Trang

Thứ Hai, 2 tháng 12, 2013

03-12-2013 : THỨ BA TUẦN I MÙA VỌNG - THÁNH PHAN-XI-CÔ XA-VI-E, LINH MỤC - BỔN MẠNG CÁC XỨ TRUYỀN GIÁO - Lễ Kính

THỨ BA 03/12/2013
Thứ Ba Tuần I Mùa Vọng
THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ, LINH MỤC. Bổn mạng các xứ truyền giáo. Lễ kính.


Bài Ðọc I: Is 11: 1-10
"Chúa lấy đức công bình mà xét xử người nghèo khó".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, từ gốc Giê-sê sẽ đâm ra một bông hoa.
Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa.
Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công bình mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở.
Ngài sẽ dùng lời như gậy đánh người áp chế, và sẽ dùng tiếng nói giết chết kẻ hung ác.
Ngài lấy đức công bình làm dây thắt lưng và lấy sự trung tín làm đai lưng.
Sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy.
Bò con và gấu sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô, trẻ con còn măng sửa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc.
Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta.
Bởi vì thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Chúa như nước tràn đại dương.
Ngày ấy gốc Giê-sê đứng lên như cờ hiệu cho muôn dân.
Các dân sẽ khẩn cầu Ngài và mộ Ngài sẽ được vinh quang.
Ðó là Lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 71,2, 7-8,12-13,17
Ðáp: Sự công chính và nền hòa bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người.
Xướng 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.
2) Sự công chính và nền hòa bình viên mãn, sẽ triển nở trong triều đại người, cho tới khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp.
3) Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu sống người cùng khổ. - Ðáp.
4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. - Ðáp.

Alleluia: Tv 84,8
Alleluia, alleluia - Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng tôi, và ban ơn cứu rỗi cho chúng tôi. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 10: 21-24
"Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ.
Vâng lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế.
Cha Ta đã trao phó cho Ta mọi sự.
Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!"
Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe, mà đã chẳng được nghe.
Ðó là Lời Chúa.


Suy Niệm: Mặc Khải Cho Kẻ Bé Mọn
Chúng ta đang bước vào Mùa Vọng là mùa trông đợi Ðấng Cứu Thế mang ơn cứu độ đến cho nhân loại. Chờ đợi là thời gian dài thăm thẳm, vì theo tâm lý thì thời gian như kéo dài thêm ra. Trải qua một thời kỳ lịch sử Cựu Ước, kể từ khi con người phạm tội phản nghịch qua Adam và Evà, biết bao nhiêu tổ phụ, bao nhiêu tiên tri đã được sai đến dọn đường cho Con Thiên Chúa là Ngôi Hai mặc lấy thân xác con người, gánh lấy tội lỗi con người và làm cho con người được ơn cứu rỗi.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta lời cầu nguyện của Chúa Giêsu để mạc khải cho chúng ta biết bản tính Thiên Chúa của Ngài: "Không ai biết Chúa Con ngoại trừ ra Cha, cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào ngoài Chúa Con và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết".
Ðôi mắt con người chỉ nhìn xem những vật hữu hình, nếu quá nhỏ có thể dùng kính hiển vi, nếu quá xa có thể dùng kính thiên văn. Trí óc con người có thể suy nghĩ một cách hạn hẹp trong khả năng giới hạn nào đó mà thôi, ví dụ chúng ta có thể nhìn thấy ngôi nhà chúng ta đang ở, chúng ta biết nó không phải tự nhiên mà có nhưng phải do bàn tay thợ nề, thợ mộc, do con người làm nên và tạo ra. Khi nhìn đồng hồ treo tường hay treo đồng hồ đeo tay, chắc hẳn trong chúng ta không ai nghĩ rằng nó tự nhiên mà có nhưng phải có người suy tính và tạo ra.
Từ những thí dụ cụ thể trên, chúng ta có ý nghĩ: Con người chúng ta không phải tình cờ hay ngẫu nhiên mà được sinh ra. Ða số ai cũng chấp nhận có ông Trời tạo dựng nên và điều khiển vũ trụ. Tuy nhiên trí óc con người không dừng lại ở đó, trí óc họ không thể hiểu thêm gì về ông Trời đó, chỉ có thể tưởng tượng ra ông Trời cũng biết thương, biết giận, biết ghét, biết khen thưởng hay trừng phạt như con người. Và con người cũng thường nói: "Ông Trời có mắt" để cùng nhau làm lành làm dữ, sống hòa thuận, bớt làm điều tai ác.
Chúa Giêsu mặc lấy thân phận con người để tiết lộ cho chúng ta biết về Thiên Chúa qua lời cầu nguyện của Ngài hôm nay với Thiên Chúa Cha: "Không ai biết Thiên Chúa Cha ngoại trừ ra Con". Thiên Chúa Con, Ngài từ trời xuống nên Ngài biết rõ những việc trên trời nơi Ngài đã ở với Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu còn cho chúng ta biết về Thiên Chúa Cha có Ba Ngôi, và khi Ngài chịu Phép Rửa ở sông Jordan, Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài, đồng thời có tiếng Thiên Chúa Cha phán ra từ đám mây: "Này là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta mọi đàng". Và trước khi về Trời, Chúa Giêsu cũng đã truyền lệnh cho các môn đệ: "Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Như vậy, con người không thể biết được về bản tính Thiên Chúa nếu Chúa Giêsu Kitô không mạc khải truyền lệnh cho các môn đệ: "Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Như vậy, con người không thể biết được về bản tính Thiên Chúa nếu Chúa Giêsu Kitô không mạc khải cho chúng ta biết, và lời Ngài trên đây cũng cho chúng ta biết thêm dẫn chứng về ngôi vị Thiên Chúa: "Không phải những kẻ thông thái khôn ngoan biết những điều này nhưng là những kẻ đơn sơ". Những kẻ đơn sơ bé mọn đó chính là chúng ta.
Chúng ta đang ở trong Mùa Vọng để chuẩn bị đón mừng một mầu nhiệm rất trọng đại, mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chúng ta là những người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội, thuộc mọi quốc gia, đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi trình độ, mọi ngôn ngữ khác nhau, không phân biệt nhưng cùng chung một niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế đem bình an đến cho mọi tâm hồn.
Chúa Giêsu đã chúc lành cho chúng ta: "Hạnh phúc cho những người được xem thấy những điều chúng con xem thấy, vì đã có nhiều tiên tri, vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy mà chẳng được xem". Biết bao nhiêu người hiện nay chưa biết, chưa được nghe đến Tin Mừng của Chúa, vì chưa được ai rao giảng cho họ.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con tin vững vàng vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ngôi Hai Nhập Thể để chúng con sống thật với mầu nhiệm yêu thương ấy. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con sống trọn vẹn tâm tình tha thiết mong đợi Ðấng Cứu Thế đến để cứu rỗi nhân loại chúng con. Amen.
(Veritas Asia)
Lectio: Luca 10:21-24
Thứ Ba, 3 Tháng 12, 2013
Tuần thứ nhất Mùa Vọng 


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con,
Chúa không bao giờ từ bỏ người ta,
Đã không biết bao nhiêu lần
Chúa muốn bắt đầu lại với chúng con.
Chúa đã tỏ cho chúng con thấy trong Đức Giêsu, Con của Chúa,
Mẫu người mà Chúa muốn chúng con trở nên.
Như khi Chúa Thánh Thần ngự trên Người,
Cũng đổ tràn trên chúng con cùng một Thần Khí Chúa,
Để cho chúng con có thể nhìn thấy được sứ vụ của mình trong cuộc sống
Với ơn khôn ngoan và hiểu biết của Chúa
Và để cho chúng con có thể có dũng lực
Mà sống như chúng con tin và hy vọng.
Chúng con cầu xin điều này qua Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.

2.  Phúc Âm – Luca 10:21-24

Khi ấy, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói:  “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ.  Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế.  Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Đấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!” 
Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán:  “Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con:  có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe, mà chẳng được nghe.”

3.  Suy Niệm

Bài Tin Mừng hôm nay mặc khải về chiều sâu của Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguyên nhân của niềm vui của Người.  Các môn đệ đã đi với sứ vụ rao giảng, và khi các ông trở về, các ông chia sẻ với Chúa Giêsu về niềm vui kinh nghiệm rao giảng của mình (Lc 10:17-21).

-  Lý do cho sự vui mừng của Chúa Giêsu là niềm hớn hở của các bạn hữu.  Trong khi lắng nghe kinh nghiệm của các môn đệ và cảm nhận niềm hớn hở của họ, Chúa Giêsu cũng cảm thấy một sự vui mừng khôn xiết.  Lý do cho sự vui mừng của Chúa Giêsu là vì niềm hạnh phúc của kẻ khác.
-  Đó không phải là một sự vui mừng hời hợt.  Nó đến từ Chúa Thánh Thần.  Nguyên do cho sự vui mừng là vì các môn đệ - nam và nữ - đã kinh nghiệm được một điều gì đó về Chúa Giêsu trong khi thi hành sứ vụ rao giảng của họ.
-  Chúa Giêsu gọi họ là “những kẻ bé mọn”.  “Những kẻ bé mọn” là ai?  Họ là bảy mươi hai môn đệ (Lc 10:1) vừa trở về từ chuyến đi rao giảng:  là những người cha hoặc người mẹ trong gia đình, là thanh niên và thanh nữ, là những người có gia đình hoặc còn độc thân, già và trẻ.  Họ không phải là những nhà thông thái.  Họ là những kẻ đơn sơ, không có kiến thức nhiều về khoa học, không nghiên cứu nhiều, nhưng họ hiểu những gì thuộc về Thiên Chúa tỏ tường hơn những nhà thông thái.
-  “Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha muốn thế!”  Một lời nói rất nghiêm túc.  Chúa Cha muốn rằng những kẻ thông thái và khôn ngoan không thông hiểu được những gì thuộc về Nước Trời và, thay vào đó những kẻ bé mọn lại hiểu chúng. Vì thế, nếu những kẻ cao trọng muốn hiểu những gì thuộc về Nước Trời thì họ phải trở thành môn đệ của những kẻ bé mọn!
-  Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán:  “Hạnh phúc cho các con!”  Và tại sao họ lại hạnh phúc?  Bởi vì họ được thấy những điều mà các tiên tri muốn xem, mà không thấy.  Và họ đã thấy những gì?  Họ sẽ có thể cảm nhận được hoạt động của Nước Trời trong những việc thông thường của đời sống:  chữa lành kẻ bệnh tật, an ủi kẻ khốn khổ, xua đuổi điều dữ khỏi đời sống.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân

-  Tôi tự đặt mình vào vị trí của dân chúng:  Tôi thấy mình thuộc về nhóm những kẻ bé mọn hay thuộc về nhóm những kẻ thông thái?   
-  Tôi tự đặt mình vào vị trí của Chúa Giêsu:  Nguyên do cho sự vui mừng của tôi là gì?  Niềm vui đó hời hợt hay sâu sắc?   

5.  Lời nguyện kết

Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha,
Vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này,
Nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.” (trích Lc 10:21)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần I MV
Bài đọc: Isa 11:1-10; Lk 10:21-29.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa làm những chuyện không thể đối với con người.
Trong Bài đọc I, tiên tri Isaiah cho dân một hy vọng: Khi Đền Thờ Jerusalem bị phá hủy và vương quốc Judah thất thủ, các vua quan của Judah bị lưu đày qua Babylon. Sau gần 50 năm lưu đày, họ được Vua Batư, Darius, cho hồi hương để xây dựng lại Đền Thờ và kiến thiết xứ sở. Câu hỏi được đặt ra là ai sẽ lãnh đạo dân để tái thiết xứ sở? Người lãnh đạo này phải thuộc giòng dõi của David; và Zerubbabel hội đủ điều kiện để lãnh đạo dân (x/c Hag 1:1, Zech 4:9). Từ giòng dõi Zerubbabel sẽ xuất hiện Đấng Thiên Sai (Mt 1:12). Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải Kế Họach Cứu Độ cho các môn đệ và chỉ cho các ông cách làm sao để đạt đích điểm của cuộc đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Làm sao kiếm được Vua công chính cai trị dân?
1.1/ Làm sao kiếm được Vua cai trị Israel sau Thời Lưu Đày? Tiên tri Isaiah nói về Đấng Thiên Sai như sau: “Từ gốc tổ Jesse, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và can đảm, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa.” Ông Jesse là cha của Vua David. Vương quốc Judah được ví như một cây, bị chặt sát gốc trong thời gian lưu đày, tưởng chừng như đã chết; nhưng Thiên Chúa đã phục hồi và làm cho sống. Bắt đầu từ một nhánh nhỏ, sẽ mọc lên một mầm non, mầm non này chính là Đấng Thiên Sai.
Thánh Thần của Thiên Chúa là hơi thở ban sự sống (ruah) mà Thiên Chúa trao tặng cho con người. Hơi thở này kèm theo những năng lực vô biên: khôn ngoan, minh mẫn, mưu lược, can đảm, hiểu biết, và kính sợ Thiên Chúa. Những năng lực vô biên này, Bản Bảy Mươi và Vulgate thêm vào năng lực “đạo đức” thay cho một “kính sợ Thiên Chúa,” đã trở thành 7 quà tặng của Chúa Thánh Thần. Người tín hữu lãnh nhận 7 quà tặng này khi chịu Bí-tích Thêm Sức.
1.2/ Vua công minh, thương yêu, can đảm: Với Thánh Thần của Thiên Chúa hướng dẫn, Đấng Thiên Sai có đầy đủ mọi đức tính cần thiết để cai trị dân:
(1) Ngài sẽ xét xử công minh: “Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người mãn nguyện, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói.”
(2) Ngài sẽ bênh vực kẻ nghèo hèn: “Ngài xét xử công minh cho những người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư cho kẻ nghèo trong xứ sở.”
(3) Ngài sẽ trừng trị kẻ ác: “Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà.”
Hai đức tính cần thiết một vị anh quân cần có được tiên tri ví như dây thắt lưng và miếng vải buộc trong mình: “Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành.”
1.3/ Vua đem lại hòa bình: Sau khi đã trải qua biết bao gian khổ đau thương do chiến tranh và lưu đày gây ra, điều con người mong ước nhất là có được nền hòa bình. Mong ước này chỉ có được khi tất cả mọi người trên thế giới biết dẹp bỏ mọi khác biệt để cùng nhau chung sống và xây dựng hòa bình: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển.” Viễn tượng hòa bình này chỉ có thể đạt được trong triều đại của Đấng Thiên Sai, khi Ngài chiến thắng mọi quyền lực thế gian và thu thập mọi người về cho Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Làm sao biết được thánh ý Thiên Chúa?
2.1/ Thánh ý Thiên Chúa: Thiên Chúa khôn ngoan và uy quyền, con người yếu đuối và giới hạn; làm sao con người hiểu được những chương trình và thánh ý của Thiên Chúa? Trong Cựu Ước, Thiên Chúa dùng các tiên tri để nói với con người; nhưng họ chỉ mặc khải được phần nào những gì Thiên Chúa muốn bằng ngôn ngữ lòai người. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài mặc khải cho con người tất cả những gì nơi Thiên Chúa. Những mặc khải của Đức Kitô chính xác và tòan hảo vì Ngài ở với Thiên Chúa ngay từ ban đầu khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Mặc khải quan trọng nhất của Đức Kitô cho con người là Mầu Nhiệm Cứu Độ; nhưng không phải ai cũng có thể hiểu được Mầu Nhiệm này như Chúa Giêsu nói hôm nay: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho. Rồi Đức Giêsu quay lại với các môn đệ và bảo riêng: Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!”
(1) Kẻ nghèo hèn được mặc khải: Khác với những khôn ngoan của thế gian, Mầu Nhiệm Cứu Độ chỉ được hiểu bởi những kẻ nghèo hèn, những người không cậy vào sức riêng mình, nhưng hòan tòan trông cậy nơi Thiên Chúa.
(2) Bậc khôn ngoan không hiểu: Cũng như tòan bộ Tin Mừng, Mầu Nhiệm Cứu Độ được rao giảng cho tất cả mọi người. Bậc khôn ngoan không hiểu là vì họ cậy vào sức mình. Nếu họ dùng lý luận và sự khôn ngoan của con người, Mầu Nhiệm Cứu Độ là chuyện điên rồ không thể hiểu được. Thánh Phaolô đã trưng dẫn điều này về Thập Giá của Đức Kitô.
(3) Các vua chúa không thấy: “Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.”
2.2/ Làm sao để đạt đích của cuộc đời? Chúa Giêsu không chỉ mặc khải cho con người biết đích điểm của cuộc đời, mà còn cả cách thức đạt tới đích điểm này:
(1) Mến Chúa, yêu người: Chúa Giêsu chứng thực câu trả lời của người Kinh-sư: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình."
(2) Thực hành giới luật yêu thương: Tuy nhiên, Chúa Giêsu nhắc nhở ông không phải chỉ biết cách mà thôi, nhưng còn phải ra sức thực hành hai giới răn này: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống."

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Không gì là không thể đối với Thiên Chúa. Trong Chương Trình Cứu Độ, Ngài đã chuẩn bị mọi sự cho con người.
- Ngài cho Chúa Giêsu, Người Con của Ngài xuống để mặc khải Mầu Nhiệm Cứu Độ cho con người. Chính Người Con này sẽ là Vua cai trị dân trong công minh, yêu thương; và sẽ đem lại bình an cho con người.
- Điều kiện để hiểu Mầu Nhiệm Cứu Độ: phải khiêm nhường nhỏ bé mới có thể nhìn thấy Đấng Thiên Sai và hiểu biết Kế Họach Cứu Độ Ngài mặc khải. Phải thực thi 2 giới răn “Mến Chúa yêu người” như Chúa dạy.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


HẠT GIỐNG NẨY MẦM TUẦN 1 MV

Lc 10,21-24
A. Hạt giống...
1. Văn mạch : Sau một thời gian đi truyền giáo trở về, các môn đệ vui mừng kể lại cho Chúa Giêsu nghe những thành công của mình. Nhân dịp này Đức Giêsu nhận xét về kết quả ấy của họ : Ngài chia vui với họ vì những thành công ấy. Nhưng Ngài cho biết họ càng nên vui mừng hơn vì Thiên Chúa đã coi họ là công dân của Nước Trời (“tên các con được ghi trên trời”) (Lc 10,17-20).
2. Chúa Giêsu lại liên tưởng đến những kẻ không đón nhận Tin Mừng vì lòng trí họ kiêu căng tự mãn. Những người này khác hẳn với những tâm hồn đơn sơ bé mọn đã đón nhận Tin Mừng do các môn đệ rao giảng. Và Ngài cảm tạ Chúa Cha về việc đó.

B.... nẩy mầm.

1. “Con xưng tụng Cha vì đã dấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều ấy…” : Tôi cũng xưng tụng cảm tạ Thiên Chúa vì đã ban cho tôi được đức tin, được biết Chúa. Nhiều người thông thái khôn ngoan hơn tôi đã không được những ơn này. Đức tin là một ơn ban chứ không phải là thành quả của công lao con người.
2. “… nhưng đã tỏ ra cho những kẻ đơn sơ” : xin cho con càng ngày càng đơn sơ hơn nữa : đơn sơ với Chúa, đơn sơ với lương tâm con và đơn sơ với mọi người, vì đơn sơ là điều kiện thuận lợi con được Chúa dạy bảo và ban ơn.
3. 3 động từ chủ chốt của đoạn này là “thấy, nghe và biết”. Còn những người được “thấy”, được “nghe” và được “biết” Tin Mừng là ai ? Thưa là những kẻ bé mọn. Nói cụ thể hơn, đó là các môn đệ Chúa và dân ở những nơi mà các môn đệ đến rao giảng. Họ không giống với dân ở những thành mà trong đoạn Tin Mừng phía trước (10,1315) Chúa Giêsu đã nặng lời khiển trách. Những người đó tự cho mình là thông giỏi nên không đón nhận Tin Mừng. Họ giống như những chiếc thùng đầy nước cho nên có đổ thêm bao nhiêu nước nữa thì cũng trán hết ra ngoài. Còn các môn đệ Chúa Giêsu và dân ở những nơi này thì khiêm tốn ý thức mình còn ngu dốt yếu kém nên vui vẻ đón nhận Tin Mừng, giống như những chiếc thùng rỗng nên chứ đụng được lượng nước đổ thêm vào. Chúa Giêsu vui mừng tạ ơn Chúa Cha vì đã cho những người bé mọn ấy được thấy, được nghe và được biết Tin Mừng.
Muốn đón nhận ơn Chúa, cũng như muốn hiểu biết Thiên Chúa hơn thì chúng ta phải trở nên những kẻ bé mọn, phải ý thức mình còn kém. Và bé mọn thực sự, khiêm tốn thực sự là phải biết đón nhận, đón nhận không những từ nơi Chúa, mà còn phải từ anh em của mình nữa.
4. “Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết : nhiều ngôn sứ và nhiều vua Chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Lc 10,24)
Môsê, Đavít, Êlia tất cả đều sống trong sự chờ đợi. Chờ đợi lời Thiên Chúa hứa ban Con của Ngài đến được thực hiện. Họ mong được nhìn thấy Con Thiên Chúa, mong được nghe Ngài giảng dạy về Nước Trời.
Các tông đồ đã sống, đã đồng hành với Ngài trên mọi nẻo đường. được Ngài dạy dỗ, được sai đi rao giảng Nước Trời. Các ông đã được thấy phép lạ Người làm. Được nghe Ngài nói về Chúa Cha và Nước Trời, nhưng các ông vẫn sống trong hoài nghi cho đến khi Ngài chỗi dậy từ cõi chết.
Ngày nay, Ngài cũng nói với tôi mỗi ngày qua Tin Mừng, qua anh em tôi. Tôi vẫn thấy Ngài bị treo thánh giá, nơi những người cùng khổ, những người bị áp bức bất công, nơi những tâm hồn thống hối trở về. Tôi đã thấy Ngài sống lại vinh quang và những phép lạ Ngài làm trong cuộc sống quanh tôi. Tôi có thấy mình hạnh phúc hơn các ngôn sứ, các vua Chúa, các tông đồ không ? Hay tôi cũng là môn đệ của chủ nghĩa hoài nghi ?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết vui mừng và tin vào những gì Ngài đã làm cho con cũng như nói với con hằng ngày. (Hosanna)
5. “Lạy Cha là Chúa tể trời đất. Con xin ngợi khen Cha vì đã mặc khải cho những người bé mọn biết những điều này” (Lc 10,21)
Bên cạnh tôi là bác nông dân chất phác đang nguyện kinh. Và kia là một người trí thức đang cầu nguyện. Thái độ bề ngoài cho thấy là họ hết lòng tin tưởng. Bác nông dân tin một cách đơn sơ, tin những gì mình nghe biết đ. Người trí thức thì nghe, suy nghĩ, phân tích rồi cũng tin. Cả hai đều tin và ý thức mình là những người bé mọn, yếu đuối. Họ chấp nhận những giới hạn của mình và sẵn sàng mở ra cho mặc khải tình yêu Thiên Chúa.
Cũng thế, tôi chỉ có thể đón nhận mặc khải một khi trở nên nhỏ bé và khiêm tốn.
Lạy Cha, xin ban cho con quả tim đơn sơ như trẻ nhỏ, sẵn sàng đón nhận những gì Cha ban tặng cho con, và can đảm phó thác hoàn toàn cuộc đời con trong tay Cha (Epphata).
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. cần Thơ


Suy niệm

Bài tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy thái độ vui mừng của Chúa Giêsu. Ngài đã cất lời cảm tạ Chúa Cha sau khi 72 môn đệ được Ngài sai đi, trở về với nhiều thành công. Qua lời tạ ơn Chúa Cha Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta tương quan giữa Ngài với Chúa Cha và cho thấy ơn phúc lớn lao dành cho những ai được mặc khải điều đó.

Chúa Giêsu đã tạ ơn Chúa Cha vì đã mặc khải những điều đó cho những người bé mọn, mà không mặc khải cho những người thông thái khôn ngoan. Đối với những người thông thái khôn ngoan không phải là Chúa không mặc khải, nhưng vì sự kêu ngạo của họ, cho mình là thông thái, biết hết mọi sự nên không mở lòng ra đón nhận mạc khải của Chúa. Còn đối với những người bé mọn nghèo hèn, không phải là họ thiếu hiểu biết mới nghe lời Chúa, nhưng họ mang trong lòng sự khiêm tốn đón nhận tin mừng do chính Chúa Giêsu mặc khải. Do đó Chúa Giêsu chúc phúc cho những người bé mọn đã biết nghe và đón nhận tin mừng.

Là những Kitô hữu, chúng ta có khiêm tốn để đón nhận những giáo huấn của Chúa thông qua Giáo Hội, hay chúng ta tự cho mình là biết tất cả, học hỏi đủ rồi nên không cần đón nhận những cái mới, những giáo huấn của giáo hội. Cũng vậy, hằng ngày hằng tuần chúng ta đón nhận bao ơn lành của Chúa, chúng ta có cảm thấy lòng mình hoan hỷ cảm tạ Chúa vì Ngài ban cho chúng ta? Ngay cả những điều chúng ta cho là thiệt thòi so với người khác (người khác giàu hơn, giỏi hơn …), những thử thách trong cuộc sống, chúng ta có nhận ra đó là những ân ban của Chúa không? Chúng  ta phải hiểu rằng qua những thử thách đó Chúa gìn giữ ta, trợ giúp ta và rèn luyện các nhân đức cho ta, giúp ta khiêm tốn, trông cậy và tin tưởng vào Chúa hơn.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra: được là người Kitô hữu, là con Chúa là một ân ban nhưng không. Xin giúp chúng con nhận ra mỗi biến cố trong cuộc sống là một bài học Chúa gởi đến để toi luyện chúng con, giúp chúng con vững tin và sống tốt hơn xứng đáng là con cái Chúa.


NGÀY 03 THÁNG 12
THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ, LINH MỤC.
Bổn mạng các xứ truyền giáo.
Lễ kính.


BÀI ĐỌC : 1 Cr 9, 16-19.22-23
            16 Thưa anh em,đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!17 Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó.18 Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi.
            19 Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. 22 Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người.23 Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.
ĐÁP CA : Tv 116
Đ.        Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng  (Mc 16,15)
1 Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa,ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người!
2 Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt, lòng thành tín của Người bền vững muôn năm. 
 TUNG HÔ TIN MỪNG : x Mt 28, 19a.20b
            Hall-Hall : Chúa nói : Anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân. Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Hall.
TIN MỪNG : Mc 16, 15-20
            15 Hôm ấy, Đức Giê-su hiện ra với Nhóm Mười Một và nói với các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ.18 Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ."
            19 Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.20 Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.

SUY NIỆM: Giác ngộ
“Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?”... Lời thách thức này của Tin Mừng đã khiến cho một vị giáo sư trẻ tuổi bỏ tương lai đầy hứa hẹn, bỏ tất cả để chỉ còn đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của người đồng loại.
Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo, mà hôm nay Giáo Hội kính nhớ... Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến, Phanxicô Xaviê đã nhận được những lời thách thức trên đây từ người bạn thân Inhaxiô Loyola.
Không còn chống cưỡng lại với lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã đến Montmartre để cùng với Inhaxiô sống đời khó nghèo, khuyết tịnh và phục vụ tông đồ, theo những chỉ dẫn của Ðức Thánh Cha.
Năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô lãnh chức linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisboa của Bồ Ðào Nha để lên đường đi truyền giáo tại Ấn Ðộ. Trong 10 năm ngắn ngủi, Phanxicô Xaviê đả rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai và Ấn Ðộ. Cuộc sống của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ nhất... Chưa đạt được giấc mơ đặt chân đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức, tại một hải đảo cách Hồng Kông 100 cây số. Bị những người lái buôn Bồ Ðào Nha bỏ rơi trên bãi cát, thánh nhân đã qua đời trong sự trơ trụi nghèo nàn.
Danh vọng, tiền tài, ngay cả sức khỏe... tất cả đều được đốt cháy để tìm được niềm vui đích thực cho tâm hồn và mang niềm vui đó đến với mọi người: đó là sứ điệp mà thánh Phanxicô Xaviê đã để lại cho tất cả chúng ta...
“Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột”... Có lẽ người ta thường dùng câu nói trên đây không những để nói lên tính cách tương đới của đau khổ, mà còn để nói lên ngay cả sự tương đới của hạnh phúc.
Sau những tháng năm ăn độn, ăn rau, những người nghèo có thể hớn hở reo vui khi được bữa cơm trắng với chút thịt cá. Sau những tháng năm tù đày, một người vừa mới được phóng thích sẽ reo hò sung sướng khi được đi lại tự do, khi được thở không khí trong lành...
Những người giàu có, ngày nào cũng yến tiệc linh đình sẽ thèm khát đôi chút cá kho, mắm cà của người nghèo khổ... Những đứa trẻ giàu có ở đô thị có lẽ sẽ thèm khát những giây phút được cưỡi trâu hay tắm ao của những chú bé nghèo ở nhà quê...
Tựu trung, vấn đề cơ bản nhất của con người vẫn là đi tìm hạnh phúc. Và cuối cùng, sau những miệt mài tìm kiếm, ai cũng nhận thấy rằng mình sẽ không bao giờ đạt được hạnh phúc đích thực và trường cửu trên trần gian này. Kẻ đứng ở núi này sẽ luôn nhìn sang núi nọ...
Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta một bí quyết của hạnh Phúc: Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất và ai mất mạng sống mình vì Ta sẽ gặp lại... Chỉ có một niềm vui đích thực đó là sống trọn vẹn cho Chúa. Chỉ có một điều quan trọng nhất trong cuộc sống: đó là lắng nghe lời Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SỨ MỆNH NGÔN SỨ CỦA TÔNG ĐỒ ĐỨC GIÊSU


            Dựa vào các Bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay, người Tông Đồ của Đức Giêsu phải xác tín và sống năm điểm giáo lý sau :
-         Làm Tông Đồ là cộng tác với Chúa Giêsu Phục Sinh, để làm hoàn hảo công trình Chúa sáng tạo.
-         Ai có Chúa Giêsu thì sống, kẻ không có Ngài là chết.
-         Chúa Giêsu Phục Sinh thông chia chiến thắng cho các Tông Đồ.
-         Chúa Giêsu về Trời nhằm yểm trợ cho hoạt động Tông Đồ của các môn đệ đạt thành công.
-         Sự khẩn thiết phải chu toàn sứ mệnh ngôn sứ.
I. LÀM TÔNG ĐỒ LÀ CỘNG TÁC VỚI CHÚA GIÊSU PHỤC SINH, ĐỂ LÀM HOÀN HẢO CÔNG TRÌNH CHÚA SÁNG TẠO.
            Sau khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, Ngài ra lệnh cho các môn đệ : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15 : Tin Mừng).
Giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” phải hiểu theo hai nghĩa :
1/ Làm cho đồng loại đúng nghĩa người là giống Thiên Chúa.
Vì khi Thiên Chúa sáng tạo Adam - Eva, Ngài phán : “Chúng Ta hãy dựng nên con người giống Chúng Ta” (St 1,26a). Đó mới là ước định. Con người chỉ thực sự trở nên giống Thiên Chúa khi được tái sinh bởi Lời Chúa (x Gc 1,18), và tin vào danh Chúa Giêsu (x Cv 2,38).
Thực vậy, thánh Phaolô nói : “Trong Đức Kitô,Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện,nhờ tình thương của Người. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1,4.10). Và ông còn nói : “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình,là Trưởng Tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo,vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới,tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người.Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người,cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,15-16.19-20). Bởi vì nếu con người không được Con Thiên Chúa tái sinh, họ chỉ là một sinh vật (x 1Cr 15,45), chẳng hơn gì loài thú (x Gv 3,18-19).
        2/ Làm cho vạn vật biết phục vụ dân Chúa để cùng ca tụng Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói : “Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái Người. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng: chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa. Quả thế, chúng ta đã được cứu độ, nhưng vẫn còn phải trông mong. Thấy được điều mình trông mong, thì không còn phải là trông mong nữa: vì ai lại trông mong điều mình đã thấy rồi? Nhưng nếu chúng ta trông mong điều mình chưa thấy, thì đó là chúng ta bền chí đợi chờ.” (Rm 8,19-25).
            Thánh Phaolô đã tóm tắt sứ mệnh Tông Đồ bằng câu : “Tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa” (1 Cr 3,22b-23). Như thế thì khi tôi dọn một đống phân nằm giữa đường đổ vào gốc cây, tôi phải hãnh diện vì làm cho cây nên tốt, hầu phục vụ con người đúng với mục đích Chúa đã tạo dựng vạn vật,và như thế là cách tôi “rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15 : Tin Mừng), vì đã làm cho “thụ tạo không lâm cảnh hư ảo, không lệ thuộc vào sự hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,20-21).
II. AI CÓ CHÚA GIÊSU THÌ SỐNG, KẺ KHÔNG CÓ NGÀI LÀ CHẾT (1 Ga 5,12)
            Đức Giêsu xác định : “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.” (Mc 16,16 :Tin Mừng).
            Thực vậy, Đức Giêsu đã khẳng định với ông Nicodemo : “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5). Qua Bí tích này, con người được tháp vào Chúa Giêsu như cành  nho tháp vào thân nho (x Ga 15), để được nên một trong Chúa Giêsu. Vì thế thánh Phêrô quả quyết : “Ngoài Đức Giêsu ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ." (Cv 4,12).  Nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn cứu loài người trong Hội Thánh Ngài thiếp lập.
            Giáo huấn của thánh Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Hội Thánh số 14 dạy : “Những ai biết rằng Giáo Hội Công Giáo được Thiên Chúa thiết lập nhờ Chúa Giêsu Kitô, như phương tiện cứu rỗi cần thiết, mà vẫn không muốn gia nhập, hoặc không kiên trì sống Đức Ái trong Hội Thánh, thì cho dù có tên người Công Giáo, thì  xác người ấy ở trong Hội Thánh, nhưng linh hồn ở ngoài Hội Thánh, người ấy chẳng những không được cứu độ mà còn bị xét xử nghiêm khắc”.
            Tuy nhiên “những người vô tình không biết Phúc Âm của Chúa Giêsu và Hội Thánh Ngài, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong công việc mình theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu độ. Cả những kẻ vô tình chưa biết Thiên Chúa cách rõ ràng, nhưng nhờ ơn Chúa, cố gắng sống đời chính trực, thì Chúa quan phòng không từ chối ban ơn trợ lực cần thiết để họ được cứu độ” (Hiến Chế Hội Thánh số 16).
III. CHÚA GIÊSU PHỤC SINH THÔNG CHIA CHIẾN THẮNG CHO CÁC TÔNG ĐỒ.
            Đức Giêsu hứa cho các Tông Đồ : “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ." (Mc 16,17-18 : Tin Mừng). Những ơn lạ Chúa ban cho các ông như trên phải hiểu cách cụ thể :
            1/ Để thúc giục lòng người tin vào Chúa Giêsu.
Đối với những người còn yếu đuối về Đức Tin, Chúa thường cho họ những ơn lạ, để họ nhận biết quyền năng Thiên Chúa. Cụ thể như ông Phaolô, có lần bị đắm tầu, nên  ông bơi vào bờ tìm nơi sưởi ấm vì quá lạnh, ông thấy những thổ dân đang đốt lửa, ông ôm bó củi tiến lại quăng vào đống lửa, đột nhiên có con rắn độc quấn lấy tay ông, những thổ dân thấy thế nắm chắc ông sẽ chết, thế nhưng ông Phaolô bình tĩnh rũ con rắn vào lửa, và ông vẫn an toàn! (x Cv 28,3-6).
            2/ Ai đã tin vào Chúa Giêsu phải có lòng nhân ái sống hòa hợp với mọi loại người.
            Thực vậy, người đã được tái sinh làm con Thiên Chúa, thì phải sống hòa hợp với hết mọi loại người, kể cả những kẻ hại mình, để làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã nói về thời đại Thiên Chúa cứu độ : “Sói sống chung với  chiên, trẻ con thọc tay vào hang rắn lục” (Is 11,5-9). Đan cử như Phó tế Stephanô, vì nhiệt tình với Tin Mừng, ông bị bao nhiêu kẻ ác ném đá, trong đó có Phaolô, người này ôm áo động viên ném đá Stêphanô. Nhưng Stêphanô vẫn hiền hòa cầu nguyện cho họ, kết quả “sói Saulo” trở thành Tông Đồ Phaolô xuất sắc (x Cv 7-8 ; 2 Cr 11,5).
3/ Chúa Giêsu Phục Sinh thông chia chiến thắng cho các Tông Đồ.
Thánh Marco đã bố cục Tin Mừng của ông : Mở đầu Tin Mừng ông cho thấy Đức Giêsu sống giữa dã thú mà chúng không làm hại Ngài (x Mc 1,13). Dã thú ở đây phải hiểu cụ thể là những kẻ  làm theo ý Satan xúi, chống đối Đức Giêsu nhằm diệt Ngài, nên suốt cuộc đời phục vụ của Đức Giêsu, những kẻ ác tâm mở hai chiến dịch tấn công Ngài :
F Chiến dịch mở đầu : Chúng tấn công năm đợt :
-         Mc 2,1-12 : Ông lấy quyền nào mà tha tội?
-         Mc 2,15t   : Tại sao ông làm bạn với quân thu thuế và đĩ điếm?
-         Mc 2,18t   : Tại sao ông không dạy môn đệ ăn chay?
-         Mc 2,23t  : Tại sao vào ngày Sabbat ông để môn đệ mở đường bằng cách dập lúa của người ta.
-         Mc 3,1-6   :  Ai cho phép ông chữa bệnh vào ngày thứ bảy?
Tất cả những lần Đức Giêsu bị tấn công như thế, Ngài đã phá tan mưu thâm độc của chúng, tưởng đó chúng phải nhận ra Ngài là Thiên Chúa. Nhưng sau những đợt tấn công ấy, chúng rút vào nơi vắng bàn mưu tính kế với phe cánh Hêrôđê, rồi chúng lại tung năm chưởng tiếp tục tấn công Đức Giêsu :
-    Mc 11,27t    : Ai cho ông quyền đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ?
-    Mc 12,13t    : Có nên nộp thuế cho hoàng đế Roma không?
-    Mc 12,18t    : Ông giải thích thế nào cho hữu lý về sự sống lại?
-    Mc 12,27t    : Giới răn nào quan trọng nhất?
-   Mc 12,35-37: Tại sao Đức Kitô là Con vua Đavid, khi mà chính Đavid được Thánh Thần linh hứng cho thì đã nói : “Chúa đã nói cùng Chúa tôi : Hãy ngự bên hữu Ta, chờ Ta đặt quân thù ngươi dưới chân”. Chính Đavid gọi Ngài là Chúa, thì bởi đâu Ngài lại là Con của ông?
Dù chúng tung chưởng nào Đức Giêsu cũng bẻ gãy. Nhưng cuối cùng Đức Giêsu cho phép chúng giết Ngài, và chỉ sau ba ngày Ngài chiến thắng mọi sự ác, đánh gục thần chết.
Bởi thế khi Đức Giêsu sai các môn đệ lên đường nối tiếp sứ mệnh của Ngài, thì Ngài chia cho các ông chiến thắng qua trải nghiệm cuộc đời phục vụ : chẳng có sự dữ nào diệt được Ngài, để bảo đảm cho việc Tông Đồ của các ông làm đạt kết quả. Chiến thắng đó được diễn tả qua cách nói gợi hình : “Cầm rắn trong tay, uống nhằm thuốc độc cũng không bị hề hấn gì!” (Mc 16,18 : Tin Mừng).
IV. CHÚA GIÊSU VỀ TRỜI NHẰM YỂM TRỢ CHO HOẠT ĐỘNG TÔNG ĐỒ CỦA CÁC MÔN ĐỆ ĐẠT THÀNH CÔNG.
            Thánh sử Marco ghi nhận : “Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16,19-20 : Tin Mừng).
            Phép lạ vĩ đại nhất Đức Giê-su cho các Tông Đồ thể hiện để củng cố lời giảng của các ông, đó là các ông làm những việc như Ngài đã làm, mà còn làm những việc lớn lao hơn thế (x Ga 14,12). Đan cử : Đức Giê-su không thiết lập được giáo đoàn nào trong khi đó Tông Đồ Phao-lô khai sinh được nhiều giáo đoàn như Corintho, Galata, Epheso, Philip, Colose,Thessalonike. Thành quả các Tông Đồ gặt hái được lớn lao như thế là nhờ Ngài lên ngự bên hữu Chúa Cha và hằng chuyển cầu cho các ông, đó là lý do Đức Giê-su ra lệnh cho các ông : “Anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân, này đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20 : Tung Hô Tin Mừng).
            Ai được Chúa ở cùng thì :
-         Được Chúa trao nhiệm vụ vượt khả năng của họ, nhưng họ vẫn thành công. Đan cử như ông Môsê không có khả năng đương đầu với đế quốc Ai Cập, thế mà khi được Chúa ở cùng, ông đã dẫn dân Do Thái thoát nô lệ Ai Cập (x Xh 3,12) ; hoặc như cô Maria chỉ là một nữ tỳ ở miền quê Nazareth, nhưng được Chúa ở cùng, Maria đã sinh Con Thiên Chúa cho đời, và đương nhiên Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa (x Lc 1,28t).
-         Không sự dữ nào thắng được họ, dù uống thuốc độc hay bị rắn cắn cũng không hề chi! (x Mc 16,14-20).
-         Được Chúa ban đầy ân phúc như lời thiên thần nói với Đức Maria : “Vui lên, hỡi Đầy Ơn Phúc, Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28).
V. SỰ KHẨN THIẾT PHẢI CHU TOÀN SỨ MỆNH NGÔN SỨ.
            Thánh Phao-lô đã ý thức được tầm quan trọng việc loan báo Tin Mừng như trên, nên ông vui sướng trong sứ mệnh ngôn sứ nói : “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó.Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi” (1 Cr 9,16b-18 : Bài đọc).
            Thánh Phaxico đang mơ mộng chức giáo sư Đại học, khi đạt địa vị và có tiền của, ông muốn cưới cô nào làm vợ rất dễ. Nhưng khi ông được nghe một Linh mục nói với ông câu Lời Chúa : “Nào có ích gì cho người ta khi được lời lãi tất cả thế gian, mà lại thiệt mất sự sống mình” (Mt 16,26).
            Lời ấy làm đảo lộn đời ông : ông từ bỏ những ước mơ vẫn hằng ấp ủ, ông xin đi tu được làm Linh mục và lên đường truyền giáo. Trong mười năm ông can đảm loan báo Tin Mừng cho người Ấn Độ, Nhật Bản, giúp cho nhiều người hoán cải mà đón nhận Đức Tin. Và ông đã qua đời năm 1552, vào tuổi 46, ở đảo Xan-xi-an, cửa ngõ vào Trung Quốc.
            Và như thế thánh Phanxico đã thực hiện Lời Đức Giê-su : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng” (Mc 16,15 : Đáp ca).
THUỘC LÒNG
            Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. (1 Cr 9,16-17).
Lm Giuse Đinh Quang Thịnh
            
03/12/13 THỨ BA TUẦN 1 MV
Th. Phanxicô Xaviê, linh mục
Mc 16,15-20

LOAN TIN MỪNG KHẮP THẾ GIAN
Chúa Giêsu nói với các môn đệ :”Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15)
Suy niệm: Rất nhiều mệnh lệnh của Chúa Giêsu, như mệnh lệnh truyền giáo hôm nay, đã bị giảm thiểu một cách đáng ngại. Việc “đi khắp tứ phương thiên hạ” bị hiểu là đi khắp nơi trong cái không gian vật chất giới hạn trên mặt đất này. Mệnh lệnh “loan báo Tin Mừng” bị hạn hẹp vào việc “rửa tội” cho người ta. Rồi chúng ta lại hay quên rằng Chúa muốn “mọi loài thụ tạo” được loan báo Tin Mừng chứ không riêng gì “loài người”. Chính vì thế, yếu tố môi trường hay bị lãng quên trong nội dung của lời rao giảng. Việc hạn hẹp mệnh lệnh của Chúa như thế chẳng khác nào thái độ cầu an muốn trốn tránh một sứ mạng đòi hỏi phải mở rộng ra những biên giới bao la hơn nhiều.
Mời Bạn: Theo Công đồng Vaticanô II, “tứ phương thiên hạ” chính là “thế giới của con người, tức là toàn thể gia đình nhân loại với mọi sự thuộc môi trường sinh sống của gia đình này” (GS 2). Điều đó có nghĩa là việc truyền giáo phải thấm sâu vào mọi lĩnh vực văn hoá, xã hội, chính trị, v.v…, nói tắt, mọi phương diện con người đụng chạm đến. Và “thế giới” ấy cần được nghe và thấm nhuần những “giá trị Tin Mừng” trước đã. Có như thế, Chúa Thánh Thần mới tác động và khơi dậy lòng tin nơi người nghe để họ tin, lãnh nhận phép Rửa và được cứu độ (c. 16).
Sống Lời Chúa: Hôm nay bạn sẽ dùng một lời nói, một nghĩa cử bác ái, một lời chia sẻ trên facebook, twitter, hoặc một phương thế khác để loan Tin Mừng chứ!
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban thêm cho con lòng nhiệt thành loan báo Tin Mừng cho anh em.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3 THÁNG MƯỜI HAI
Mùa Vọng, Thời Gian Của Đức Ma-ri-a
Một cách đặc biệt, Mùa Vọng là thời gian của Đức Ma-ri-a. Mẹ cưu mang Đấng Mêsia đã được mong đợi từ bao đời, Đấng là niềm hy vọng của mọi thời đại. Có thể nói, chính nơi Mẹ, chúng ta tìm thấy ý nghĩa tối thượng và đầy đủ của Mùa Vọng. Lễ Đức Trinh Nữ Ma-ri-a Vô Nhiễm được Giáo Hội cử hành trọng thể trong Mùa Vọng, điều đó có ý nghĩa hùng hồn biết bao!
Ngày Sinh Nhật Đức Mẹ được Giáo Hội mừng trọng thể hằng năm vào ngày 8 tháng 9; dù vậy, Mùa Vọng vẫn đưa chúng ta vào sâu trong mầu nhiệm thánh thiêng của ngày sinh nhật này. Trước khi xuất hiện trong trần gian, Đức Ma-ri-a được thụ thai trong cung lòng thân mẫu ngài. Đàng khác, cũng chính khoảnh khắc đó, Mẹ được sinh ra bởi chính Thiên Chúa, Đấng hoàn thành mầu nhiệm Vô Nhiễm Trinh Thai: Mẹ được sinh ra “đầy ơn phúc”!
Vì thế, cùng với vị Tông Đồ Dân Ngoại, chúng ta lặp lại: “Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giê-su Kitô, trong Đức Kitô, Ngài đã ban cho chúng ta muôn vàn ơn phúc bởi Thánh Thần” (Ep 1,3). Và Đức Ma-ri-a được chúc phúc một cách đặc biệt, một cách độc đáo vô song. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn Mẹ trước khi tạo thành thế giới để Mẹ trở nên thánh thiện tinh tuyền trước mặt Ngài (cf. Ep 1,4). Vâng, Chúa Cha vĩnh cửu đã chọn Đức Ma-ri-a trong Đức Kitô. Ngài đã chọn Mẹ cho Đức Kitô. Ngài đã làm cho Mẹ nên thánh thiện, thậm chí nên rất mực thánh thiện. Và hoa quả đầu tiên của sự tuyển chọn và của tiếng gọi này là: mầu nhiệm Mẹ Vô Nhiễm!
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 03-12
THÁNH PHANXICÔ XAVIE, LINH MỤC
Bổn mạng các xứ truyền giáo
1Cr 9,16-19.22-23; Mc 16, 15-20

LỜI SUY NIỆM:
Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.”
Đã là Kitô hữu, đều mang trên mình một sứ mạng là phải rao giảng Tin Mừng. Muốn chu toàn bổn phận này; chúng ta cần phải học biết về Đức Giêsu Kitô, về Giáo Hội của Ngài; nếu không học biết đầy đủ, chúng ta không những rao giảng sai về Ngài mà còn làm tổn thương đến công việc truyền giáo chung của Giáo Hội.
Lạy Chúa Giêsu; Chúa truyền cho chúng con phải làm chứng cho Chúa nơi môi trường của chúng con đang sống và làm việc; xin ban cho mỗi người trong gia đình của chúng con được ơn ham thích học hỏi Lời Chúa với sự cầu nguyện cùng sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, để chúng con sống đẹp lòng Chúa và hết lòng yêu thương nhau.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 03-12: Thánh PHANXICÔ XAVIÊ
Tông Đồ Ấn Độ và Nhật Bản
(1506 - 1552)

Phanxicô ra đời tại lâu đài Xaviê thuộc vương quốc Navarre ngày 7 tháng 4 năm 1506. Cha Ngài là cố vấn của nhà vua miền Navarre và là thẩm phán. Anh em Ngài theo binh nghiệp. Riêng Phanxicô ham thích học hành. Năm 19 tuổi, Ngài theo học tại đại học Paris, trường lớn nhất thế giới. Khi còn ở học viện thánh Barbe, Ngài được phúc trọ cùng phòng với Phêrô Faure, người sau này sẽ nhập dòng Tên và được phong chân phước. Bốn năm sau, Ngài lại có được người bạn học giả là Inhatio thành Loyoa.

Người học trò mẫn cán đã trở thành giáo sư. Ngài dạy triết học. Thành công làm cho Ngài thành con người tham vọng. Inhaxiô nói với Ngài về một hội dòng mà thánh nhân muốn thành lập. Nhưng Phanxicô mơ tới danh vọng, Ngài chế nhạo cũng như khinh bỉ nếu sống nghèo tự nguyện của bạn mình. Inhaxiô vui vẻ đón nhận những lời châm biếm, nhưng lặp lại rằng: - "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích lợi gì"
Cuối cùng, Phanxicô đã bị ảnh hưởng. Inhaxiô còn đưa ra những lời cao đẹp hơn: - "Một tâm hồn cao cả như anh, không hề chỉ gò bó với cái vinh dự thế trần được. Vinh quang trên trời mới đúng với cao vọng của anh. Thật vô lý, khi ưa chuộng một thứ mây khói chóng tàn hơn là những của cải tồn tại đời đời".
Phanxicô bắt đầu thấy được cái hư không của những sự cao trọng của thế nhân và hướng vọng tới của cải vĩnh cửu. Chiến thắng rồi, Ngài chống lại tính kiêu căng bằng mọi loại sám hối. Ngài quyết định theo sát Phúc âm, vâng theo cách cư xử của người bạn thánh thiện và xin được khiêm tốn hãm nình. Ngài chỉ còn chú tâm cứu rỗi các linh hồn.

Ngày lễ Mông triệu năm 1533, trong một nhà nguyện tại Monmartre, trên mộ bia thánh Dénis, Phanxicô, Inhaxiô và 5 bạn khác đã hiến mình cho Chúa. Họ khấn từ bỏ mọi của cải, hành hương thánh địa, làm việc để cải hóa lương dân và hoàn toàn đặt mình dưới sự điều động của Đức Thánh Cha để phục vụ Hội Thánh. Phanxicô còn học thần học hai năm nữa, rồi cùng sáu bạn đi Italia. Đi đường, họ chỉ mang theo cuốn kinh thánh và sách nguyện trong bị, cổ đeo tràng hạt. Tuyết lạnh hay khắc khổ cũng không làm họ sợ hãi. Trái lại, Phanxicô lại còn cảm thấy quá êm ái nhẹ nhàng, nên một ngày kia đã cột giây thừng vào chân, khiến dây đó ăn vào thịt và ngay việc được khỏi bệnh đó cũng đã là một phép lạ.
Đoàn quân bé nhỏ đó tới Venatia chống lại quân Thổ. Thế là họ phải bỏ cuôc hành hương đi thánh địa. Đức thánh cha đã chúc lành cho nhóm bạn cũng như dự định của họ. Phanxicô và Inhatiô thụ phong linh mục ngày 16 tháng 6 năm 1537. Phanxicô đã chuẩn bị thánh lễ mở tay bằng cuộc sám hối kéo dài 40 ngày trong một túp lều tranh bỏ hoang và sống bằng của ăn xin.
Trong khi chờ đợi bắt đầu thực hiện công việc vĩ đại của mình, Ngài rao giảng và săn sóc cho người nghèo trong các nhà thương. Ngài còn phải chiến thắng chính mình nữa, chẳng hạn khi băng bó các vết thương lở loét. Ngài luôn đi ăn xin thực phẩm.

Khi Phanxicô được 35 tuổi, vua nước Bồ Bào Nha xin Đức Thánh cha gửi các thừa sai sang An độ. Phanxicô rất vui mừng khi được chỉ định.
Ngài bộc lộ cho một người bạn: "Anh có nhớ rằng, khi ở nhà thương tại Roma, một đêm kia, anh đã nghe tôi la: "Còn nữa, lạy Chúa, còn nữa" không ? Tôi đã thấy rằng: phải chịu khổ nạn cho vinh danh Chúa Giêsu Kitô. Trước mặt tôi là những hoang đảo, những miền đất báo cho tôi biết trước cơn đói, cơn khát và cả đến cái chết dưới hàng ngàn hình thức. Tôi ao ước được chịu khổ hình hơn nữa".
Chỉ còn 24 giờ để chuẩn bị lên đường. Nhưng thế đã quá đủ để xếp đặt hành trang. Với vài bộ đồ cũ. Một thánh giá, một cuốn sách nguyện và một cuốn sách thiêng liêng. Ngài đáp tàu. Cuộc hành trình cực khổ vì say sóng. Đau bệnh, Ngài vẫn săn sóc các bệnh nhân. những thủy thủ hư hỏng dường như là đoàn chiên đầu tiên Ngài phải đưa về cho Chúa. Ngài rao giảng cho họ bằng chính việc chia sẻ cuộc sống với họ.
Sau bảy tháng hành trình, người ta dừng lại bến Mozambique. Khí trời ngột ngạt. Một cơn bệnh dịch đang hoành hành nơi đây. Phanxicô lại săn sóc các bệnh nhân và muốn sống đời cực khổ nhất. Ngài lặp lại: "Tôi khấn sống nghèo khó, tôi muốn sống và chết giữa người nghèo".
Sau một năm hành trình, Phanxicô cặp bến Goa, thủ đô miền Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 1542. Ngài phát khóc vì vui mừng. Nhưng việc cấp thiết, nhất là phải làm cho những người chinh phục Bồ Đào Nha giữ đạo đã. Những tật xấu và tính hung hăng của họ làm ô danh Kitô giáo. Còn dân An thì thờ ngẫu tượng. Họ vặn đó có con để tế lễ. Vị tông đồ làm thầy thuốc, thẩm phán, giáo viên. Ngài học tiếng một cách khó khăn, thời gian của Ngài dành cho các nhà thương, nhà tù, người nghèo và việc dạy giáo lý. Rảo qua đường phố, Ngài rung chuông tập họp trẻ em và dân nô lệ lại, với sự nhẫn nại vô bờ, Ngài ghi khắc tình yêu Chúa vào lòng họ. Các trẻ em tham dự lại trở thành các nhà truyền giáo cho cha mẹ và thày dạy của chúng. Chúng mang thánh giá của "ông cha" cho các bệnh nhân. Chúng trở nên hung hăng với các ngẫu tượng. Bây giờ, các cánh đồng lúa vang lên được bài thánh ca. Dần dần, đời sống Kitô giáo đã vững vàng trong lòng các gia đình.
Phanxicô nghe nói tới một bộ lạc thờ lạy ngẫu thần ở mũi Comorin, sống bằng nghề mò ngọc trai. Muốn loan báo Tin Mừng cho họ, thánh nhân học ngôn ngữ mới, vượt mọi khó khăn để phổ biến đức ái và chân lý. Rồi Ngài lại qua các làng khác. Cứ như thế Ngài đi khắp An độ. Trong 15 tháng trời, Ngài đã rửa tội cho một số đông đảo người Kitô hữu, khiến "xuôi tay vì mệt mỏi". Người nói: "Mọi ngày tôi đều thấy tái diễn những phép lạ thời Giáo hội sơ khai".
Ngài ngủ ít, đêm thức khuya để cầu nguyện. Sống khắc khổ để đền tội cho các tội nhân. Ngài chăm chú đào tạo các tâm hồn thanh thiếu niên địa phương để sai đi làm tông đồ truyền giáo cho các người đồng hương của họ.
Ở tỉnh Travancore, trong vòng một tháng, thánh nhân đã rửa tội cho 10.000 người. Người Brames muốn hạ sát Ngài, nhưng Ngài đã giữ được mạng sống một cách lạ lùng dưới cơn mưa tên. Ở vương quốc Travance, khi nhóm người man-di muốn tràn ngập, Phanxicô cầm thánh giá trong tay với một số ít tín hữu đã làm cho họ phải tháo lui. Ngài mang Tin Mừng tới Ceylanca, Malacca. Các đảo Molluques vang danh vì sự hung tợn của họ, nhất là đảo của dân More ở phía Bắc...
Ngài nhắm tới đảo này, Ngài muốn bị dân cư giết chết như một vị thừa sai 13 năm trứơc đây sao ?
Người ta ngăn không cho tàu bè chở Ngài đi. Phanxicô đáp lại: - "Thì tôi bơi tới vậy".
- Nhưng Ngài sẽ bị đầu độc thì sao ?
Ngài nói: - "Niềm tin tưởng ở Thiên Chúa là thuốc kháng độc.
Rồi Ngài thêm: "Oi, nếu như hy vọng tìm được gỗ quí hay vàng bạc, các Kitô hữu đổ xô tới ngay. Nhưng lại chỉ có các linh hồn cần được cứu rỗi. Tôi sẽ chịu khổ gấp ngàn lần để cứu lấy một linh hồn thôi".
Phanxicô đã viết thư xin vua Bồ Đào Nha và thánh Inhatiô gởi các linh mục tới săn sóc cho các cộng đoàn Kitô hữu Ngài để lại. Sự khó khăn và chậm chạp về thư tín làm cho đời Ngài thêm nhiều phiền phức. Ngài phải mất gần 4 năm để gửi thư từ Moluques về Roma. Dầu giữa các khó khăn mệt nhọc, thánh nhân không để mất tính hiền hậu và khiêm tốn.
Năm 1549, một người Nhật được Ngài rửa tội ở Malacca đã thu hút Ngài tới hòn đảo vô danh, chưa có người Kitô hữu nào. Lời cầu nguyện và đời sống hãm mình củng cố lòng can đảm của Ngài. Không để mình bị chán nản do ngôn ngữ khó học hay bởi nội chiến. Ngài đã có thể tạo lập được một cộng đoàn Kitô hữu nhỏ như Ngài mơ ước. Các phép lạ củng cố lời giảng dạy của Ngài, nhưng dân chúng bị đánh động nhiều hơn bởi đức tin và lòng can đảm của người ngoại quốc này đã từ xa đến để loan báo cho họ chân lý duy nhất.
Được hai năm, nhà truyền giáo lại ra đi, để lại tại miền đất xa này những cộng đồng Kitô hữu đứng khá vững trong nhiều thế kỷ, dù không có linh mục cai quản .
Phanxicô trở lại An độ. Ngài đã rảo qua gần 100.000 cây số trong 10 năm. Bấy giờ, việc chinh phục Trung hoa ám ảnh tâm hồn Ngài. Ngài đáp tàu, nhưng không bao giờ tới được quốc gia rộng lớn này. Vào cuối tháng 11 năm 1552, trên đảo Hoàng Châu, Ngài bị lên cơn sốt rét. Giữa cơn đau, Ngài đã lập lại: - Lạy Chúa Giêsu, con vua David, xin thương xót con, xin thương đến các tội con.
Ngài dứt tiếng và không nhận ra được các bạn hữu nữa. Khi hồi tỉnh, Ngài lại kêu cầu Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu và nài xin Đức Mẹ: " Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, xin hãy nhớ đến con".
Một người Trung Hoa thấy Ngài hấp hối thì đặt vào tay Ngài một cây nến. Phanxicô qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1552. Ít tuần sau, người ta tìm thấy xác Ngài vẫn nguyên vẹn và chở về Goa. Dân chúng tại đây nhiệt tình tôn kính Ngài, vì đã coi Ngài như một vị thánh.
Năm 1619, Đức Paulô V đã suy tôn chân phước cho Ngài cùng với thánh Inhaxiô. Nay Ngài được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
(daminhvn.net)

Thứ Ba 3-12
Thánh Phanxicô Xaviê
(1506-1552)

Ð
ức Kitô hỏi, "Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?" (Mt. 16:26a). Câu hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo sư triết trẻ tuổi, với một tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh dự đang chờ đón.
Vào lúc đó, Phanxicô Xaviê mới 24 tuổi, đang sinh sống và giảng dạy ở kinh thành Balê. Ngài không thay đổi ngay lập tức khi nghe những lời ấy, nhưng tất cả là nhờ ở người bạn tốt, Cha Ignatius ở Loyola, đã liên lỉ thuyết phục và sau cùng đã chiếm được người thanh niên ấy cho Ðức Kitô. Sau đó, Phanxicô tập luyện đời sống tâm linh dưới sự hướng dẫn của Cha Ignatius, và năm 1534 ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của Cha Ignatius (là Dòng Tên thời tiên khởi). Tại Montmartre, các ngài khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và hoạt động tông đồ dưới sự hướng dẫn của đức giáo hoàng.
Từ Venice, là nơi ngài thụ phong linh mục năm 1537, Cha Phanxicô Xaviê đến Lisbon và từ đó ngài dong buồm đến Ấn Ðộ, cập bến làng Goa ở bờ biển phía tây nước Ấn. Trong vòng 10 năm tiếp đó, ngài đã tích cực hoạt động để đem đức tin đến cho rất nhiều dân tộc, trong đó có người Ấn Ðộ, Mã Lai và Nhật Bản.
Bất cứ chỗ nào ngài đến, ngài đều sống với người nghèo, chia sẻ thức ăn và các phương tiện thô sơ với họ. Ngài dành rất nhiều thời giờ để chăm sóc người đau yếu, nghèo khổ, nhất là người cùi. Rất nhiều khi ngài không có thời giờ để ngủ hoặc ngay cả để đọc kinh nhật tụng, nhưng, qua các thư từ ngài để lại chúng ta được biết, ngài luôn luôn tràn ngập niềm vui.
Cha Phanxicô đến các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Ngài học tiếng Nhật và rao giảng cho các người dân chất phác, dạy giáo lý và rửa tội cho họ, cũng như thành lập các trụ sở truyền giáo cho những người muốn giúp đỡ công cuộc của ngài. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.
Năm 1622, ngài được Ðức Giáo Hoàng Piô X phong thánh và đặt làm quan thầy các công cuộc truyền giáo nước ngoài.
Lời Bàn
Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi để "ra đi và rao giảng cho muôn dân" (x. Mátthêu 28:19). Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người cùng làm việc với chúng ta. Và sự rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hàng ngày. Chính nhờ sự hy sinh, từ bỏ tất cả những gì của riêng mình, mà Thánh Phanxicô mới có tự do để đem Tin Mừng đến cho người khác. Hy sinh là quên đi cái tôi của mình vì lợi ích cao cả hơn, lợi ích của sự cầu nguyện, lợi ích khi giúp đỡ người có nhu cầu, lợi ích khi lắng nghe người khác. Món quà lớn nhất của chúng ta là thời giờ, và Thánh Phanxicô đã hy sinh thời giờ của ngài cho người khác.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét