều để thi hành bác ái, và mọi ơn gọi tông đồ đều lãnh trách nhiệm chứng tỏ lòng yêu mến của Chúa Kitô. Nhưng hết mọi tín hữu không phải là tông đồ sao? Các tông đồ nơi bàn tiệc ly đã là nền tảng của Hội Thánh mới sẽ được xây dựng lên sau ngày Chúa sống lại.
Chúng ta hết thảy đều là những viên đá sống đứng trên nền tảng các tông đồ. Các ngài đã nghe và nhận điều răn mới cho tất cả chúng ta. Và mọi người chúng ta phải thi hành điều răn mới đó. Không ai trong Hội Thánh được dửng dưng với phần rỗi của anh em và bao lâu người ta chưa hy sinh gì cho phần rỗi ấy, người ta chưa thi hành điều răn mới của Chúa và chưa chứng tỏ là môn đệ của Người.
Và điều này bổ túc cho những điều chúng ta đã nói trong Chúa Nhật trước về ơn gọi tông đồ. Và nếu tuần trước chúng ta đã thấy Chúa đặt Phêrô ở chức vụ chăn chiên, thì hôm nay thấy thánh Phaolô đặt hàng niên trưởng ở trong mỗi Hội Thánh, chúng ta phải suy nghĩ về phận sự của mỗi người phải hy sinh cho phần rỗi của anh em để thi hành điều răn mới của Chúa. Ðược như vậy chúng ta mới hy vọng được thấy như Gioan trong bài sách Khải huyền hôm nay.

3. Giêrusalem Mới
Gioan thấy vũ trụ của thời cánh chung. Trời cũ, đất cũ đã qua. Ðặc biệt, biển, nơi ấp ủ những sức mạnh độc dữ, không còn nữa. Thay vào cảnh cũ, đã có một trời mới và một đất mới. Và một Giêrusalem mới đã tự trời xuống, chỉnh tề như một tân nương. Ðó là dân mới của Thiên Chúa, và là Hội Thánh chúng ta. Tất cả đã sẵn sàng chờ đón đức lang quân. Và Người đã đến. Người là Thiên Chúa ở cùng họ. Người sẽ lau sạch nước mắt và khử trừ sự chết... Tất cả những điều cũ đều đã qua; và Chúa phán: Này Ta làm mới mọi sự.
Chắc chắn đây là những điều viết về Nước Trời sau này, nhưng lại căn cứ vào thực tại đã có và đang có. Ðức tin cho chúng ta biết, từ ngày Ðức Giêsu được tôn vinh trong mầu nhiệm chết và sống lại, cũ đã qua và mới đã đến. Giêrusalem cũ đã nhường chỗ cho Giêrusalem mới là Hội Thánh. Và Chúa Giêsu đã hứa ở cùng Hội Thánh hằng ngày cho đến tận thế, nên Người là Thiên Chúa ở cùng Hội Thánh và là Ðức Lang Quân của Hội Thánh. Và Thiên Chúa cũng đang làm mới mọi sự trong Hội Thánh, không phải ở bình diện nào sâu xa và rõ ràng hơn bình diện bác ái.
Thật vậy, người ta có thể thấy Hội Thánh là thế này hay thế kia, tùy theo thời đại và quan điểm của mỗi người. Nhưng luôn luôn và mãi mãi, cơ bản Hội Thánh là cộng đoàn có lòng yêu mến lẫn nhau, không phải bất cứ tình yêu mến nào nhưng là tình yêu mến làm cho mọi người thấy Hội Thánh là cộng đoàn môn đệ của Chúa Kitô và thi hành điều răn mới của Người. Những khi nào lòng yêu mến đó càng nổi, Hội Thánh càng là tân nương trang sức chờ đón đức lang quân...
Những điều này thật đáng suy nghĩ và đem ra thực hành. Có thể nói không lúc nào dễ thi hành hơn lúc này, khi cử hành thánh lễ. Ðây là khung cảnh bàn tiệc ly của Chúa Giêsu ngày xưa, đây là Hội Thánh của các tông đồ, đây là Giêrusalem mới. Chúa Giêsu sẽ tỏ lòng yêu mến môn đệ Người cho đến cùng trong mầu nhiệm ban thịt và máu rửa sạch linh hồn chúng ta. Người trao ban giới răn mới của Người. Người bảo chúng ta đây hãy yêu mến nhau như Người yêu mến. Chúng ta có nhìn vào nhau để nhận thấy nghĩa vụ phải lo cho phần rỗi của nhau thì mới là bác ái với nhau. Và một cái nhìn như vậy sẽ lôi theo bao nghĩa vụ, những nghĩa vụ có thể làm được và phải làm để cho người ta thấy chúng ta có lòng yêu mến của Chúa. Một Giêrusalem mới sẽ ở giữa chúng ta. Giêrusalem mới đó sẽ chiếu ánh sáng cứu độ của Chúa để dần dần cũ qua đi, mới đã đến, trời cũ đất cũ không còn, và một trời mới đất mới đã có đó để tôn vinh thêm cho Chúa Giêsu phục sinh, đợi ngày Người sẽ được Thiên Chúa tôn vinh nữa trong vinh quang bất diệt.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 5 Phục Sinh, Năm C

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hiện tại là kết quả của quá khứ và dọn đường cho tương lai.

Giáo Hội được thành hình không phải là chuyện tự nhiên dễ dàng; nhưng là do biết bao nhiêu công khó huấn luyện các tông đồ của Chúa Giêsu, sự hăng say rao giảng không biết mỏi mệt của các tông đồ và những người kế vị, và sự bảo vệ của biết bao các nhà lãnh đạo gìn giữ các tín hữu khỏi mọi lạc thuyết và tấn công của quỉ thần cũng như thế gian qua bao thời đại. Gian khổ không làm cho Giáo Hội yếu đi; nhưng càng làm cho Giáo Hội kiên trì hơn và chứng tỏ niềm tin của Giáo Hội dành cho Đức Kitô.

Các bài đọc hôm nay nêu bật giá trị của đau khổ trong việc đào luyện cá nhân cũng như Giáo Hội. Trong bài đọc I, Phaolô và Barnabas cho các tín hữu tân tòng biết sự thật: Họ phải trải qua nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa, và chính các ông cũng phải trải qua biết bao gian khổ để thành lập và nuôi dưỡng các cộng đoàn tiên khởi. Trong bài đọc II, tác giả Sách Khải Huyền nuôi dưỡng niềm hy vọng của các tín hữu để họ trung thành giữ vững đức tin bằng cách cho các tín hữu thấy trước những gì sẽ được: họ sẽ được ở với Thiên Chúa suốt đời, họ sẽ được chính Thiên Chúa cai trị, và họ sẽ không bao giờ phải chịu những đau khổ nữa. Trong Phúc Âm theo Gioan, giờ của Chúa Giêsu chịu treo trên Thập Giá là giờ Ngài được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được nơi Ngài. Trước giờ ra đi, Chúa Giêsu trối lại cho các môn đệ một giới răn yêu thương cách vô vị lợi, cách hy sinh tất cả, và trung thành yêu thương đến cùng. Người ta cứ nhìn vào cách yêu thương của các môn đệ, họ sẽ nhận ra ai là môn đệ thực thụ của Ngài.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa."

1.1/ Phaolô và Barnabas hoạt động không ngừng để xây dựng Hội Thánh.

(1) Giáo Hội cần nhiều thợ nhiệt thành rao giảng Tin Mừng như Phaolô và Barnabas: Chỉ trong hai câu ngắn ngủi, nhưng đã nói lên công việc rao giảng của Phaolô và Barbabas trong 4 thành phố: Derbe, Lystra, Iconium và Antioch. Nếu hai ông không mạnh dạn chịu đựng đau khổ bước ra ngoài lãnh thổ của Do-thái, làm sao đạo của Đức Kitô tràn sang được Âu-châu?

(2) Hai ông không giấu các tín hữu con đường vinh quang qua đau khổ: Các ông không lừa dối các tín hữu bằng việc hứa hẹn theo Thiên Chúa sẽ không phải chịu đau khổ; trái lại, các ông báo trước cho họ biết: "Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa." Các ông muốn nói: Đức tin của họ sẽ bị thử thách bằng đau khổ; nhưng qua đau khổ, họ mới có cơ hội chứng tỏ niềm tin vào Đức Kitô và làm cho đức tin của họ ngày càng mạnh mẽ hơn.

1.2/ Sáng kiến của Phaolô và Barnabas trong việc xây dựng Hội Thánh.
(1) Những kỳ mục trong Hội Thánh: Phaolô và Barnabas biết hai ông không thể ở cố định một nơi để nâng đỡ và bảo vệ đức tin cho các tín hữu; nên “trong mỗi giáo đoàn, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin.” Các Kỳ-mục là những người lớn tuổi, đã có kinh nghiệm nhiều, nên có thể đứng ra điều khiển các giáo đoàn địa phương cách trực tiếp. Phần Phaolô và Barnabas, hai ông tiếp tục lên đường thiết lập các giáo đoàn mới; nhưng hai ông sẽ trở lại để nâng đỡ và củng cố các giáo đoàn cũ khi có dịp.

(2) Tất cả là ân sủng của Thiên Chúa: Phaolô và Barnabas thú nhận việc hai ông hoàn thành sứ vụ được các tông đồ trao phó là do ân sủng của Thiên Chúa; chứ không phải do sức riêng của hai ông. Sau cuộc hành trình thứ nhất, hai ông vượt biển về Antioch, nơi trước đây các ông đã được giao phó cho ân sủng của Thiên Chúa để lên đường truyền giáo cho Dân Ngoại.

2/ Bài đọc II: Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa.

2.1/ Những gì là cũ sẽ biến mất, cái mới sẽ xuất hiện.

(1) Quan niệm về “hình dạng lý tưởng” của Hy Lạp: Theo triết gia Plato, tất cả những gì hiện hữu nơi trái đất, đều có “hình dạng lý tưởng” nơi thế giới không thấy được. Vì thế, theo tác giả của Sách Khải Huyền trong một thị kiến, ông thấy: “trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Jerusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang.” Người xưa rất sợ đi biển, vì họ không có địa bàn để định hướng như chúng ta bây giờ. Khi phải đi tàu, họ thường lái song song với đất liền. Ngoài ra, dân chúng khắp nơi đã biết sức mạnh của gió, bão, nước, những cơn sóng thần đã tiêu diệt cả hàng trăm ngàn người. Theo thị kiến của tác giả Sách Khải Huyền: “biển sẽ không còn nữa,”

(2) Quan niệm của Do-thái về Jerusalem mới: Riêng về việc tái tạo Thành Jerusalem mới, chúng ta thấy bàng bạc trong các Sách ngôn sứ như Isaiah 54:11-12, 60:10-20; Haggai 2-9; Ezekiel 48:31-35; Tobit 13:16-18. Sách Khải Huyền cũng nhiều lần nói về Jerusalem mới trong tương lai sẽ được xây dựng toàn bằng đá quí, Con Chiên là ngọn đuốc soi thành, thành có 12 cửa, người muôn nước sẽ kéo đến để nhìn xem Jerusalem.

2.2/ Hiệu quả của sự trung thành với Thiên Chúa: Mục đích của tác giả khi viết Sách Khải Huyền là để củng cố đức tin của các tín hữu trong những cơn bách hại. Trình thuật hôm nay nêu bật 3 phần thưởng các tín hữu sẽ được nếu họ trung thành với Thiên Chúa.
(1) Thiên Chúa sẽ ở với họ: Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: "Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ.” Trong hành trình của con cái Israel suốt 40 năm trong sa mạc, Thiên Chúa đã ra lệnh cho ông Moses căng một chiếc Lều Hội Ngộ, trong đó có để Hòm Bia Thiên Chúa. Mục đích là để cho dân chúng biết Thiên Chúa luôn ở với họ. Những người chiến thắng cũng thế, họ sẽ được ở với Thiên Chúa suốt đời.

(2) Mối liên hệ mật thiết giữa Thiên Chúa và con người: “ Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ ở với họ và là Thiên Chúa của họ.” Như Thiên Chúa đã hứa trong Sách Ngôn Sứ Jeremiah 31:31-34, Ngài sẽ ký kết với họ một giao ước mới. Theo giao ước này, Thiên Chúa sẽ là Chúa của họ; còn họ sẽ là dân của Ngài. Ngài sẽ bảo vệ họ tới muôn đời.

(3) Đau khổ và nước mắt sẽ không còn nữa: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất." Những gì các tín hữu phải trải qua trên thế gian chỉ tạm thời: bệnh tật phần xác, đau khổ phần hồn, chia ly cách biệt... Khi về với Thiên Chúa, Ngài sẽ cất sạch những đau khổ bất toàn này, và họ sẽ không còn phải chịu bất cứ một thứ đau khổ gì nữa. Điều này cũng đã được nói tới bởi ngôn sứ Isaiah 25:5-8.

3/ Phúc Âm: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.

3.1/ Giờ tôn vinh trên Thánh Giá: “Khi Judah đi rồi, Đức Giêsu nói: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.”

(1) Chúa Giêsu được tôn vinh:

+ Giờ Chúa Giêsu được giương cao trên Thập Giá là giờ Ngài được tôn vinh (Isa 52:13; Jn 12:23, 13: 1). Khi Ngài được giương cao trên Thập Giá, Ngài sẽ lôi kéo mọi người đến với Ngài (Jn 12:32). Trên Thập Giá, Chúa Giêsu hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó, và mang ơn cứu độ cho mọi người.

+ Khi Chúa Giêsu bị giương cao trên Thập Giá, Thiên Chúa siêu tôn Chúa Giêsu bằng cách ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu (Phi 2:11).

(2) Thiên Chúa được tôn vinh:

+ Nhờ sự vâng phục của Chúa Giêsu, Thiên Chúa được tôn vinh: Tất cả những gì Chúa Cha đã phác họa trong Kế hoạch Cứu Độ được thành công, nhờ sự vâng lời của Chúa Giêsu. Ngài vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên Thập Giá (Phi 2:7c).

+ Nhờ sự vâng phục của Chúa Giêsu, con người yêu thương Thiên Chúa; thay vì chỉ biết kính phục và sợ hãi Ngài. Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu của Chúa Cha cho con người: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Jn 3:16). Khi nhìn lên Thập Giá, con người không chỉ cảm thấy tình yêu của Chúa Giêsu đã hy sinh chết thay cho con người, mà còn cảm thấy tình yêu của Chúa Cha đã hy sinh Con Một cho thế gian đóng đinh Ngài.

3.2/ Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ:

(1) Cách vô vị lợi: Khi con người yêu thương, họ luôn trông tìm được gì nơi người họ yêu; khó lòng có thể kiếm được một người yêu thương người khác cách vô vị lợi. Khi Chúa Giêsu yêu thương các môn đệ, Ngài không trông mong được hưởng gì nơi các ông, nhưng hoàn toàn cho đi.

(2) Cách hiểu biết: Khi mới gặp hay chỉ ở với nhau vài lần, con người thường dễ che đậy tật xấu và khuyết điểm của mình; nhưng khi đã ở với nhau lâu, mọi tật xấu và khuyết điểm bắt đầu lộ ra. Chúa Giêsu đã biết rõ tính tốt cũng như tật xấu của các môn đệ; tuy vậy, Ngài vẫn chấp nhận, hy sinh và yêu thương các ông.

(3) Cách trung thành đến cùng: Con người dễ ngừng yêu thương khi đối tượng không còn đáng yêu nữa; nhất là còn phản bội người đã yêu thương lo lắng cho mình. Chúa Giêsu yêu thương các môn đệ đến cùng cho dẫu các ông đã phản bội Ngài. Chúa luôn đi bước trước, Ngài tìm đến với các ông khi Ngài sống lại.

3.3/ Dấu để mọi người nhận ra một người là môn đệ Chúa Giêsu: Chúa Giêsu trăn trối cho các môn đệ giới răn duy nhất: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.”

Dấu để mọi người nhận biết một người là môn đệ Chúa Giêsu là yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương. Điều này bao gồm tất cả những điều trên là yêu thương cách vô vị lợi, yêu như người đó là, và trung thành yêu thương đến cùng cho dẫu bị phản bội.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Con đường hy sinh chấp nhận đau khổ là con đường Chúa Cha đã chọn, Chúa Giêsu đã đi qua, và người tín hữu phải chấp nhận mới có thể làm môn đệ của Chúa Giêsu.

- Con đường dễ dãi, tuy nhiều người chọn để đi; nhưng chỉ dẫn tới đổ vỡ và diệt vong.

- Phần thưởng cho những người chọn đi con đường thánh giá: họ sẽ được ở với Thiên Chúa mãi, không còn phải chịu hành hạ bởi đau khổ, và được sống muôn đời với Thiên Chúa.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

28 THÁNG TƯ

Chúng Ta Là Đàn chiên Do Ngài Dẫn Dắt

Vào thời đại Thánh Kinh, người mục tử không chỉ là một người lãnh đạo mà còn là một người bảo vệ cẩn mật và chuyên chăm. Anh ta quan tâm tới sự sống của đàn chiên. Anh ta dẫn đàn chiên tới những đồng cỏ và suối nước. Anh ta bảo vệ đàn chiên cho khỏi những kẻ rình rập và thú dữ. Anh ta lo phòng tránh mọi mối nguy hiểm cho đàn chiên.
Người mục tử là một vị cứu tinh. Chiên có thể tín nhiệm vào anh ta với một tấm lòng đơn sơ – như chúng ta ngày nay tín thác vào Chúa Kitô vậy – bởi vì anh ta cung cấp cho chiên cuộc sống an toàn và phong phú. Thật dễ nhận ra nơi người mục tử uy quyền của Thiên Chúa, Đấng là Thủ Lĩnh Tối Cao. Ngài trao ban sự tốt lành và ân sủng, Ngài quan tâm tới con người và trở thành sự đỡ nâng vững chắc của con người. Vâng, chúng ta thuộc về Ngài. Ngài đã dựng nên chúng ta. Chúng ta là dân Ngài. Chúng ta là đàn chiên do Ngài dẫn dắt. Đức Kitô đã gọi các môn đệ Người là “của tôi”, vì “Cha tôi … đã ban chúng cho tôi” (Ga 10,29).
Mỗi tín hữu đều đã được Chúa Cha trao cho Chúa Con bằng một cách thế đặc biệt. Chúa Con đã trở thành con người để đảm nhận lấy mối ưu tư của Chúa Cha đối với con người: mối ưu tư của người mục tử đối với đàn chiên. Mối quan tâm của một người mục tử có thể so sánh với sự quan phòng từ phụ của Thiên Chúa như được trình bày trong Thánh Kinh. Sự quan phòng này trở thành một thực tại sống động đối với chúng ta xuyên qua Chúa Con – là Đức Kitô.

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 28-4

Chúa Nhật V Phục Sinh
Cv 14, 21b-27; Kh 21, 1-5a; Ga 13, 31-33a.34-35.

LỜI SUY NIỆM: “Thây ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).

Điều răn của Chúa Giêsu thật là một điều răn mới, bởi trong Cựu Ước, tình yêu bị giới hạn bởi những chỉ thị phức tạp của Lề Luật. Trong Tân Ước Chúa Giêsu đã nêu gương tình yêu thương khi sống với nhân loại, cũng như yêu kính vâng phục Thiên Chúa. Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, là yêu thương nhằm giải phóng tha nhân, giúp họ phát huy các tài năng mà Thiên Chúa đã trao ban cho họ, yêu thương là biết tôn trọng nhận vị, nhân phẩm, và quyền được sống của người anh em. Bởi mỗi con người là một mầu nhiệm; trong họ. Có Thiên Chúa đang hiện diện. Tất cả là hình ảnh của Thiên Chúa và có sự sống của Thiên Chúa.

Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân

Ngày 28/04 - Thánh PHÊRÔ CHANEL
Linh Mục (1803 - 1841)


Phêrô Chanel sinh ngày 12 tháng 7 năm 1803 tại Cuet. Hồi nhỏ, Phêrô chăn chiên quanh vùng Belley. Một linh mục chú ý tới Ngài, lo dạy dỗ và đưa Ngài vào chủng viện Brou. Ngày 15 tháng 7 năm 1827 Ngài được thụ phong linh mục. Trước hết Ngài được bổ nhiệm làm phó xứ Ambere, sau đó làm cha sở Crozet. Năm 1831, Ngài nhập Hội dòng Maria và đi truyền giáo ở Ocenia.
Thánh nhân tới đảo Futuna với cha Maria Niziep ở tại hòn đảo hoang vẫn còn tập tục ăn thịt người này, Ngài đã dốc toàn lực mở mang nước Chúa. Một tu sĩ phụ tá luôn sát cánh với Nhà truyền giáo đã kể lại như sau:
"Làm việc dưới sức nóng nung của trong ánh sáng mặt trời, Ngài trở về nhà ướt đẫm mồ hôi, đói khát, nhọc mệt, nhưng vẫn vui tươi nhanh nhẹn, tâm hồn sảng khoái như vừa trở về từ một nơi hạnh phúc. Đây không phải chỉ có một lần mà dường như ngày nào cũng vậy".
"Người không từ chối người dân Futuna điều gì cả. Đối với những ai bắt bớ Ngài, Ngài luôn tha thứ và không khước từ họ, dù cho họ có dốt nát hủ lậu đi nữa. Ngài luôn hiền dịu đối với mọi người".
Thật lạ lùng gì khi dân chúng gọi Ngài là "Người phúc hậu" chính Ngài đã thường nói với các bạn : - Trong cuộc truyền giáo khó khăn thế này chúng ta phải thánh thiện mới được.
Rao giảng Chúa Kitô và Phúc âm, Ngài đã chỉ nhận được những kết quả nhỏ nhoi. Dầu vậy, Ngài cũng xác quyết rằng: việc truyền giáo là việc của loài người và đồng thời cũng là của Thiên Chúa nữa. Gương và lời Chúa đã nói: "Người lo gieo và người khác sẽ gặt". Nên thánh nhân luôn nỗ lực rao giảng giáo lý Kitô giáo và chống lại việc sùng bái của các thần dữ. Nhiệt tình của Ngài đã gây nên nhiều ghen ghét đe dọa tới chính mạng sống Ngài.
Hôm trước ngày qua đời thánh nhân còn nói: - Kitô giáo được gieo trồng trên đảo sẽ không bị tiêu diệt với cái chết của tôi, vì đây không phải là việc của loài người mà là của Thiên Chúa.
Ngày 28 tháng 4 năm 1241 thánh Phêrô bị sát hại. Nhưng ít lâu sau toàn thể dân đảo Futuna đã trở lại đạo công giáo, đức tin từ Futuna lấn sang các đảo lân cận ở Oceania và thánh Phêrô được tôn kính như một vị tử đạo tiên khởi.

(daminhvn.net)


28 Tháng Tư

Thắp Lên Ngọn Ðèn Cũ

Trong một cuộc phỏng vấn, Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã thuật lại một sự kiện như sau: Ở Úc Châu có một người thổ dân Aborigines kia sống trong một hoàn cảnh thật thảm thương. Ông cũng đã khá cao niên rồi, sống trong một túp lều xiêu vẹo. Khởi đầu câu chuyện tôi nói với ông:
- Ðể tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông. Ông ta trả lời một cách hững hờ:
- Tôi đã quen sống như vậy rồi.
- Nhưng ông cũng cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp. Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp nhà cửa lại cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:
- Có bao giờ ông thắp đèn này chưa? Ông ta trả lời một cách cộc lốc:
- Nhưng thắp đèn cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu. Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy một người nào cả. Tôi hỏi ông:
- Nếu như các nữ tu đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không?
- Dĩ nhiên rồi.
Từ ngày đó các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Từ đó ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi chết ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin cho tôi:
- Xin nhắn với Mẹ Têrêxa, bạn tôi rằng, ngọn đèn mà Mẹ đã thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng. Ðó chỉ là một việc nhỏ mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.
Chúng ta đều cảm nghiệm được niềm vui sướng vì được yêu thương, được chính Chúa thương yêu. Và chúng ta cũng hiểu được giới răn của Chúa: "Hãy thương yêu nhau, như Thầy yêu thương các con".

(Lẽ Sống)
28-4

Thánh Phêrô Chanel

(1803 - 1841)

B
ất cứ ai từng làm việc trong cô độc, và cần phải thích ứng tối đa và rất ít cơ hội thành công, đều tìm thấy một tinh thần tương tự nơi Thánh Phêrô Chanel.
Thánh Phêrô Chanel sinh ở Clet trong giáo phận Belley, nước Pháp. Khi là học sinh tiểu học, ngài đã được thầy giáo chú ý vì sự thông minh và đạo đức. Khi gia nhập đại chủng viện, ngài được sự thương mến và quý trọng của các giáo sư cũng như đồng bạn. Khi là linh mục trẻ, ngài làm hồi sinh một giáo xứ trong khu "tồi tệ" của thành phố chỉ sau ba năm hoạt động. Tuy nhiên ngài vẫn muốn trở thành nhà truyền giáo, do đó lúc 28 tuổi ngài gia nhập Dòng Ðức Mẹ, là tu hội chú trọng đến công việc truyền giáo ở trong và ngoài nước. Nhưng, trái với điều mong ước, ngài lại được chỉ định công việc dạy học ở đại chủng viện Belley trong vòng năm năm kế đó, và ngài thi hành nhiệm vụ ấy với tất cả nhiệt thành. 
Vào năm 1836, nhà dòng được giao cho vùng New Hebrides ở Thái Bình Dương để truyền giáo, và Cha Phêrô thật vui sướng được bổ nhiệm là bề trên của nhóm truyền giáo, tuy nhỏ nhưng hăng say rao giảng Ðức Tin cho dân cư trên đảo.
Sau mười tháng lênh đênh trên biển, họ đã cập bến và tách ra làm hai nhóm, và nhóm của Cha Phêrô thì đến Ðảo Futuna với hai người phụ tá, gồm một thầy dòng và một giáo dân người Anh. Khi ấy dân cư trên đảo còn trong tình trạng bán khai mà lệnh cấm ăn thịt người chỉ vừa mới được ban hành. Lúc đầu các vị truyền giáo được người bản xứ và tù trưởng Niuliki tiếp đón niềm nở. Tuy nhiên, khi các ngài càng ngày càng sành sõi tiếng địa phương và càng được dân chúng tin tưởng thì ông tù trưởng cảm thấy ghen tức và lo sợ; ông thấy rằng việc chấp nhận đức tin Công Giáo sẽ đưa đến sự bãi bỏ một số đặc quyền mà ông đang được hưởng, với tư cách của một thượng tế và vừa là người cầm quyền. Sau cùng, khi chính con trai ông bày tỏ lòng ước ao muốn được rửa tội, sự căm thù của ông bùng nổ và ông sai các chiến sĩ của ông đi bắt vị trưởng nhóm truyền giáo. Do đó, ngày 28 tháng Tư 1841, Cha Phêrô bị bắt và bị đánh đập cho đến chết bởi những người mà ngài muốn cứu vớt linh hồn họ.
Chỉ trong vòng hai năm sau cái chết của ngài, mọi người trên đảo đều theo đạo Công Giáo và vẫn trung thành với đức tin ấy cho đến ngày nay. Cha Phêrô Chanel là vị tử đạo đầu tiên ở Ðại Dương Châu và là quan thầy của châu này.

Lời Bàn

Chịu đau khổ vì Ðức Kitô có nghĩa sự đau khổ vì muốn trở nên giống như Ðức Kitô. Thường thường chúng ta bị chống đối là vì hậu quả của sự ích kỷ và thiếu khôn ngoan. Chúng ta không phải là người tử đạo khi bị "bạc đãi" bởi những người đã đối xử với chúng ta y như chúng ta đối xử với họ. Một vị tử đạo Kitô Giáo là người, giống như Ðức Kitô, chỉ đơn giản làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, và sống thật với chính mình.

Lời Trích

"Không ai là vị tử đạo chỉ vì một quyết định, không ai là vị tử đạo vì một ý kiến; chính đức tin tạo nên vị tử đạo" (Ðức Hồng Y Newman, Bài Diễn Văn cho Các Giáo Ðoàn Hỗn Hợp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét