Trang

Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2013

03-11-2013 : (phần II) CHÚA NHẬT XXXI MÙA THƯỜNG NIÊN năm C

CHÚA NHẬT 03/11/2013
Chúa Nhật 31 Quanh Năm Năm C
(phần II)



Giáo Lý Phúc Âm Chúa Nhật XXXI Quanh Năm C, ngày 3.11. 2013
CHÚA NHẬT XXXI QUANH NĂM, NĂM C
Sách Ngôn Ngoan 11.22-12:2; Thư Thứ Hai của Thánh Phaolô gửi tín hữu Tessalonica 2.11-2:2
 và Phúc Âm Thánh Luca 19.1-10

I.                   Giáo Huấn P.Â.:   
Thiên Chúa là tình yêu được thể hiện qua việc tìm kiếm, hoán cải người tội lỗi, để tất cả mọi người đều được cứu độ.
Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất. Phải tìm gặp Ngài để nhận ơn cứư độ.

II.        Vấn nạn P.Â.    
Chủ đề Phúc Âm Thánh Luca được trình bày trong các Chúa Nhật gần đây: Chúa là tình yêu, Đấng thương xót, chữa lành, hoán cải và cứu độ nhân loại.

Luôn tin vào Thiên Chúa tình yêu. Hãy để Thiên Chúa hành động qua mọi công việc như được trình bày trong bài Phúc Âm Luca 17. 5-10, Chúa Nhật thứ 27 Mùa Quanh Năm, khi các tông đồ xin Chúa tăng thêm đức tin cho họ. Dù đức tin nhỏ bé chỉ bằng hạt cải, nhưng với Thiên Chúa quyền năng, họ có thể chuyển núi dời non.

Mười người phung cùi đã tin vào Thiên Chúa tình yêu và kêu cứu “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” Họ đã được toại nguyện, tất cả được chửa lành, được phục hồi nhân phẩm làm con cái Thiên Chúa như đã được tường thuật trong Phúc Âm Luca  17.11-19, Chúa Nhật 28 Mùa Quanh năm.

Thiên Chúa là tình yêu sẵn sàng nghe lời kêu cứu của người nghèo và bị áp bức. Điều nầy được tìm thấy qua dụ ngôn bà goá kiên tâm kêu oan và Ông quan toà tắc trách. Thiên Chúa tình yêu là cha chúng ta, không lẽ Ngài không nghe lời chúng ta cầu xin và ban cho chúng ta những ơn cần thiết. Chủ đề nầy được tường thuật trong Phúc Âm Luca 18.1-8, trong Chúa Nhật 29 Quanh Năm vừa qua.

Thiên Chúa là tình yêu sẵn sàng ban ơn công chính cho ai xin như trong câu chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện. Người Biệt Phái tưởng mình đã công chính, nên không xin ơn công chính hoá, mà chỉ đòi Chúa trả công. Trái lại người thu thuế tội lỗi, đấm ngự sám hối, kêu xin lòng thương xót Chúa và được ơn hoán cải. Luca đã trình bày thật sống động hai con người khác biệt: Người Biệt Phái không nhận ra Thiên Chúa tình yêu, mà Thiên Chúa của Ông chỉ là một người nghe Ông kể công và ban thưởng theo kiểu công thức toán học. Trái lại, người thu thuế, ý thức về tội và cũng ý thức về tình yêu tha thứ của Thiên Chúa, nên đã để tình yêu Chúa chinh phục mình và nhận ơn cứu độ Chúa ban. Điều nầy thấy rõ trong Phúc Âm Luca 18.9-14 được đọc trong Chúa Nhật 30 vừa qua.

Chúa Nhật 31 quanh năm nầy, Phúc Âm Luca 19.1-10 trình bày không phải là dụ ngôn, nhưng là cầu chuyện có thực: Thiên Chúa là tình yêu, đích thân đi tìm người tội lỗi và làm bạn với họ. Vì Thiên Chúa tình yêu nhập thể và nhập cuộc, nên đã hoán cải tội nhân và mọi người đều được cứu độ. Tuy nhiên, tội nhân cần “tò mò” tìm gặp Chúa và Chúa sẽ ngước mắt yêu thương mời gọi họ nhận ơn cứu độ.

Tường thuật thú vị và ý nghĩa trong Phúc Âm Luca về chuyện Ông trùm thuế vụ Gia Kêu: Người lùn và bị đời coi khinh – Cây cao cho Ông thấy Đấng tối cao đang dưới thấp – ơn hoán cải: sự nâng cao.
Như đã nói, người thu thuế làm việc cho đế quốc La Mã, thu thuế trên chính đồng hương mình. Trước mắt mọi người, thu thuế bị khinh ghét và xếp vào hàng tội lỗi đáng xa tránh. Gia Kêu trong bài Phúc Âm hôm nay bị đáng ghét gấp hai lần: Ông là trùm thâu thuế, tức Ông đấu thầu quyền thâu thuế. Ai thắng thầu thì phải trả tiền trước cho La Mã, sau đó đi mướn người thâu thuế lại từ dân. Dáng vấp Ông lại thiếu thước tấc, thấp lùn khó có cảm tình. Người dân quê Việt Nam cũng hay nói: đừng chơi nhà thằng lé, đừng ghé nhà thằng lùn!

Gia Kêu thấp lùn trong dáng vấp mà còn tội lỗi thấp hèn. Cây Sung trong bản văn tiếng Việt không diễn tả đúng lắm cây sykomorea, một loại cây vừa có thân chỉ khá cao, nhưng đồng thời cũng nhiều cành lá sum xuê rợm bóng mát. Đặc tính của loại cây sung nầy là dễ leo lên, cũng như có thể nằm tựa trên những thân phụ rất lớn của cây. Cây Sung trong câu chuyện Gia Kêu là một thể loại diễn tả một trung gian, một người giúp người lùn, hay người thấp bé tội lỗi nâng mình lên cao. Từ đó người lùn hay thấp hèn tội lỗi nấy có thể nhìn thấy những hành động trần tục, tội lỗi hay tham lam xấu xa của mình. Cách chung là được nâng lên khỏi thế tục.

Thiên Chúa Đấng tối cao đang đồng hành với người trần dưới đất thấp hèn:  Cây Sung cao đưa Gia Kêu lùn và thấp hèn lên cao để nhìn thấy Thiên Chúa cao cả. Nhưng Thiên Chúa tối cao nầy là Đấng làm người, Đấng bỏ trời cao xuống làm bạn với người thấp hèn tội lỗi. Từ trên cây cao hay nhờ ơn Chúa, Gia Kêu, người lùn và thấp hèn nhìn ra Thiên Chúa tình Yêu nhập thể đang đồng hành với con người thấp hèn. Ơn hoán cải bắt đầu: Nhờ Chúa ngước mắt nhìn thấy người lùn thấp hèn đang muốn được nâng lên cao.

Ơn hoán cải: Nâng lên cao. Chúa ngước mắt nhìn thấy Gia Kêu và biết Ông muốn gì: Ông muốn thấy Chúa như thế nào? Chúa là Thiên chúa tình thương đến để kêu gọi người tội lỗi. Ngài đề nghị về nhà Ông ăn cơm tối. Thiên Chúa, Đấng cao cả đồng bàn với người lùn thấp hèn tội lỗi. Biến cố nhớ đời cho Gia Kêu: Lần đầu tiên có người không khinh ghét và xa tránh Ông, lại đến làm bạn với Ông. Chúa đến, nâng ông lên khỏi những gì là tham lam, tội lỗi và phù hoa: Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn!” Chúa Giêsu ban ơn tha tội cho Gia Kêu: Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà nầy, bởi người nầy cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gỉ đã mất”.

Thành phố Giêricô là một trong những thành phố cỗ nhất thế giới, tuổi già của nó đã hơn 8500 năm trước Công nguyên. Giêricô cách thủ đô Giêrusalem chừng 27 cây số về phía Đông Bắc, ở độ  thấp hơn 300 mét so với mặt biển, toạ lạc ở khoảng cách chừng 15 cây số, nơi sông Giôđan đổ vào biển chết và cách bờ sông chừng sáu cây số. 

Giêricô nguyên ngữ từ tiếng Do Thái YERAH, có nghĩa là mặt trăng hay tháng hay tuần trăng mới. Người ta đoán rằng, có thể những thổ dân đầu tiên của Giêricô thờ thần mặt trăng và quan sát sự xuất hiện của trăng mà dự đoán thời tiết cho canh nông chăng? Ưu điểm thiên nhiên của Giêricô là nước. Nước rất dồi dào, nên cây cối nhất là dừa rất tốt. Từ đó có tên Thành Phố Cây Dừa, đặc biệt là cây chà là.

Du khách đến thăm Giêricô không thể bỏ qua những di tích lịch sử, đặc biệt cung điện Mùa Đông của Hêrôđê Cả. Trên một ngọn đồi, Hêrôđê đã thiết kế cho mình một vương quốc thật an toàn, đề phòng sự lấn chiếm của La Mã. Ai cũng phải trầm trồ khen ngợi tài thiết trí và phòng bị của Hêrôđê cả: Cổng thành rất kiên cố, lối thoát thân kín đáo khi bị phong toả, nhất là hệ thống dẫn nước từ trên núi xuống cung cấp cho hoàng cung. Người ta cũng không thể bỏ qua những thảm dệt thật khéo léo của hơn 2000 năm trước. Không thua gì những thảm dệt ngày nay. Thành phố Giêricô cực thịnh vào khoảng nằm 105 trước Công Nguyên và bị phá huỷ bình địa năm 70 sau Công Nguyên, năm La Mã phong toả và giải tán Do Thái.

Kinh Thánh, cả Cựu và Tân Ước có nhiều biến cố liên quan đến thành phố Giêricô. Dân Do Thái từ Ai Cập về đánh chiếm thành trong bảy ngày, mỗi ngày họ đi chung quanh thành một lần, đến ngày thứ bảy họ đi chung quanh bảy lần và thành tự động sụp đổ và thuộc quyền thống lĩnh của Do Thái như trong sách Giosuê 6:26; Quyển I sách các Vua 16:34 tường thuật.

Thời Chúa Giêsu, câu chuyện người mù tên Bartimêô là người thành Giêricô, được chửa lành. Câu chuyện được tường thuật trong các Phúc Âm: Matthêô 20:29-34; Marcô 10:46-52; và Luca 18:35-43. Rồi đặc biệt hôm nay, Ông Gia Kêu, trùm thuế vụ thành Giêricô được Chúa đến thăm tận nhà và hoán cải.

III.      Thực hành P.Â.:
Với hai con mắt như nhau, nhưng người ta có cái nhìn khác nhau:
Người yếu thế, cần giúp đỡ thường có cái nhìn van xin, cầu khẩn.
Người quyền thế, giàu sang có cái nhìn kiêu căng, khinh người.
Người thích ra oai hay khống chế kẻ khác có cái nhìn trừng trừng, thị uy.
Người dâm đảng có cái nhìn chòng chọc, bốc cháy.
Ngưới không thành thật có cái nhìn né tránh, bâng quơ.
Người tình cảm chân thành có cái nhìn trìu mến, khoan dung
Người nhân ái từ tâm có cái nhìn khoan dung, rộng lượng tha thứ.

Chúa đã nhìn thấy Gia Kêu trên cây Sung. Chúa nhìn ông với ánh mắt nhân từ yêu thương và mời gọi. Ông nhìn Chúa, lúc đầu tò mò, nhưng rồi chân thành và xúc động.

Ánh mắt nào chúng ta đã nhìn người khác. Nhiều anh em linh mục chúng tôi thích nhìn trừng trừng thị uy. Thất bại! Càng ngày con người càng ý thức về nhân phẩm của mình. Linh mục cũng là người như mọi người, có ưu và khuyết điểm. Linh Mục là một Chúa Kitô khác, nên nhìn người khác với ánh mắt nhân ái bao dung và quảng đại. Chỉ có tình thương mới có sức thu hút và hoán cải. Quyền hành không còn thích hợp với não trạng của con người ngày nay.

Trong những người thân yêu, tôi nhớ Má tôi nhiều nhất. Tôi nhớ nhất ánh mắt của bà: ánh mắt từ mẫu: trìu mến, khoan dung và thuyết phục. Tôi cương quyết, bất chấp và đôi khi lì lợm, nhưng luôn yếu mềm khi nhớ đến ánh mắt của Mẹ tôi.

Lm. Phêrô Trần thế Tuyên


Hoán cải đích thực

Gặp gỡ Chúa Giêsu là một biến cố hồng phúc cho con người, nếu người đó không lo sợ hoặc tránh né cuộc gặp gỡ này.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu. Chúng ta có thể ghi nhận hai thái độ trong cuộc gặp gỡ này.
Trước hết là thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính mà khinh dễ kẻ khác, không muốn cho kẻ khác đến gặp Chúa và nhận lãnh ơn lành của Chúa. Đó là thái độ của những kẻ lẩm bẩm trách Chúa đã niềm nở đón tiếp những người tội lỗi và ăn uống với họ, bởi vì đối với Chúa không có ai xấu xa tội lỗi đến độ không đáng được hưởng lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Liệu chúng ta có thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính và khinh dễ người khác không?
Thái độ thứ hai là thái độ của ông Giakêu, người thu thuế trưởng và giầu có. Đối với người Do thái, người thu thuế là kẻ tội lỗi công khai: đó là tội phản bội quê hương cộng tác với ngoại bang, và tội gian lận tiền thuế quá mức qui định. Giakêu là người thu thuế trưởng và giầu có, sự giầu có này theo lý luận của người Do thái, chứng tỏ ông có những hành vi bất chính để làm giầu: thu nhiều, nộp ít, và như vậy ông là một người tội lỗi. Đối với người đồng hương với Giakêu, thì tội của ông không thể tha thứ được; nhưng đối với Chúa Giêsu, Đấng đến tìm và cứu những gì đã hư mất, thì đây là dịp để thể hiện tình thương nhân từ của Thiên Chúa.
Nơi con người tội lỗi Giakêu vẫn còn một khát vọng hướng về Chúa: ông muốn nhìn xem Chúa Giêsu đi qua, và đây là yếu tố căn bản để được Chúa thi ân. Từ một khát khao gặp Chúa đến việc ăn năn trở lại không có khoảng cách không vượt qua được, vì Chúa Giêsu có thể vượt qua khoảng cách này một khi con người đã có sẵn thái độ chờ mong Ngài đến. Thái độ của Giakêu có thể khuyến khích chúng ta trở về với Chúa. Ông đã thể hiện sự trở lại của mình bằng một hành động cụ thể thiết thực: phân chia nửa phần tài sản cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thể hiện một cách cụ thể sự hoán cải của mình. Xin cho chúng ta đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa, nhưng luôn biết cộng tác với ơn Chúa và thành tâm trở về với Chúa.
Radio Veritas Asia
(Trích dẫn từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Lectio: Chúa Nhật XXXI Thường Niên (C)
Chúa Nhật, 3 Tháng 11, 2013
Sự hoán cải của Giakêu   
Lc 19:1-10 


1.  Bài Đọc

a)  Lời nguyện mở đầu

Lạy Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng Trời Đất và là Cha của tất cả các con cái Abraham, xin ban cho chúng con ánh sáng của Thần Khí Chúa để chúng con có thể phục vụ Chúa một cách tốt đẹp và xứng đáng, xin ban cho chúng con có thể đi theo những bước chân của Lời Chúa và để các hành động cử chỉ của chúng con có thể phản ảnh rằng chúng con là các môn đệ của Đức Giêsu, Đấng đã xuống thế làm người vì tình yêu chúng con và vì sự cứu rỗi của chúng con.

b)  Phúc Âm: 
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, 2 thì kìa, có một người tên là Giakêu xuất hiện; ông là thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có.  3 Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé.  4 Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó.  5 Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng:  “Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi.”  6 Ông vội vàng trèo xuống và vui vẻ đón tiếp Người.  7 Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng:  “Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi.”  8 Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng:  “Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn.”  9 Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng:  “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham.  10 Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất.” 
b)  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:

Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

2.  Suy Gẫm
                            
a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:

Trong câu chuyện Phúc Âm, thánh Luca ưa thích cho thấy lòng thương xót của Đức Giêsu đối với những người tội lỗi và đoạn Tin Mừng Lc 19:1-10 là một ví dụ điển hình.  Câu chuyện về sự hoán cải của Giakêu nói cho chúng ta biết rằng không có một tình trạng con người nào mà không thích hợp với ơn cứu độ:  Chúa Giêsu nói rằng:  Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi vì người này cũng là con cái Abraham (Lc 19:9).  Lời mở đầu của chương 19 được đưa ra sau khi Chúa Giêsu dạy cho chúng ta những giáo lý và thái độ sống trong chương 18.  Trong chương đó, chúng ta thấy có dụ ngôn về người Biệt Phái là kẻ phán đoán và người Thu Thuế là kẻ đang khiêm nhu hạ mình trước mặt Thiên Chúa và van xin sự tha thứ (Lc 18:9-14).  Kế đến, có cảnh Chúa Giêsu đón chào các trẻ thơ, cảnh báo các môn đệ rằng nước Thiên Chúa là của những ai giống như trẻ thơ…  ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào (Lc 18:16-17). Ngay sau đó, Chúa Giêsu nói với nhà thủ lãnh giàu có là kẻ muốn có được sự sống đời đời (Lc 18:18) rằng ông ta cần phải bán tất cả những gì ông có mà phân phát cho người nghèo để theo Chúa Giêsu và có được một kho tàng trên trời (Lc 18:22).  Sau đó là giáo lý của Chúa Giêsu về sự giàu có là một trở ngại cho sự cứu rỗi và sự hứa hẹn một phần thưởng cho những ai từ bỏ tất vì lợi ích của Nước Thiên Chúa (Lc 18:24-30).  Những phần này của chương 18 dường như dẫn chúng ta đến câu chuyện việc hoán cải của Giakêu.  Trước câu chuyện của Giakêu chúng ta có hai bản văn chứa các chi tiết quan trọng:

1.    Lời tiên báo lần thứ ba về cuộc thương khó, nơi Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng bây giờ chúng ta sẽ lên Giêrusalem (Lc 18:31).  Dường như thánh Luca muốn sắp đặt mọi thứ trong bối cảnh của việc đi theo Chúa Giêsu; và
2.    Việc chữa lành người mù tại Giêricô, người đã kêu cùng Chúa Giêsu, mặc dù đám đông đã ngăn cản anh ta đến gần Chúa ( Lc 18:35-39).  Một lần nữa, Chúa Giêsu đem đến ánh sáng cho đôi mắt tối tăm và nói rằng đức tin đã chữa người đàn ông mù này (Lc 19:42).  Sau khi anh ta nhìn thấy được, người mù đã đi theo Chúa Giêsu và tôn vinh Thiên Chúa (Lc 18:43).

Hai đoạn văn này cùng với những đoạn trước đây làm sáng tỏ câu chuyện trở lại của Giakêu.  Trong câu chuyện này, chúng ta thấy các chi tiết đáng ngạc nhiên đã được hiện diện trong các đoạn văn nêu trên:

1.    Giakêu là một người giàu có và là thủ lãnh những người thâu thuế – Lc 19:2
2.    Ông ta tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá – Lc 19:3
3.    Ông ta thấp bé – Lc 19:3
4.    Đám đông lên án Giakêu:  người tội lỗi – Lc 19:7
5.    Việc bố thí của cải cho kẻ khó – Lc 19:8
6.    Lời công bố của Chúa Giêsu rằng ơn cứu độ đã đến nhà của Giakêu – Lc 19:9

Giakêu, một người thấp bé, giàu có và là thủ lãnh của những người thu thuế, đón tiếp Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ.  Ông ta hạ mình và ăn năn về quá khứ của mình và do đó tìm thấy ơn cứu độ từ Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, người Samaritanô nhân lành (Lc 10:29-37) Đấng đã đến với chúng ta để tìm và cứu những gì đã mất (Lc 19:10).  Đây là một chủ đề thân yêu của Luca và chúng ta tìm thấy điều này trong các phần khác của câu chuyện Phúc Âm của ông (ví dụ: Lc 15: 11-31).

b)  Một vài giây phút cho việc suy gẫm cá nhân:

Bạn hãy đặt mình trong thinh lặng trước Lời của Chúa và suy gẫm đoạn Kinh Thánh được trình bày trong chìa khóa này dẫn đến bài đọc.  Bạn hãy tự hỏi mình:

1.    Sự nối kết giữa những văn bản này là gì?
2.    Ơn cứu độ mang ý nghĩa gì đối với bạn?
3.    Giakêu, một người thấp bé, cho thấy sự sẵn lòng đón tiếp Chúa bằng cách trèo lên cây sung.  Sự tò mò của ông ta đã được đền bù bằng chuyến thăm viếng của Chúa Giêsu.  Bạn sẽ làm gì để chứng tỏ sự sẵn lòng đón tiếp ơn cứu độ của Thiên Chúa?

4.    Hành động của Giakêu nhắc nhớ chúng ta lòng tò mò của Môisen thúc giục ông bước tới bụi gai đang cháy.  Ở đó Môisen cũng đã tìm thấy ơn cứu độ.  Bạn có đã tìm cách gặp Chúa chưa?  Bạn có đã cảm thấy bị lôi cuốn bởi Người không?

5.    Chúa Giêsu đến với Giakêu trong sự tội lỗi của ông và vào nhà ông để Người mang đến cho ông ơn cứu độ.  Bạn đã bị trói buộc với tội lỗi ra sao?  Bạn có sẽ để cho Chúa đến với bạn, vào trong căn nhà tối tăm ấy không?        

3.  Cầu Nguyện

a)  Lời cầu nguyện của cộng đoàn:

Thân lạy Chúa, Đấng ở cùng Đức Chúa Con đã đến để tìm và cứu những gì đã mất, xin hãy làm cho chúng con xứng đáng với lời kêu gọi của Chúa:  xin hãy hoàn thành mọi ước nguyện của chúng con một cách vĩnh viễn, để chúng con có thể biết cách đón tiếp Chúa một cách vui vẻ vào nhà chúng con để chia sẻ của cải thế gian và thiên đàng.  Chính nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con.  Amen.

b)  Giây phút thinh lặng:

cho các lời nguyện cá nhân.

4. Chiêm Niệm

Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống:
trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề,
ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi! 
(Tv 15/16:11)


Ngày 3-11-2013 : GẶP GỠ ƠN CỨU ĐỘ (Luca 19,1-10 – CN XXXI TN - C)
Môn đệ Đức Giêsu phải sống thế nào để bằng sự hiện diện và lối sống của mình, ngày “hôm nay” của Thiên Chúa xuất hiện cho anh chị em mình.

Lm FX Vũ Phan Long, ofm
1.- Ngữ cảnh            
Phần thứ tư (phần cuối của hành trình lên Giêrusalem) được tác giả Luca trình bày trong phân đoạn 18,15–19,28: phần này tương ứng với bài tường thuật về hành trình của cácTin Mừng Nhất Lãm. Nhưng trong khối chất liệu này, ngài thêm vào câu truyện cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với ông Dakêu, thủ lãnh người thu thế ở Giêrikhô. Ngài thấy khối người bị đẩy ra bên lề xã hội Paléttina này cũng là “cái đã mất” mà Đức Giêsu đến để cứu.

2.- Bố cục                  
Bản văn có thể chia thành năm đơn vị:
1) Ghi chú về chuyến đi của Đức Giêsu (19,1);
2) Giới thiệu Dakêu trong quan hệ với Đức Giêsu (19,2-4);
3) Đức Giêsu chủ động gặp Dakêu (19,5-7):
- Đề nghị của Đức Giêsu (cc. 5-6),
- Phản ứng của dân chúng (phản đối Đức Giêsu) ( c. 7);
4) Dakêu chủ động hoán cải (19,8-9):
- Đề nghị của Dakêu (c. 8),
- Phản ứng của Đức Giêsu (trả lời cho dân chúng) (c. 9);
5) Ghi chú về sứ mạng của Đức Giêsu (việc Ngài “đến”) (19,10).

3.- Vài điểm chú giải
- Giêrikhô (1): Giêrikhô là chặng cuối trước khi “lên” Giêrusalem. Thành này nằm kề ranh giới miền Pêrê, dọc theo một tuyến đường giao thông quan trọng, là một điểm chiến lược mà đế quốc Rôma quan tâm trong việc cai trị Giuđê. Tại đây người ta dễ gặp các nhân viên của đế quốc hoăc các sĩ quan, binh lính Rôma.

- Dakêu 
(2): Tiếng Híp-ri là zakkai, có nghĩa là “trong sạch và vô tội” (x. Er 2,9; Nkm 7,14).

người thu thuế (2): 
x. 3,12. Tên gọi này dịch từ tiếng Hy Lạp telônês (do từ telos có nghĩa là “thuế”); La-tinh: publicanus (*); pháp: collecteur d’impôts, Anh: tax collector. Nền hành chánh Rôma qui định nhiều loại thuế: thuế thổ trạch, thuế động sản, thuế gián thu, đặc biệt đánh trên việc nhập cảng muối. Những “người thu thuế” thường được giao cho nhiệm vụ thu khoản thuế cuối cùng này. Vì thế họ thường có mặt tại các trạm quan thuế (Caphácnaum: Mc 2,14; Giêrikhô: Lc 19,2). Vì do nghề nghiệp, họ phải tiếp xúc thường xuyên với mọi hạng người, kể cả người ngoại giáo, nên họ bị coi là những người ô uế. Quy định mức thuế là quyền của chính quyền, nhưng thường được người thu thuế áp dụng cách võ đoán, nên họ bị dân chúng khinh bỉ, và danh từ “người thu thuế” tương đương với “hạng tội lỗi” công khai (x. Mt 9,10-11; Mc 2,16; Lc 5,30; 7,34; 15,1; 19,2-7), hạng ngoại đạo (x. Mt 18,17; 21,31), và hạng trộm cướp (x. Lc 3,2t). Một người Do Thái đạo đức tuân giữ lề luật thì chẳng có gì phải giao dịch với người thu thuế. Dakêu “đứng đầu những người thu thuế” (architelônês), tức là ông phụ trách cả vùng. Như thế, Dakêu càng ở bên lề cộng đồng Do Thái hơn nữa.

tìm cách để xem cho biết...(3): Dakêu là người giàu có và có địa vị cao, nhưng trong lòng ông vẫn không cảm thấy thỏa mãn. Hai động từ “tìm” (HL: zêtein) và “xem” (HL: idein) cho dù không có tầm mức quan trọng như trong TM Gioan, vẫn cho thấy là Dakêu không chỉ tò mò muốn “xem cho biết” (như kiểu nói của chúng ta). Đây là một “cuộc điều tra mang tính Kitô học” của một người tội lỗi công khai đối lại với thái độ lãnh đạm và thù nghịch của giới lãnh đạo dân Chúa.

cây sung (4), tiếng Hy Lạp là sykomorea. Đây là loại cây có thân thấp, các cành ngang cứng chắc.

phải ở lại (5): Câu này dịch sát là “
hôm nay điều cần thiết đối với tôi là ở lại nhà ông”. Động từ Hy Lạp dei diễn tả một điều nằm trong chương trình, ý muốn của Thiên Chúa, nằm trong sứ mạng của Đức Giêsu (x. 2,49; 4,43; 12,12; 13,33; 15,32; 22,37; 24,44).

mừng rỡ (6): do động từ Hy Lạp chaireinLc là Tin Mừng về niềm vui (Dacaria: 1,14; Đức Maria:
1,28; bà con Gioan Tẩy Giả: 1,58; Đức Giêsu chào đời: 2,10; Đức Giêsu: 10,20; đám đông: 13,17...). Đây là niềm vui do Đấng Mêsia mang đến.

nhà người tội lỗi (7): Luật luân lý cấm vào nhà kẻ tội lỗi. 

phân nửa tài sản của tôi (8): Mức bồi thường này vượt qua mức Luật đòi hỏi (x. Xh 21,37;Ds 5,5-7; Lv 5,21-24: trả lại món tài sản đã lấy cộng với 1/5 giá trị món đó).

- Đức Giêsu nói về ông 
(9), có nghĩa là Đức Giêsu nói với những người khác. Tập tục Đông phương cho phép người ta tự do ra vào nhà một người và vây quanh bàn ăn của những khách được mời (x. 7,37).

Hôm nay (9, cả c. 5; HL: sêmeron, x. 2,11; 4,21; 13,32.33; 23,43): Đây là từ ngữ quan trọng của TM Lc, có nghĩa là: Sau một thời gian dài chờ đợi và hy vọng, lịch sử cứu độ đã tới đỉnh cao hoàn tất. Tất cả những gì các ngôn sứ nói đã thành sự trong các hành động và các lời nói của Đức Giêsu (x. 4,18.19; 5,26).

4.- Ý nghĩa của bản văn
* Ghi chú về chuyến đi của Đức Giêsu (1)
           
Đến Giêrikhô, chuyến đi của Đức Giêsu lên Giêrusalem đã đến chặng cuối cùng. Tại đây người ta bắt đầu chuyến đi lên: từ thung lũng sông Giođan, người ta băng qua sa mạc Giuđa để đến Giêrusalem. Toàn thể cuộc hành trình của Đức Giêsu sau này được Phêrô mô tả: “
Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó” (Cv 10,38). Điều này đặc biệt đúng cho những điểm cuối cùng: mỗi chặng lại trở thành một chặng để trợ giúp và cứu chữa. Gặp anh mù ngồi bên vệ đường tin tưởng kêu cầu: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!”, Đức Giêsu đã cho anh xem thấy, ban khả năng ca tụng Thiên Chúa và đi theo Người (18,38). Gặp Dakêu ngồi trên một cây sung bên lề đường để nhìn xem Người, Đức Giêsu cho ông cơ hội tiếp đón Người về nhà và hoán cải, tức nhận được ơn cứu độ. Dù hoàn cảnh hai người rất khác nhau, cả hai đã được Thiên Chúa trợ giúp nhờ trung gian Đức Giêsu.
  
* Giới thiệu Dakêu trong quan hệ với Đức Giêsu (2-4)

Dakêu là một người giàu có. Nhưng trong tư cách là thủ lãnh của những người thu thuế, ông thuộc về hạng người bị xã hội Do Thái khinh bỉ. Do nghề nghiệp, vì họ phải thường xuyên liên hệ với mọi hạng người, kể cả ngoại giáo, họ bị nhiễm uế. Và bởi vì xã hội thường gán cho người thu thuế tính tham lam và những lối cư xử không công bình (x. 3,12t), Dakêu bị ghét bỏ và khinh bỉ. Một người Do Thái tuân giữ Lề Luật nghiêm túc thì không có gì phải liên hệ với người thu thuế cả. Do đó, Dakêu đứng ở bên lề cộng đồng. Ông là người giàu có và có địa vị cao, nhưng ông không được những người có thế giá trong xã hội trân trọng.

Ông hết sức ao ước được gặp Đức Giêsu. Ước muốn này có thể phần lớn được nhen lên do tính tò mò. Dù sao ước muốn này đã thúc đẩy ông tìm mọi cách để thấy được Đức Giêsu. Tuy nhiên, dân chúng đi theo Đức Giêsu thì quá đông mà vóc người ông thì thấp bé. Nhưng  Dakêu có óc sáng tạo: ông chạy đi trước và leo lên một cây sung. Chạy và trèo lên cây là những chuyện chỉ hợp với các trẻ em, chứ không phù hợp với tư cách một người giàu có; nhưng Dakêu chấp nhận trở thành lố bịch để được thấy Đức Giêsu, điều này cho thấy ông ao ước thấy Người đến đâu!

* Đức Giêsu chủ động gặp Dakêu (5-7)

Trong khi mọi người khác không màng tới Dakêu đang ở trong thế rất khôi hài, Đức Giêsu đã bày tỏ sự quan tâm đến ông bằng những cử chỉ và thái độ rất đơn giản, rất “người”: “đi tới chỗ ấy”, “nhìn lên”, “nói với ông”. Người còn cho hiểu đấy không chỉ là một cuộc thăm viếng xã giao, mà là một cuộc gặp gỡ nằm trong ý muốn của Thiên Chúa (“
hôm nay tôi phảiở lại nhà ông”), nằm trong sứ mạng của Người. Cái “ngày hôm nay” mà Đức Giêsu nhắc tới không chỉ là một chi tiết chỉ thời gian, mà là một chặng trong hành trình ban ơn cứu độ mà Người đã khai mạc tại Nadarét (x. 4,18-22). Trong cuộc hành trình này, Người quan tâm ưu tiên tới những người nghèo, và cả những người tội lỗi.

Nỗi băn khoăn, căng thẳng của Dakêu biến thành niềm vui: không chỉ là sự thỏa mãn, sự thoải mái về thể lý, mà là việc tham dự vào hạnh phúc do Đấng Cứu thế mang đến. Nhờ gặp gỡ Đức Giêsu, ông được giải thoát khỏi các lầm lỗi, hoang mang, và lòng được chan hòa bình an và niềm vui. Đi ngược lại mọi chỉ trích, và một cách rõ ràng, Đức Giêsu cho mọi người thấy rằng không ai bị loại khỏi ơn cứu độ Người ban. Người cũng cho thấy Người từ chối mọi kiểu đánh giá tổng quát về một hạng người.

* Dakêu chủ động hoán cải (8-9)       

Bữa tiệc tại nhà Dakêu là một cử hành thống hối, đưa tới một sự hiệp thông huynh đệ. Qua bữa tiệc, Dakêu hiểu là ông được kêu gọi đi vào hiệp thông với Thiên Chúa. Bởi vì Đức Giêsu đã chấp nhận con người thật của ông, bởi vì ông được mời gọi sống như thế, Dakêu chẳng phải tránh né gì nữa, trái lại ông vui mừng đón tiếp Người về nhà và bày tỏ quyết định đổi mới cuộc đời. Ông đã trả lời thắc mắc: “Thế thì ai có thể được cứu?” (18,26) khi Đức Giêsu nhận định: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao” (18,24). Dakêu giàu có đã nhận được ơn cứu độ nhờ trung gian Đức Giêsu (19,9), bởi vì ông không chỉ bằng lòng với việc trông thấy Đức Giêsu, mà còn hành động theo ý muốn của Người nữa. Trong ngày hôm ấy, Dakêu đã cảm nghiệm một sự biến đổi lạ thường. Đó chính là điều được Đức Giêsu diễn tả trong câu tuyên bố: “
Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu ông Abraham”. Khi tuyên bố như thế, Đức Giêsu đã bác bỏ nhận định của mọi người: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!”. Phán đoán của đám đông là một phê phán quá cứng rắn. Qua lối cư xử của Người, Đức Giêsu loại bỏ sự cứng rắn đó và cho thấy rằng thái độ của Thiên Chúa hoàn toàn khác với thái độ của đám đông.

* Ghi chú về sứ mạng của Đức Giêsu (việc Ngài “đến”) (10)

Những lời Đức Giêsu kết luận (c. 10) có thể khuyến khích mỗi người bởi vì “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Người không đến để kết án hoặc loại trừ. Lại chính những kẻ bị lạc, những kẻ sai lầm mà Người đã muốn tìm và cứu chữa; chính là những kẻ đang đi vào ngõ cụt mà Người muốn dẫn ra.

+ Kết luận
           
Bản văn với câu kết luận (c. 10) không những tóm tắt giai thoại về Dakêu, mà còn   làm nổi rõ hơn nữa cứu-độ-học của toàn thể cuộc hành trình của Đức Giêsu lên Giêrusalem cũng như của TM Lc: trong tư cách là Con Người, Đức Giêsu đã đến để tìm và cứu những gì đã mất, và như thế là gợi ý tới câu Ed 34,16 trong đó Đức Chúa tự mô tả mình như là Người mục tử: “
Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng”.
           
Khi đọc bản văn này, ta cũng nhận ra những ý nhắc lại các đoạn khác trong TM III: những yếu tố thuộc lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả (3,10-14); dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế (18,9-14); người thủ lãnh giàu có (18,18-23); anh mù (18,35-43). Dakêu được giới thiệu như là một người giàu gương mẫu đã hiểu sứ điệp cũng như mối quan tâm của Đức Giêsu đối với người nghèo, nên đã biết lấy những quyết định tương xứng. Bản văn cũng cho thấy có những điểm gặp gỡ với giai thoại anh mù: Dakêu đã thực hiện những bước không thông thường để nhìn thấy Đức Giêsu khi Người đi ngang qua. Hai bản văn cuối cùng này trực tiếp đưa độc giả đi theo Đức Giêsu vào Giêrusalem trong tư cách là “Con vua Đavít” để thực hiện chương trình cứu lấy những gì đã mất.

5.- Gợi ý suy niệm
1. Dakêu đã bị xã hội đẩy ra bên lề và khép lại với chính ông. Nhưng ông đã không chịu ở lại trong vòng tròn khép kín mà xã hội đã nhốt ông vào, đó là thế giới của tiền bạc và những quan hệ không lương thiện; ông tìm cách “thấy” Đức Giêsu, và thế là ông được cứu. Khép kín vào chính mình, con người không bao giờ thoát khỏi tội lỗi của mình; muốn được cứu, ta cần phải mở ra với Đức Giêsu. Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta hiểu: Đức Giêsu chờ đợi chúng ta đến với Người, nhưng Người cũng chờ đợi chúng ta sẵn sàng đón tiếp Người vào nhà.

2. Trong bất cứ cộng đoàn nào, bao giờ cũng có những người sợ đến gần những “người thu thuế”, những “kẻ tội lỗi”, những người không có danh thơm tiếng tốt... Bạn thử hình dung xem mình đang nghĩ về người khác thế nào? Đức Giêsu không làm như thế. Người đã nắm lấy bàn tay Dakêu đang rụt rè đưa ra về phía Người. Người lấy sáng kiến và đặt Dakêu trên một nẻo đường mới.  

3. Tất cả những thái độ và lời nói rất “người” (sự quan tâm, cử chỉ thân ái, lời nói dịu dàng...) có thể đưa người khác đến những biến đổi rất “thánh”. Môn đệ Đức Giêsu phải sống thế nào để bằng sự hiện diện và lối sống của mình, ngày “hôm nay” của Thiên Chúa xuất hiện cho anh chị em mình. Hôm nay Đức Giêsu vẫn đang ban ơn cứu độ qua Lời Người, các bí tích, qua Giáo Hội. Nếu bạn là thừa tác viên Lời Chúa hoặc bí tích, bạn đã có ý thức về cung cách cử hành thế nào để Đức Giêsu đến được với anh chị em của bạn?

4. Tấm gương của người môn đệ chính là thầy Giêsu: Người đã không ngại bị đánh giá tiêu cực để khỏi phản bội sứ mạng cứu thế. Người môn đệ của Đức Giêsu sẽ có những lúc phải chọn lựa như thế. Tuy nhiên, ngay trong đời thường, qua các sinh hoạt nghề nghiệp, thăm viếng, có khi nào bạn nghĩ là bạn sinh hoạt, thăm viếng theo ý muốn của Thiên Chúa?  

------------------------------------
(*) Ngày xưa, các cố Tây dịch là “người púp-li-ca-nô” do lấy từ chữ La-tinh publicanus (do chữ publicus có nghĩa là “tiền của công”).


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét