Thứ Bảy Ngày 25/05/2013
Tuần VII Mùa Thường Niên
Năm C
BÀI
ĐỌC I: Hc 17, 1-13 (Hl 1-15)
"Thiên Chúa tạo
dựng con người giống hình ảnh Chúa".
Trích
sách Huấn Ca.
Thiên
Chúa dùng đất mà dựng nên con người và tạo tác con người theo hình ảnh của
Chúa. Người lại làm cho nó trở nên hình ảnh Chúa và ban cho nó được quyền hành
như Người đã có. Người cũng ban cho nó số ngày và thời gian, ban cho quyền hành
trên trần gian. Người bắt mọi loài phải kính sợ nó, và cho nó thống trị các thú
dữ chim trời. Rồi từ đó, Người tạo dựng một nội trợ giống như nó, Người cũng
ban cho cả hai có trí, lưỡi, mắt, mũi và tâm hồn để suy tưởng, cho họ đầy sự
hiểu biết và trí năng. Người tạo cho họ trí thông minh và cho lòng họ biết cảm
giác, chỉ cho họ biết phân biệt lành dữ. Người đặt mắt Người vào lòng họ, chỉ
cho họ thấy sự huy hoàng các công trình của Người, để họ ca tụng thánh danh
Người, và họ được vinh hiển trong những việc lạ lùng của Người, hầu họ cao rao
sự vĩ đại của những kỳ công Người. Người ban thêm cho họ sự thông minh và cho
họ thừa hưởng luật trường sinh. Người thiết lập với họ một giao ước vĩnh cửu,
chỉ cho họ biết công minh thẩm phán. Và mắt họ đã nhìn thấy sự huy hoàng vinh
hiển của Người, tai họ đã nghe tiếng Người. Rồi Chúa phán với họ: "Các
ngươi hãy lánh xa mọi gian ác". Và Người truyền cho mỗi người trong họ
biết những giới răn liên quan đến tha nhân. Đường lối của họ luôn luôn ở trước
mặt Chúa và không hề ẩn náu khỏi mắt Người. Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 102, 13-14. 15-16. 17-18a.
Đáp: Lòng yêu thương của Chúa vẫn còn tồn tại, tự thuở này tới
thuở kia cho những ai kính sợ Người (x.
c. 17).
1)
Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Người.
Người hiểu biết chỗ gây hình của chúng ta, Người nhớ rằng tro bụi là chính
chúng ta! .
2)
Thân con người, cuộc đời như nắm cỏ, như bông hoa ngoài đồng nội, nó nở ra. Một
cơn gió vừa lướt trên hoa, hoa không còn nữa, không ai còn nhận thấy chỗ ở của
hoa! .3) Nhưng lòng yêu thương của Chúa
vẫn còn tồn tại, tự thuở này tới thuở kia cho những ai kính sợ Người, và đức
công minh Chúa còn dành để cho con cháu họ, cho những ai giữ lời minh ước của
Người.
ALLELUIA: Ga 15, 15b
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì
Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 10, 13-16
"Ai không đón
nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi
ấy, người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng,
nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông
rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước
Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không
đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". Rồi
Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Thương yêu trẻ
em
Ðức
Giáo Hoàng Piô X khi nhậm chức Giám mục giáo phận Mantova, Ngài đã nghĩ đến
người mẹ hiền và trở về thăm mẹ như để nói lên lòng biết ơn. Trong câu chuyện
thân mật với mẹ, Ngài vừa nói vừa khoe chiếc nhẫn Giám mục của mình: "Mẹ
xem chiếc nhẫn Giám mục của con có đẹp không?" Người mẹ mỉm cười đưa chiếc
nhẫn cũ kỹ trên bàn tay đầy vết nhăn cho con xem và nói: "Nếu không có
chiếc nhẫn này, thì đâu có chiếc nhẫn Giám mục của con".
Thật
thế, nếu cha mẹ không để tâm giáo dục con cái, làm sao chúng có thể nên người,
nhất là nên người con của Chúa được.
Tin
mừng hôm nay cho chúng ta thấy những cha mẹ tìm cách đem con cái đến với Chúa
Giêsu để xin Ngài đặt tay và chúc lành cho chúng. Chúa Giêsu rất thương mến trẻ
em, Ngài tỏ ra không hài lòng vì các Tông đồ ngăn cản không cho các cha mẹ đem
các trẻ em đến với Ngài. Trái ngược với quan niệm coi khinh trẻ em của các tác
giả đạo đức Do Thái, Chúa Giêsu đề cao trẻ em như kiểu mẫu đón nhận Nước Trời:
"Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được
vào". Nơi khác, Ngài bảo vệ trẻ em một cách quyết liệt: "Ai làm cớ
cho một trong những trẻ nhỏ này sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà
quăng xuống biển còn hơn".
Cha
mẹ là những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh dưỡng và giáo dục con
cái, để chúng được hạnh phúc đời này, nhất là được hạnh phúc đời sau. Tuy
nhiên, có những cha mẹ chỉ lo làm giàu, chứ không quan tâm xây dựng đạo đức cho
con cái, cũng có những cha mẹ khoán trắng việc giáo dục đức tin của con cái cho
các vị lãnh đạo tinh thần và thiêng liêng, mà quên rằng đó là nhiệm vụ trước
tiên của cha mẹ do Bí tích Hôn phối và tình thương yêu đòi buộc. Con cái sống
trong gia đình nhiều hơn các nơi khác, và cha mẹ cũng hiểu biết tính tình con
cái hơn bất cứ ai khác, đó là những thuận lợi để cha mẹ góp phần vào việc giáo
dục con cái.
Nhưng
để có thể giáo dục con cái một cách hiệu quả, cha mẹ phải lo trau dồi kiến
thức, cách riêng về tôn giáo, và sống đạo gương mẫu, sao cho con cái thực sự là
nguồn hạnh phúc của gia đình và là triều thiên của chính cha mẹ.
Xin
Chúa chúc lành cho tất cả các cha mẹ. Xin Ngài soi sáng để các cha mẹ hiểu biết
và yêu mến Chúa nhiều hơn, đồng thời nhiệt tâm giáo dục con cái và dẫn đưa
chúng đến với Chúa.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 7 TN1, Năm Lẻ
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Hãy đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Thiên Chúa là
Cha.
Cuộc
đời của mỗi người có hai phần rõ rệt: phần một khi sống dưới mái ấm gia đình
với sự che chở và bảo bọc của cha mẹ và các anh/chị/em; phần hai khi phải bươn
chải vào đời để tự kiếm sống và xây dựng cho mình một mái ấm gia đình. Tương
xứng với hai phần này là hai thái độ khác nhau. Khi còn sống với cha mẹ, chúng
ta chẳng phải lo lắng gì cả, tối ngày chỉ biết vui chơi, ăn uống, học hành...
mà chẳng cần biết tiền bạc từ đâu ra. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng và sống nhờ
cha mẹ, cha mẹ bảo sao chúng ta nghe và làm như vậy. Nhưng khi rời mái ấm gia
đình, thái độ của chúng ta hầu như thay đổi hoàn toàn. Chúng ta phải tự lo lắng
lấy hết mọi sự, phải làm lụng để kiếm ăn, và phải đương đầu với biết bao tính
toán và nguy hiểm trong đời. Những điều này làm cho chúng ta mất hết vẻ hồn
nhiên của tuổi trẻ, dè dặt trong khi giao tiếp, không dễ tin những hứa hẹn của
người đời, và khó chịu khi ai làm phiền chúng ta.
Các
bài đọc hôm nay dạy chúng ta phải biết giữ lại những đức tính tốt của trẻ thơ
trong mối liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa và với nhau. Trong bài đọc I,
tác giả Sách Huấn Ca mô tả cách chi tiết những điều Thiên Chúa đã và đang làm
cho con người. Chúng ta phải có khôn ngoan để nhận ra Thiên Chúa vẫn đang quan
phòng cuộc đời mỗi người chúng ta. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khó chịu khi thấy
các môn đệ xua đuổi trẻ em khi chúng đến với Ngài. Ngài đưa ra một điều kiện để
được vào Nước Trời: Phải mở lòng đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn của một
trẻ thơ.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Người đặt con mắt mình vào tâm hồn chúng, để chúng nhận ra các công
trình vĩ đại của Người.
1.1/
Thiên Chúa làm mọi sự cho con người: Thoạt đọc trình thuật hôm nay, một người có
thể nhận ra điều này: hầu hết tất cả chủ từ của cả bài thơ là Thiên Chúa, hay
“Người;” và túc từ của bài thơ hay người nhận lãnh là con người. Các động từ
diễn tả các hành động khác nhau Thiên Chúa làm cho con người. Một số những sự
thật tác giả muốn chúng ta phải nhìn nhận:
-
Người dựng nên và điều khiển cuộc đời chúng ta là Thiên Chúa, chứ không phải
chúng ta. Ngài nắm giữ vận mạng và đếm từng ngày sống của chúng ta trên trái
đất.
-
Con người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của Người, và ban cho con
người sức mạnh để cùng cai quản trái đất với Người.
-
Thiên Chúa dựng nên các quan năng trong thân thể con người cho một mục đích.
Con người phải dùng nó để nhận ra những điều tốt, xấu, uy quyền và tình yêu của
Thiên Chúa dành cho con người.
-
Ngài dạy dỗ những điều khôn ngoan, ban cho con người Luật đem lại sự sống, và
ký kết một giao ước muôn đời với con người.
1.2/
Con người có bổn phận ca khen Danh Thánh Thiên Chúa: Có thể nói tất cả
những gì con người có đều do Thiên Chúa làm ra và ban cho con người hưởng dùng;
vì thế, thái độ thích ứng của con người là phải biết cám ơn, ca khen, và rao
truyền những gì Người làm cho mọi người, để tất cả đều nhận ra và ca khen
Người. Ngoài ra, bổn phận của con người còn phải dùng những của cải Thiên Chúa
ban để giúp đỡ tha nhân, nhất là những người nghèo khổ.
Nếu
không nhận ra những điều Thiên Chúa làm, con người sẽ nghĩ ngược lại: tất cả
những gì có trong trái đất đều là ngẫu nhiên; vì thế, họ sẽ tha hồ vơ vét làm
của riêng để tận hưởng. Vì không nhận ra sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa,
họ sống như không có ngày mai, và hậu quả là bị hư đi và không đạt được đích
điểm mà Người đã tiền định cho họ.
2/
Phúc Âm: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ
chẳng được vào."
Trước
hết, chúng ta thử tìm hiểu những đức tính của trẻ thơ có, rồi áp dụng chúng vào
những người đi tìm Nước Thiên Chúa. Chúng ta chỉ xét tới trường hợp chung của
trẻ thơ, chứ không để ý tới trường hợp những trẻ thơ ngoại lệ.
(1)
Thành thật:
Trẻ thơ thấy sao nói vậy, chúng không dấu và không sợ ai buồn lòng. Tục ngữ
Việt-nam có câu: “đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ.” Câu này có nghĩa khi đi ra
đường, một người cần hỏi kinh nghiệm của người già; nhưng khi về nhà, một người
hỏi trẻ em là biết hết những gì đã xảy ra. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta phải có
đức tính này trong các mối liên hệ: “Có thì nói có, không thì nói không; thêm
bớt điều gì là do ác quỉ gây nên.”
(2)
Khiêm nhường:
Trẻ thơ biết chúng không biết nên rất ham học hỏi tìm tòi. Chúng rất hay hỏi mà
không sợ người khác cười nhạo vì những câu hỏi ngớ ngẩn. Chúng xấu hổ khi người
khác khen ngợi. Chúng rất dễ hòa đồng với người khác và làm bạn mau chóng, chỉ
cần thả chúng xuống nhà ai khoảng thời gian ngắn là chúng có thể chơi chung với
nhau rồi. Người lớn thường đối xử với nhau khác, họ cần phải biết gia thế người
khác và phải mất thời gian khá lâu để trở thành bạn.
(3)
Vâng lời:
Trẻ em rất dễ vâng lời. Cha mẹ, anh chị, các thầy cô, và người lớn nói sao,
chúng làm như vậy. Chúng không tranh luận cãi lại, cũng chẳng tìm hiểu lý do
tại sao phải làm như vậy. Người lớn không hành động như thế, họ luôn tìm hiểu
lý do phải làm, và nhiều khi còn tìm những lý do để không phải làm.
(4)
Tin tưởng:
Trẻ thơ rất tin tưởng nơi cha mẹ, nhưng không dễ tin người ngoài. Đối với
chúng, cha mẹ nói gì, chúng tin là có, dẫu là những điều huyền thoại như: ông
già Noel; chú cuội, chị Hằng; Bạch Tuyết và 7 chú lùn... Thiên Chúa cũng muốn chúng
ta đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Ngài; tất cả những Ngài đã nói, sẽ xảy ra; và
những gì Ngài đã hứa, Ngài sẽ ban cho con người.
(5)
Yêu mến: Trẻ
thơ không biết hận thù, chúng yêu mến cha mẹ và những người làm ơn cho chúng.
Nếu chúng giận dỗi, chúng sẽ làm hòa mau chóng vì chúng rất dễ quên. Người lớn
không dễ dàng tha thứ. Có những mối hận họ sẽ không bao giờ quên, và để được
tha thứ, họ đòi nhiều điều kiện.
Tất
cả những đức tính trên đây của trẻ thơ Chúa Giêsu đòi chúng ta cần có trong mối
liên hệ với Thiên Chúa và với tha nhân để được vào Nước Trời. Điều quan trọng
giúp chúng ta có thể làm được là chúng ta phải nhìn ra được tình yêu và sự quan
phòng của Thiên Chúa. Sợ bị thiệt hại và nguy hiểm là những lý do khiến chúng
ta dè dặt trong cách giao tiếp; nhưng một khi chúng ta biết có một Người luôn
quan tâm và bảo vệ, chúng ta sẽ không sợ hãi và tin tưởng hơn trong cách đối xử
với tha nhân.
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
-
Thiên Chúa là Cha uy quyền và thương yêu, Ngài vẫn đang điều khiển và dẫn dắt
cuộc đời mỗi người chúng ta đến đich điểm mà Ngài đã tiền định.
-
Chúng ta đừng để những khó khăn trong cuộc đời biến chúng ta thành những người
kiêu ngạo, ích kỷ, bản gắt, nghi ngờ... Không ai có thể làm hại chúng ta khi
Thiên Chúa vẫn đang chúc lành và bảo vệ chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh
Minh Tiên OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 7 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu
mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Thứ Bảy :
Mc 10,13-16
A. Hạt giống...
1. Lý do khiến người ta đem trẻ nhỏ đến với
Chúa Giêsu là để Ngài chúc lành cho chúng ("đặt tay trên chúng").
2. Lý do khiến các môn đệ khiển trách họ là
vì thời đó người do thái coi khinh trẻ nhỏ (do chúng chưa biết Luật). Trẻ nhỏ
bị coi là hạng còn ở ngoài lề xã hội.
3. Phản ứng của Chúa Giêsu dạy cho các môn
đệ bài học mở rộng vòng tay đón tiếp tất cả mọi người, không loại bỏ bất cứ ai.
4. Chúa còn bảo người lớn phải có tâm thế
của trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Trời.
B.... nẩy mầm.
1. "Thấy vậy Ngài bất bình" :
Chúa khó chịu và bất bình khi môn đệ Ngài đuổi xua trẻ nhỏ. Ngày nay Chúa cũng
tiếp tục khó chịu và bất bình nếu Ngài thấy tôi có thái độ kỳ thị, phân biệt
đối xử và không rộng tay đón tiếp mọi người.
2. "Hãy để trẻ nhỏ đến với" : Tôi
nên hiểu "trẻ nhỏ" theo nghĩa rộng. Chúa bảo tôi hãy sống làm sao để
tất cả mọi người đều có thể gần gũi tôi, hơn nữa đều cảm thấy thoải mái khi ở
gần bên tôi. Nhất là những người "nhỏ bé", tức là kém cỏi, vụng về,
chậm trí v.v.
3. "Nước Thiên Chúa là của những người
giống như trẻ nhỏ". Trẻ nhỏ hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi cha mẹ,
trẻ nhỏ biết vâng lời cha mẹ không cần lý luận xem tại sao cha mẹ bảo làm thế,
trẻ nhỏ không tính toán lời lỗ thiệt hơn… Đối với trẻ nhỏ, cha mẹ là thần tượng,
cha mẹ làm gì cũng đúng, nói gì cũng hay… Tôi đối với Chúa như thế nào ?
Có giống những nét trên của trẻ nhỏ không ?
4. "Những gì tôi cần biết, tôi đều học
được lúc tôi còn ở nhà trẻ", đó là tựa đề quyển sách của Mục sư Robert
Fangum, một quyển sách bán chạy nhất tại Hoa kỳ trong thời gian gần đây. Tác
giả viết "Những bài học chúng ta học được ở nhà trẻ đều là những
điều chúng ta cần biết để sống hạnh phúc ; nếu tất cả chúng ta đều
trở lại nhà trẻ thì có lẽ thế giới này không hỗn loan như hiện nay." Những
điều đó là gì ?
- Hãy chia xẻ mọi sự, hãy chơi đúng luật,
đừng làm tổn thương người khác, và nếu có xúc phạm đến ai thì hãy xin lỗi.
- Lấy đâu thì trả lại đó, dọn dẹp những gì
mình bày ra, và nhất là không lấy những gì không thuộc về mình.
- Ra đường phải chú ý đến xe cộ qua lại,
phải nắm tay nhau mà đi.
- Biết ngạc nhiên trước những mầu nhiệm của
cuộc sống. (Chờ đợi Chúa)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI –
Gp.Cần Thơ
25/05/13 THỨ
BẢY TUẦN 7 TN
Th. Beđa, Th.Gregoriô VII, Th. Maria M. Pazzi
Mc 10,13-16
Th. Beđa, Th.Gregoriô VII, Th. Maria M. Pazzi
Mc 10,13-16
VUI TƯƠI TRONG MỌI LÚC
“Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa
là của những ai giống như chúng.” (Mc 10,14)
Suy niệm: Con đường Đức Giêsu đang đi
chẳng thơ mộng chút nào! Đó là con đường đi về Giêrusalem, nơi vô vàn đau khổ
đang chờ đón. Không lạ gì Máccô viết rằng: “Ngài dẫn đầu các ông. Các ông
kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi” (10,34). Thế nhưng, đang lúc hình bóng thập giá đè nặng tâm trí,
Ngài vẫn dành thời gian để bồng ẵm và chúc phúc cho các em bé. Câu chuyện này
vén mở cho ta một chút về con người của Đức Giêsu: Ngài không phải là một người
nghiêm nghị, xa cách, nhưng gần gũi, thân thiết. Niềm vui và bình an luôn sẵn
sàng trao tặng cho bất kỳ ai đến với Ngài trong bất cứ hoàn cảnh nào: lúc nghỉ
ngơi hay đang căng thẳng, khi đi đường hay trên thuyền, ở trong nhà hay nơi
hoang địa...
Mời Bạn nhớ rằng đạo Chúa là đạo của
niềm vui: Nước Trời được so sánh như tiệc cưới, loại tiệc vui vẻ nhất của đời
người. Niềm vui được làm con cái Chúa, được sống trong tình yêu của Ngài, được
đưa dẫn về hạnh phúc vĩnh cửu phải được bày tỏ nơi khuôn mặt vui tươi của bạn,
qua cung cách an nhiên phó thác vào Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Chia sẻ: Niềm vui được sống trong hạnh
phúc Nước Trời được bạn diễn đạt qua những hình thức nào?
Sống Lời Chúa: Dưới ánh sáng đức tin, tôi luôn
nhìn lạc quan về cuộc đời, vì hiểu được cùng đích tối hậu của đời người trong
chương trình của Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chúng con thích
nhìn ngắm cảnh Chúa ôm lấy các trẻ em và chúc lành cho chúng. Chúa luôn vui
tươi và ân cần đón tiếp mọi người đến với Chúa. Xin giúp chúng con biết noi
gương Chúa. Amen.
Ngài
ôm các trẻ em
Phải học cách đón lấy Nước Trời như trẻ thơ, nghĩa là đón lấy
như một quà tặng mà mình không xứng, đón lấy với sự ngỡ ngàng, ca ngợi, tri ân.
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu với
trẻ em.
Chắc các em còn nhỏ nên cần có người đưa các em
đến với Ngài.
Đó có thể là cha mẹ hay một người trong gia
tộc.
Những người đưa các em đến phải có lòng tin vào
Đức Giêsu.
Họ đưa con của họ đến gặp Đấng mà họ tin là
Người của Thiên Chúa.
Họ không mong Thầy Giêsu chữa bệnh hay cho con
mình bánh kẹo.
Điều họ mong là được Ngài chạm tay vào chúng
(c. 13).
Một cái chạm tay rất nhẹ của Thầy, một cái chạm
nhẹ của Thiên Chúa.
Họ mong có sự tiếp xúc giữa chính tay Thầy với
thân xác con cái họ.
Ơn phúc lành đến qua tay, qua sự tiếp xúc đơn
sơ.
Thầy Giêsu rất vui lòng làm chuyện đó.
Nhưng các môn đệ lại không nghĩ như vậy.
Họ nghĩ chơi với trẻ em chỉ tổ mất thì giờ, bị
quấy rầy vì ồn ào, lộn xộn.
Vả lại, trẻ em thì đâu có xứng đáng để được gặp
Thầy.
Bởi vậy họ đã ngăn cấm không cho các em đến với
Đức Giêsu.
Nói chung họ vẫn chưa hiểu ra bài học mới đây
của Thầy (Mc 9, 36-37).
Khi thấy các môn đệ ngăn cản, Thầy Giêsu đã nổi
giận thực sự.
Chắc Ngài giận vì không hiểu được sao các ông
vẫn hẹp hòi đến thế,
sao các ông vẫn chưa đổi được cái nhìn của mình
về trẻ em.
“Hãy để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm
chúng” (c. 14).
Đây là một mệnh lệnh nghiêm chỉnh và có
giá trị mãi.
Trẻ em có chỗ trong trái tim Giêsu.
Thầy Giêsu dù bận bịu nhưng vẫn có giờ cho các
em gặp gỡ.
Ngài không coi chuyện chơi với các em là phiền
phức.
Chúng ta chẳng những không được ngăn cản,
mà còn phải giúp đưa các em đến với Thầy Giêsu.
Chúng ta là cha mẹ, là thầy của các em,
nhưng mặt khác chúng ta lại là học trò để học
hỏi nơi các em.
“Vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như
chúng” (c. 14).
Chúng ta cần học nơi các em lòng biết ơn, sự
cậy dựa và khiêm nhu.
“Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ
em,
thì sẽ chẳng được vào” (c. 15).
Như thế phải học cách đón lấy Nước Trời như trẻ
thơ,
nghĩa là đón lấy như một quà tặng mà mình không
xứng,
đón lấy với sự ngỡ ngàng, ca ngợi, tri ân.
Hãy nhìn Thầy Giêsu bồng các em nhỏ trên cánh
tay (c. 16; Mc 9, 36).
Hãy nhìn nét mặt hạnh phúc của Thầy.
Thầy chẳng những chạm đến các em, mà còn bồng
các em.
Thầy còn trịnh trọng chúc lành bằng cách đặt
hai bàn tay trên các em.
Rõ ràng Thầy Giêsu quý các em, và Ngài không
muốn ta làm hư các em.
Thế giới hôm nay có bao điều ngăn cản không cho
trẻ em gặp Chúa.
Bao trẻ thơ đã bị lạm dụng từ nhỏ, bị ngược
đãi, bị bắt làm nô lệ,
bị thất học, bị bỏ rơi, bị ném vào cuộc đời quá
sớm.
Bao trẻ thơ bị suy dinh dưỡng, bị bệnh tật và
chết khi còn trong lòng mẹ.
Bao trẻ thơ thèm được chút hơi ấm của tình
thương gia đình.
Nhất là có những trẻ em đã sớm mất tuổi thơ
và dính vào thói hư của người lớn như nghiện
ngập, phạm tội hình sự.
Hãy giúp các em làm quen với Giêsu và đừng làm
gương xấu cho các em.
Hãy đón tiếp các em để gặp được chính Thầy
Giêsu
và gặp được chính Thiên Chúa (Mc 9, 37).
Cầu nguyện:
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,
xin Cha
nhìn xuống
những gia
đình sống trên mặt đất
trong
những khu ổ chuột tồi tàn
hay biệt
thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến
những gia
đình thiếu vắng tình yêu
hay thiếu
những điều kiện vật chất tối thiểu,
những gia
đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ
hay vất
vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha
nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục
vì chứa
đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ
em cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ
em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ
em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ
em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia
đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ
em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha
sai Thánh Thần Tình Yêu
đem đến
hạnh phúc cho mỗi gia đình;
nhưng xin
cũng nhắc cho chúng con nhớ
hạnh phúc
luôn ở trong tầm tay
của từng
người chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Suy
Niệm Mc 10, 13-16
Qua việc tiếp nhận trẻ em, Chúa Giêsu muốn
dạy cho các môn đệ phải biết đón nhận nước Thiên Chúa với thái độ đơn sơ và
chân thành như trẻ nhỏ. Nghĩa là phải sống tinh thần đơn sơ nhỏ bé, yếu đuối vì
nước trời. Nước Trời không tùy thuộc vào công sức con người. Nhưng thuộc về
những tâm hồn đơn sơ, bé mọn. Đón nhận Nước Trời như trẻ thơ giống như con thơ
đặt mình hoàn toàn tin yêu nơi cha mẹ. Thiếu ngay thẳng, thiếu niềm tin nơi
Thiên Chúa, không thể được đón nhận vào Nước Trời.
Trong xã hội ngày nay không ai muốn
kết thân, làm bạn với những kẻ bé mọn nghèo khó, mà chỉ thích giao lưu với
những người có địa vị, quyền hành, giàu sang để có thể nhờ vả. Tuy nhiên Chúa
dạy cho các môn đệ phải biết mở rộng vòng tay đón tiếp tất cả mọi người, không
loại bỏ bất cứ ai. "Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng:
'Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng'." Chúa Giêsu phật
ý khi thấy các môn đệ ngăn cản các trẻ nhỏ. Điều này nhắn nhủ chúng ta phải
tránh mọi thái độ cử chỉ xấu đối với những kẻ bé mọn.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết đón nhận
ân sủng Chúa ban như thể một trẻ em đón nhận tình thương của cha mẹ chúng trao
ban do tình thương yêu. Xin cho cũng chúng con nhận biết thân phận mỏng dòn của
mình để từng giây, từng phút, chúng con luôn biết cảm tạ tình yêu cao vời ấy và
ca tụng Ngài thay cho muôn đời. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25 THÁNG
NĂM
Giấc Mơ Xa Vời Bỗng
Thành Hiện Thực
Kể từ ngày
Lễ Hiện Xuống, cuộc giao hòa của tất cả các dân tộc trong Thiên Chúa không còn
là một giấc mơ xa xăm nữa. Cuộc giao hòa ấy đã trở thành hiện thực – và mở rộng
không ngừng theo nhịp lan rộng của Giáo Hội mang trong mình Tin Mừng cứu độ.
Chúa Thánh Thần, Đấng là Thần Khí tình yêu và hiệp nhất, hiện thực hóa mục tiêu
của cuộc hiến thân cứu chuộc của Đức Kitô – bằng cách qui tụ con cái Thiên Chúa
đang tản mác về một mối.
Khi Thánh
Thần hiệp nhất mọi người trở thành Dân Thiên Chúa, có hai điều quan trọng được
ghi nhận rõ ràng. Bằng cách dẫn đưa người ta gắn kết với Đức Kitô, Thánh Thần
đem họ vào trong mối hiệp nhất của Giáo Hội là Thân Mình Đức Kitô. Như vậy,
Thánh Thần giao hòa con người với nhau trong tình huynh đệ – dù giữa họ có
những nét khác biệt về địa dư và về văn hóa. Nói cách khác, Thánh Thần làm cho
Giáo Hội trở thành một nguồn hiệp nhất và hòa giải. Hơn nữa, Chúa Thánh Thần
hòa giải cả những người bên ngoài Giáo Hội – bằng một cách nào đó. Ngài khơi
lên trong mọi người niềm khát vọng hiệp nhất sâu rộng hơn và Ngài thúc đẩy
những cố gắng của người ta để họ vượt qua những mối xung đột ngổn ngang vẫn còn
phân rẽ thế giới.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul
II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh
Bêđa Khả kính, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh
Thánh
Grêgôriô VII giáo hoàng
Thánh
Maria Magđaleena Pazzi, trinh nữ.
Hc
17, 1-15 ; Mc 10, 13-16.
LỜI SUY
NIỆM : «Thầy bảo thật anh em ; Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn
một trẻ thơ, thì chẳng được vào » (Mc 10,15)
Trong mỗi con người của chúng ta ai cũng tự
mãn về nhiều điều hiểu biết của mình, ai cũng cho mình đầy khôn ngoan, đã vượt
qua biết bao thử thách, ai cũng cho mình có quá nhiều kinh nghiệm trong cuộc
sống, cho nên sẽ tự mình sắp xếp được mọi sự. Tất cả những điều đó chỉ đưa ta
đến sự kiêu ngạo và bất cần. Lời Chúa hôm nay đang nhắc cho chúng ta biết ; cần
phải quên đi tất cả những cái đó. Để tâm hồn chúng ta trống rỗng, hầu có thể
đón nhận những ân huệ của Thiên Chúa, những lời giáo huấn của Chúa Giêsu với sự
sáng soi nâng đỡ của Chúa Thánh Thần như một trẻ thơ. Có như thế chúng ta mới
được vào Nước Trời.
Mạnh Phương
Gương Thánh nhân
Ngày
25-05
Thánh BÊ-ĐA Đáng Kính
Linh mục, Tiến Sĩ Hội
Thánh (673 - 735)
Chính
thánh Beđa kể cho chúng ta biết mọi điều về cuộc đời thơ ấu của Ngài. Trong vài
câu thêm vào cuốn lịch sử Giáo hội, thánh nhân sinh năm 673 hay là 674. Tên
Bêđa theo từ ngữ Saxon có nghĩa là cầu nguyện. Cuộc sống của Ngài rất gương mẫu
nên người ta thêm cho Ngài biệt danh Vênêrabilê có nghĩa là khả kính. Lên bảy
tuổi Ngài bị mồ côi cha mẹ và được giao phó cho tu viện trưởng Bênêdictô Biscop
săn sóc giáo dục. Lúc 18 tuổi Ngài được thụ phong chức phó tế và năm 702 hay
703 tức là lúc 29 tuổi Ngài được thụ phong linh mục.
Cuộc
sống của Ngài trong tu viện rất cực nhọc. Chúng ta có thể tóm lược cuộc sống ấy
bằng chính lời Ngài: - "Tôi đã sống trọn đời nỗ lực học hỏi kinh thánh và
trong khi tuân thủ luật dòng cũng như bổn phận hàng ngày và hát thánh ca tại
nhà thờ, tôi sung sứơng được học hành, dạy dỗ và viết lách".
Đây
quả là tổng hợp chính xác trọn cuộc sống của thánh Bêđa, Ngài rất ít rời bỏ nhà
dòng. Chúng ta chỉ nghe biết có hai chuyện du hành của Ngài. Một lần Ngài đi
thu tập tài liệu về đời thánh Cuthbert, Ngài ở lại Lindisfanne và từ đó đến
viếng Farne Islanol để khảo sát những di tích trong căn phòng của vị thánh. Một
lần khác, Ngài đến York
để thăm Đức tổng giám mục Egbert, và để quan sát các trường học nổi tiếng ở đó.
Dạy
học, thánh Bêna tỏ ra là một bậc thầy lỗi lac. Ngài không quan tâm suy tư và ao
ước được nổi bật. Tài năng của Ngài là cố gắng không cùng để tự đào luyện mình
rồi truyền thông không phải chỉ có những gì mình đã học mà còn cả cảm thức về
giá trị của điều đã được hiểu biết, đặt tầm quan trọng của việc giảng dạy. Tuy
nhiên chúng ta không thể nói nhiều về điểm này. Nhưng các sách đủ loại Ngài viết
đều là kiểu mẫu trong việc trưng dẫn các tài liệu. Chính cách trình bày cẩn
thận và điều độ và gắng để được chính xác và đúng đắn làm cho các sách ấy có
thế giá. Các tác phẩm của thánh Bêda có thể xếp thành ba loại. Các bút tích về
thần học của Ngài chính yếu gồm những phần dẫn giải thánh kinh của một thầy dạy
phần lớn dựa trên các sách giáo phụ Tây phương. Dầu thiếu sự độc sáng trong
cách trình bày, nhưng những dẫn giải của thánh Bêda ngày nay còn là phương tiện
tốt đẹp nhất để hiểu về các giáo phụ.
Các
tác phẩm về khoa học của Ngài một phần là những giải thích cổ truyền về các
hiện tượng tự nhiên, một phần bàn về niên lịch và cách tính của Đông phương.
Cách tính niên lịch của Ngài kể từ thời Chúa Giêsu Giáng sinh đã được Kitô giáo
Tây phương chấp nhận rộng rãi hơn cả.
Các
tác phẩm về lịch sử của thánh nhân có lẽ ngày nay được nhớ tới nhiều hơn hết.
Cuốn "Lịch sử Giáo hội của dân Anh" là một trong những tác phẩm quan
trọng nhất về lịch sử về thời đầu Trung cổ. Ngài đã viết cách khách quan và phê
phán cách quân bình, dựa trên những tài liệu và nhân chứng đáng tin cậy, Ngài
cũng viết một tiểu sữ về các tu viện ở Wearmonth và thơ văn về cuộc đời thánh
Cuthbert.
Kể
từ năm 679, Ngài ở hai tu viện Wearmonth và Jarrow, chăm chú thi hành bổn phận
thuộc đời sống tu trì và vẫn không ngừng viết lách và dạy học. Lời kinh ở cuối
cuốn "Lịch sử Giáo hội" trình bày lý tưởng của Ngài: - "Lạy Chúa
Giêsu nhân từ, con khẩn cầu Chúa, khi đã cho con được vui hưởng những lời khôn
ngoan của Chúa thì xin Chúa cho con một ngày kia được đến gần bên thánh nhan
Chúa".
Đương
thời, không ai nghi ngờ sự thánh thiện của thánh nhân, nhưng Ngài đã không làm
một phép lạ, không được một thị kiến và không mở ra một đường lối tu đức mới mẻ
nào. Mùa hè năm 735 vào tuổi 63, sức khỏe suy giảm, Ngài còn bị đau khổ bị bệnh
suyễn. Dầu vậy, Ngài vẫn làm việc đến giây phút cuối cùng, đọc cho thầy thơ ký
hoàn tất cuốn sách Chú giải Phúc âm thánh Gioan và 48 giờ cuối cùng trên giường
bệnh. Đúng ngày lễ Thăng thiên 27 tháng 5 năm 735, thánh Beda từ trần.
Thánh GRÊGORIÔ VII
Giáo Hoàng (1028 -
1085)
Thánh
Gregoriô hay là Hildebrand theo tên rửa tội, sinh khoảng năm 1028. Gia đình
Ngài không thuộc dòng tộc quí phái và có thuộc gốc Do thái. Thấy con mình thông
minh lại hiếu học, thân phụ thánh nhân gởi Ngài tới thụ huấn với người chú là
Tu viện trưởng Đức Bà Maria ở Aventin, Hildebrand đã trở thành một tu sĩ dòng
Bênêdictô.
Tuy
nhiên khả năng đặc biệt của Ngài đã sớm kéo Ngài ra khỏi hàng rào tu viện để
phục vụ tại giáo triều. Khi đắc cử giáo hoàng, trên đường về nhận chức, Đức Leo
IX ghé qua Cluny
và dẫn theo thày dòng trẻ tuổi Hildebrand để làm cố vấn cho mình. Đức giáo
hoàng đã trao cho Ngài điều khiển tu viện thánh Phaolô và đặt làm hồng y. Đức
giáo hoàng Leo IX là vị tiên khởi trong cuộc cải cách Grêgoriô, danh hiệu dựa
vào khuôn mặt sáng giá nhất cuộc cải cách này, nhưng chính đức Leo là người
khởi xướng.
Kể
từ việc đề cử của Đức Leo IX Hildebrand đã có ảnh hưởng lớn lao trong nhiều
triều đại liên tiếp. Khi được cử làm đặc sứ tại Pháp Đức Hồng y Hildebrand, đã
chống lại nhiều tập tục xấu. Trong hội đồng họp ở Tour, Ngài đã buộc Berenger
từ bỏ những lầm lạc của mình. Thế là chính Ngài đã giữ phần quyết định trong
cuộc tranh luận về bí tích Thánh Thể giữa Lanfranc và Berenger. Ngài ủng hộ
giáo thuyết về sự biến thể của Lanfranc nhưng cũng giảm bớt sức đối kháng để
trình bày cách mầu nhiệm hơn.
Dưới
ảnh hưởng của Đức hồng y Hildebrand, chức giáo hoàng ngày càng nghịch với hoàng
đế hơn. Một liên minh hình thành với nhiều nhà cai trị ở miền nam nước Ý chống
lại các Hoàng đế nhà Hohenstanen. Đức giáo hoàng nâng đỡ phong trào quần chúng
chống lại hoàng đế ở Milanô nhưng tâm điểm đường lối chính trị của tòa thánh
được diễn tả trong việc chọn lựa Đức Giáo hoàng, dành riêng cho hồng y đoàn.
Nói cách khác, ảnh hưởng của hoàng để bị rút lại, nếu không nói là bị hủy bỏ.
Năm 1073 dưới ảnh hưởng đã trở nên lớn mạnh, Đức Hồng y Hildebrand đắc cử giáo
hoàng với hiệu Gregoriô VII.
Tình
hình Giáo hội lúc này thật đáng buồn với nhiều thảm trạng đang diễn ra. Đích
thân giáo hoàng thấy rõ những điều đó, sống khắc khổ như một thày dòng, Ngài đã
sáng ngời như mặt trời chiếu dãi vào ngôi nhà Giáo hội. Đầy uy quyền trong lời
nói và việc làm, Ngài đã nỗ lực tái lập kỷ lục truyền bá đức tin, diệt trừ các
lỗi lầm. Nhất là Ngài được chống lại hoàng đế Henri IV nước Đức. Ông hoàng này
ham mê khoái lạc và tham lam, đã dám bán quyền giám mục và các chức vụ trong
Giáo hội cho những người bất xứng.
Năm
1075, Đức Gregoriô VII đã tuyên bố phạt mọi người ở bất cứ địa vị nào dám dùng
tiền để mua bán chức thánh. Với tình phụ tử, Ngài cảnh cáo hoàng đế Henri IV và
các lạm quyền của ông. Tức giận ông bắt cóc Đức Giáo hoàng đang khi Ngài làm lễ
và giam ngục. Nhưng rồi dưới áp lực của dân Roma, ông phải thả Ngài ra. Đức
giáo hoàng đã tha thứ cho ông. Tuy nhiên nhà vua vẫn ngoan cố. Năm 1076, ông
triệu tập một số giám mục rồi đặt Gnibert de Ravenna làm giáo hoàng. Đức
Gregoriô VII liền ra vạ tuyệt thông Henri IV. Hối hận và sợ các quan bất phục,
Henri IV lo giữ ngôi bằng cách đến Canossa làm
việc đền tội.
Ngày
28 tháng giêng năm 1077, Đức giáo hoàng giải vạ cho ông.
Một
thời gian sau Henri IV lại trở mặt, ông cầm quân sang Roma để bắt Đức Giáo
hoàng. Nhưng Đức Gregoriô đã kịp thời rút lui về Sôlerna và qua đời tại đây năm
1085. Trước khi qua đời Ngài đã nói: - Ta yêu mến điều công chính và chê ghét
sự gian tà nên mới phải chết ở chốn lưu đày này.
Người
ta đã nói tới cuộc cải cách thời Gregoriô. Phải nhận đinh rằng ý tưởng của Ngài
rất cao thượng, Ngài quan niệm hàng giáo sĩ được đặt ra ngoài mọi người khác
bởi phép truyền chức thánh làm thành một cộng đoàn siêu nhiên ấn định bởi quyền
ban bí tích và được cai quản bởi đấng kế vị thánh Phêrô. Họ phải sống xứng đáng
với phận vụ thiêng liêng, Ngài nhiệt hành ủng hộ luật độc thân của giáo sĩ và
chống lại mọi thứ buôn thần bán thánh.
Ngài
cũng nỗ lực diệt trừ mọi can thiệp vào việc chọn giám mục, nhất là sự can thiệp
của hoàng đế. Dầu không thành công trong việc này, nhưng chắc chắn đã làm thay
đổi thái độ của mọi người đối với Giáo hội.
Sau
khi đã từ trần, lý tưởng canh tân Giáo hội của Ngài mới rõ rệt hơn, sắc bén hơn
và tiến gần tới hiện thực hơn.
Thánh MARIA MADALENA
ĐỆ PAZZI
(1566 - 1607)
Thánh
Maria Madalena Pazzi sinh năm 1566 tại Florence .
Khi rửa tội Ngài được đặt tên là Catarina. Ngay từ nhỏ, Ngài đã ham thích cầu
nguyện và làm việc lành. Muốn cho Ngài vui thích, cứ việc đọc cho Ngài nghe
truyện các thánh hay là dẫn Ngài tới nhà thờ.
Lên
7 tuổi lòng thương người của Ngài đã tiến xa tới độ nhịn ăn để giúp đỡ người
nghèo. Có dịp về miền quê, niềm vui chính của Ngài là tập họp trẻ em lại để dạy
giáo lý cho chúng. Một lần kia, khi mới bắt dầu dạy đạo cho một em bé con một
nông dân, thì Ngài phải báo cho biết là phải trở về Florence . Ngài đã buồn rầu đến độ không cầm
được nước mắt, Cha Ngài chỉ có thể an ủi Ngài bằng cách dẫn em bé ấy về để dạy
cho xong.
Thánh
nữ có lòng sùng kính phép Thánh thể một cách đặc biệt. Lên 10 tuổi, tức là năm
1576, Ngài được rước lễ lầ đầu. Dịp này, Ngài đã khấn dâng mình trọn vẹn cho
Chúa. Năm 13 tuổi Ngài còn tự ý làm một mão gai để đội đầu mỗi khi đi ngủ để
cảm thông với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô.
Đến
16 tuổi, Catarina đã ao ước được gia nhập dòng Carmêlô. Sau một thời gian luỡng
lự, cuối cùng cha mẹ Ngài đã chấp nhận, Catarina vào dòng ngày 14 tháng 8 năm
1582 và ngay 30 tháng giêng năm 1583, được mặc áo dòng với danh hiệu Maria
Madalena. Cuộc đời Ngài là một phép lạ liên tục. Một cơn bệnh xâu xé Ngài. Có
nữ tu hỏi thánh nữ xem bí mật nào đã giúp Ngài nhẫn nại chịu đựng như vậy, chỉ
vào cây thánh giá Ngài trả lời: - Hãy xem điều Chúa Giêsu đã làm để cứu chuộc
tôi. Những ai nhớ tới những đau khổ của Chúa Giêsu và dâng những đau khổ của
mình lên Thiên Chúa, họ chỉ còn thấy êm ái đối với những gì mình phải chịu mà
thôi.
Đau
đớn vì bệnh hoạn, thánh nữ lại hay xuất thần. Những yếu tố ấy đều góp phần xây
dựng đời sống thánh thiện của Ngài. Dù suốt năm năm liền kể từ tháng 6 năm
1585, Ngài đã phải trải qua một cuộc thử thách dữ dằn, Thiên Chúa cho Ngài thấy
sự dữ đang diễn ra trong Giáo hội, những xúc phạm do hàng giáo sĩ và do các
giám mục gây nên. Các tu sĩ trong cộng đoàn vấp phạm vì những khuyến cáo Ngài
trình lên Đức gíao hoàng và các đức giám mục để thực hiện cuộc canh tân. Sự
nghi ngờ của họ trở thành sự khinh bỉ, khi thánh nữ chịu cơn thử thách khủng
khiếp này, là thấy mình bị Thiên Chúa bỏ rơi. Thêm vào đó, Ngài còn bị cám dỗ
trở nên kiêu căng thất vọng.
Dầu
vậy, ý chí của Ngài bám chặt vào Chúa không ngơi, Ngài chỉ còn biết rên rỉ: -
Tôi không hiểu mình có còn trí khôn nữa không. Tôi không thấy mình còn có gì
đáng kể ngoài một chút thiện chí là không bao giờ dám xúc phạm đến Thiên Chúa.
Nhưng
nhìn lên thánh giá Ngài thêm phấn khởi: - Đừng chết, nhưng chớ gì được chịu đau
khổ mãi.
Bị
cám dỗ quá, Ngài gieo mình vào bụi gai, bình thường Ngài hãm mình kinh khủng và
thường mặc áo nhặm.
Năm
năm bão tố trôi qua nhằm lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trong khi hát kinh tạ
ơn, Maria Madalena đã bỗng xuất thần và thưa với bề trên trong niềm vui mừng: -
Bão tố qua rồi, xin hãy giúp con cảm tạ Chúa tạo thành khả ái.
Từ
đây Ngài chỉ còn ước muốn vô cùng là được làm việc để tôn vinh Chúa và mưu ích
cho các linh hồn. Ngài luôn tìm kết hiệp với thánh ý Chúa. Thánh Thần đọc cho
Ngài những ý tưởng thâm sâu và hai chị thơ ký đã ghi thành một pho sách được
các người nhân đức và thông thái ở Ý chuẩn nhận.
Với
nhiệt tình, Ngài đã nguyện hy sinh không muốn biết đến một sự dịu ngọt nào nữa.
Khi làm phó bề trên, Ngài bị tật bệnh dày vò lại còn mất ơn an ủi, cha linh
hướng tìm cách an ủi, nhưng Ngài nói: - Không, đó không phải là thứ an ủi con
tìm kiếm. Con chỉ ước mong được đau khổ đến lúc cuối đời. Khi sắp từ trần thánh
nữ nói:
-
Tôi sắp từ giã mà không hiểu tại sao một thụ tạo lại quyết tâm phạm tội chống
lại Chúa tạo thành được.
Với
các nữ tu vây quanh, Ngài nói những lời sau cùng: - Tôi sắp từ giã các chị để
đi vào vĩnh cửu, tôi xin các chị như là một ân huệ cuối cùng là chỉ yêu mến một
mình Chúa, đăt trọn niềm hy vọng nơi Ngài và chịu đựng tất cả vì tình yêu Ngài.
Thánh
nữ từ trần ngày 25 tháng 5 năm 1607. Thân xác Ngài vẫn còn nguyên vẹn cho tới
ngày nay.
(daminhvn.net)
25 Tháng Năm
Cái Bật Lửa
Ðể kỷ niệm một trận
chiến, một quận công bên Anh Quốc đã làm một bữa tiệc khoản đãi một nhóm cựu sĩ
quan đã từng chiến đấu sát cánh bên ông.
Trong bữa tiệc, ông dem
khoe một cái bật lửa rất đẹp mà Nữ hoàng Anh đã tặng cho ông. Cái bật lửa đã
được truyền từ tay người này đến tay người nọ để được trầm trồ khen ngợi.
Sau bữa ăn, mọi người
được mời ra phòng khách để uống trà. Ông quận công mới đem thuốc lá ra mời mọi
người. Nhưng mặt ông bỗng biến sắc, vì ông lục lạo mãi trong túi áo mà vẫn
không tìm ra cái bật lửa. Ông hỏi quan khách có ai thấy nó ở đâu không. Mọi
người chia nhau đi tìm khắp nơi mà tuyệt nhiên vẫn không thấy cái bật lửa. Lúc
bấy giờ, một viên sĩ quan mới đề nghị cho tất cả mọi quan khách nên lật túi áo của
mình ra may ra mới có thể tìm thấy nó chăng. Lần lượt tất cả mọi người đều kéo
tất cả những gì có trong túi áo của mình ra. Duy chỉ có một người không chịu
chấp nhận công việc này. Mọi người đều đưa mắt nhìn về ông và ai cũng đoán chắc
đây là người đã đánh cắp cái bật lửa, bởi vì dáng vẻ của ông tiều tụy, áo quần
của ông lại rách rưới. Ông lấy danh dự của một cựu sĩ quan để thề thốt và dứt
khóat không mở túi áo ra cho mọi người xem.
Vài tuần lễ sau, ông quận
công lại mở một bữa tiệc khác và lần này, ông khám phá ra cái bật lửa trong túi
áo của ông. Cảm thấy xấu hổ vì đã nghi oan cho một viên sĩ quan đã từng chiến
đấu bên cạnh mình, ông quận công đã quyết định đến thăm anh ta để xin lỗi.
Nhà của viên cựu sĩ quan
này nằm trong khu phố lầy lội nghèo nàn. Sau khi đã xin lỗi, ông quận công đã
hỏi viên sĩ quan: "Tại sao trong bữa tiệc hôm đó, anh đã khước từ không mở
túi ra cho mọi người xem?".
Anh ta mới giải thích như
sau: "Hẳn ngài đã thấy được căn nhà tôi đang ở tồi tàn như thế nào. Từ
lâu, tôi đã thất nghiệp mà vẫn phải nuôi nhiều miệng ăn trong nhà. Ngài đâu có
biết rằng hôm đó, tôi đã nhét vào túi tôi tất cả những đồ ăn thừa trên bàn để
mang về cho vợ con tôi".
Sau khi hiểu được hoàn
cảnh đáng thương của một người đã từng vào sinh ra tử với mình, ông quận công
quyết định đền bù bằng cách tìm cho viên cựu sĩ quan một công việc xứng đáng.
Câu
chuyện đáng thương tâm trên đây có lẽ cũng diễn ra trong cuộc sống chúng ta
dưới nhiều cấp độ và hình thức khác nhau. Nhưng tựu trung, có lẽ mẫu số chung
của câu chuyện ấy thường giống nhau: đó là chúng dễ nhìn và đoán xét người theo
bề ngoài. Lại nữa, một xã hội có quá nhiều lừa gạt đảo điên cũng khiến cho
chúng ta có thái độ e dè, nghi kỵ đối với những người thân thuộc.
Là
tín hữu, chúng ta hãy nhìn ngắm cung cách cư xử của Chúa Giêsu. Ngài không nhìn
người bằng nhãn hiệu có sẵn. Ngài không đến với người bằng những định kiến. Bên
kia bộ quần áo sang trọng hay rách rưới, Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy hình ảnh cao
quý của chính Thiên Chúa. Ngài dành yêu thương cho những người nghèo khổ,
phường thu thuế, bọn gái điếm, những kẻ tội lỗi, những ngwòi con bị xã hội đẩy
ra bên lề. Ngài muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chỉ có một cái nhìn duy nhất
về con người: đó là cái nhìn của cảm thông, của tha thứ, của yêu thương.
(Lẽ Sống)
Thứ Bẩy 25-5
Thánh Mađalêna Sôphi Barat
(1779 -- 1865)
S
|
inh ở Burgundy, nước Pháp, trong một gia đình trồng nho, Thánh
Mađalêna được sự hướng dẫn chu đáo và rất kỷ luật của người anh ruột, tên
Louis, sau này là linh mục. Trong thời kỳ Cách Mạng, anh Louis bị cầm tù và sau
đó cùng với cô em gái trốn lên Balê, là nơi thánh nữ được học hỏi về tôn giáo.
Mađalêna ao ước phục vụ Thiên Chúa qua tính cách của một trợ sĩ
dòng Camêlô. Nhưng đó không phải là ý Chúa. Một nhóm linh mục người Pháp thuộc
tu hội Thánh Tâm muốn thành lập một tu hội nữ để giáo dục các cô gái, và Cha
Varin, người trưởng nhóm nghe biết về Mađalêna, do đó vào năm 1800, cha đã chấp
nhận Mađalêna cùng với ba người khác như các nữ tu và giao cho họ công việc
thiết lập một tu hội giáo dục. Nhà trường đầu tiên của Tu Hội Thánh Tâm Chúa
Giêsu được thành lập ở Amiens
năm 1801.
Sau một năm hoạt động, Mađalêna được chọn làm bề trên dù lúc ấy
mới 23 tuổi -- trẻ hơn các nữ tu khác, và sơ đã điều hành tu hội trong vòng 63
năm kế tiếp.
Tu hội phát triển trên toàn nước Pháp, hấp thu các nữ tu thuộc tu
hội Thăm Viếng ở Grenoble (trong số đó có Chân Phước Philippine Duchesne, là
người đưa tu hội sang Hoa Kỳ năm 1818), và Tu Hội Thánh Tâm Chúa Giêsu đã được
Ðức Giáo Hoàng Lêô XII chính thức công nhận vào năm 1826.
Năm 1830 đệ tử viện của Tu Hội ở Poitiers bị lực lượng cách mạng
đóng cửa, và Sơ Mađalêna đã thành lập một đệ tử viện khác ở Tân Tây Lan.
Cho đến khi ngài từ trần, ngày 21 tháng Năm 1865 ở Balê, tu hội đã
thành lập được 105 trường trong 12 quốc gia.
Ngài được phong thánh năm 1925.
Lời Trích
Thánh Mađalêna Barat thường nói với các nữ tu trong tu hội, "Sự
cần cù làm việc, là kẻ thù của linh hồn bất toàn, đem lại kết quả dồi dào cho
những ai yêu mến Thiên Chúa."
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét