Trang

Thứ Năm, 5 tháng 12, 2013

Dẫn Nhập vào Kitô Giáo

Dẫn Nhập vào Kitô Giáo

Trong một bài trước (1), chúng tôi có đề cập tới tác phẩm được coi là quan trọng nhất của thần học gia Joseph Ratginger, xuất bản năm 1968, đúng vào lúc có những xáo trộn quan trọng tại các đại học nói chung và tại Đại Học Tubingen, nơi ngài đang giảng dạy, nói riêng. Đó là cuốnDẫn Nhập Vào Kitô Giáo (2). Có người cho rằng các biến cố bạo loạn của sinh viên đại học năm 1968 đã biến Ratzinger từ một người cấp tiến bước hẳn qua trường phái bảo thủ. Nhưng nếu đọc kỹ tác phẩm này, ta sẽ thấy nhận định này không chính xác vì nội dung cuốn sách phần lớn là các bài diễn giảng của ngài trong năm 1967.

Cuốn sách nói lên những điểm căn bản trong tư duy liên tục của ngài đến nỗi năm 2000, hơn 30 năm sau, với biết bao thăng trầm thật đáng kể trong lịch sử gần đây, khi cho tái bản, ngài đã giữ nguyên nội dung của nó. Để hiểu hậu cảnh của việc giữ nguyên này, ta nên đọc lại lời nói đầu cho lần tái bản năm 2000 do chính ngài viết. 


Hơn ba mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày tác phẩm này được xuất bản lần đầu, trong khi ấy, lịch sử thế giới đã diễn biến rất nhanh. Nhìn trở lui, hai năm được xem như những cột mốc đặc biệt quan trọng trong hai thập niên cuối cùng của thiên niên kỷ sắp kết thúc là năm 1968 và năm 1989. Năm1968 đánh dấu cuộc nổi loạn của một thế hệ mới; thế hệ này không những coi việc tái thiết hậu chiến ở Âu Châu không thỏa đáng, đầy bất công, đầy vị kỷ và tham lam, mà còn cho rằng trọn bộ dòng lịch sử từ thời Kitô Giáo chiến thắng tới lúc đó hoàn toàn là một sai lầm và thất bại. Những người trẻ này muốn cải thiện sự việc để đem lại tự do, bình đẳng và công bằng, và họ xác tín rằng trong chính dòng tư duy Mácxít, họ đã tìm được phương cách làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Năm 1989 đem lại sự sụp đổ đầy ngạc nhiên cho các chế độ xã hội chủ nghĩa tại Âu Châu, để lại phía sau cả một di sản đáng buồn gồm những lãnh thổ và những tâm hồn tan nát. Bất cứ ai hy vọng rằng thời khắc đã đến đối với với sứ điệp Kitô Giáo đều đã thất vọng. Dù con số tín hữu Kitô khắp thế giới không nhỏ, nhưng Kitô Giáo quả đã thất bại ngay vào thời khắc lịch sử ấy trong việc làm cho mình được lắng nghe như một giải pháp thay thế tạo thời thế. Xét trong căn bản, lý thuyết cứu rỗi của Mác (dĩ nhiên dưới nhiều sắc thái được đạo diễn khác nhau) đã đưa ra một chủ trương coi mình như người hướng dẫn tương lai duy nhất được đạo dức thúc đẩy, một hướng dẫn đồng thời cũng nhất quán với thế giới quan khoa học. Bởi thế, thậm chí sau cú sốc năm 1989, nó vẫn không chịu thoái lui. Ta chỉ cần nhớ người ta ít nói xiết bao tới nỗi kinh hoàng của các quần đảo (gulac) Cộng Sản, tiếng nói của Solzhenitsyn vẫn bị cô lập như thế nào: không ai đề cập tới những chuyện này nữa. Có một nỗi xấu hổ nào đó ngăn cản họ; thậm chí cả chế độ sát nhân của Pol Pot cũng chỉ thỉnh thoảng được nhắc đến qua loa. Tuy nhiên, người ta vẫn thất vọng và bối rối tận cùng. Họ không còn tin tưởng gì vào các lời hứa hẹn tinh thần lớn lao, và dù sao, đây cũng là điều chủ nghĩa Mác nghĩ mình là. Nó muốn đòi công lý cho mọi người, đòi hòa bình, đòi triệt hạ các tương quan chủ tớ bất công, và vân vân. Chủ nghĩa Mác tin rằng nó phải tạm thời miễn trừ các nguyên tắc đạo đức và tự cho phép mình sử dụng khủng bố như phương tiện lành mạnh để đạt các mục tiêu cao thượng kia. Khi các hậu quả tàn bạo về nhân bản trở thành rõ rệt, những nhà ý thức hệ trước đây thích rút về chủ trương thực tiễn, nếu không họ cũng tuyên bố công khai là mình khinh bỉ đạo đức. Ta có thể nhận ra một điển hình thảm hại của điều này tại Colombia, nơi người ta từng khởi diễn một chiến dịch, thoạt đầu dưới biểu ngữ Mácxít, nhằm giải phóng các tiểu nông gia từng bị các cơ sở tài chánh giầu có chà đạp. Nhưng ngày nay, thay vào đó, người ta đã khai trương ra một nền cộng hòa phản loạn, vượt quyền kiểm soát của chính phủ, và hoàn toàn công khai lệ thuộc việc buôn bán ma túy và không còn theo đuổi bất cứ sự biện minh luân lý nào cho việc ấy nữa, nhất là vì nó lại thỏa mãn đòi hỏi của các nước giầu có, đồng thời cung cấp được cơm bánh cho những người chả còn trông mong gì nơi nền kinh tế thế giới. Trong tình thế bối rối ấy, há Kitô Giáo lại không nên cố gắng một cách hết sức nghiêm chỉnh để khám phá lại chính tiếng nói của mình, ngõ hầu “dẫn nhập” tân thiên niên kỷ vào sứ điệp của mình, và làm sứ điệp này trở thành dễ hiểu như một hướng dẫn tổng quát cho tương lai? 

Dù sao, vào lúc đó, tiếng nói của đức tin Kitô Giáo đang ở đâu? Năm 1967, khi cuốn sách này đang được trước tác, việc lên men giai đoạn đầu tiên của thời hậu công đồng đã bước vào đà hết sức sôi động. Một cách chính xác, Công Đồng Vatican II có dự tính như sau: đem lại cho Kitô Giáo một lần nữa sức mạnh có thể lên khuôn lịch sử. Thế kỷ mười chín từng tạo ra ý tưởng cho rằng tôn giáo thuộc lãnh vực chủ quan, riêng tư và nên nằm ở chỗ đó. Nhưng chính vì nó được phạm trù hóa như một một điều gì chủ quan, nên nó không thể là yếu tố xác định trong toàn bộ dòng lịch sử nói chung và trong các quyết định có tính thời đại cần đưa ra như thành phần của lịch sử này. Giờ đây, tiếp theo công đồng, người ta giả thiết rằng, điều trở nên hiển nhiên một lần nữa là đức Tin Kitô Giáo phải bao hàm trọn cuộc sống, nó phải hiện diện giữa lòng lịch sử và thời gian và liên hệ tới quá bên kia lãnh vực ý niệm chủ quan. Ít nhất theo quan điểm Giáo Hội Công Giáo, Kitô Giáo đang cố gắng một lần nữa thoát ra khỏi sự cô lập (ghetto), một thứ cô lập nó buộc phải lui vào từ thế kỷ mười chín, để tái can dự vào thế sự nói chung. Ở đây, chúng ta không cần thảo luận các tranh luận và chạm trán trong nội bộ Giáo Hội từng nổi lên xung quanh việc giải thích và hấp thụ công đồng. Vào thời gian này, vấn đề chính ảnh hưởng tới địa vị Kitô Giáo là quan điểm về mối liên hệ mới giữa Giáo Hội và thế giới. Mặc dù Romano Guardini, từ thập niên 1930, đã tạo ra kiểu nói Unterscheidung des Christlichen [phân biệt điều gì là Kitô Giáo], một vấn đề cực kỳ cần thiết vào lúc đó, nhưng những phân biệt như thế nay không còn quan trọng nữa; trái lại, tinh thần thời đại đòi ta phải vượt qua biên giới, vươn tay ra với thế giới, và dấn thân trong đó. Nhìn vào những hàng rào cản tại Paris năm 1968, người ta đã chứng minh được rằng các ý tưởng vừa kể phát xuất mau chóng ra sao trong các cuộc thảo luận có tính khoa bảng của người trong Giáo Hội và được áp dụng một cách rất thực tiễn như thế nào: một Thánh Thể cách mạng đã được cử hành tại đó, nhờ thế, đã đem vào thực hành một hòa nhịp mới của cả Giáo Hội và Thế Giới dưới biểu ngữ cách mạng là đem bình minh lại cho một thời đại tốt đẹp hơn. Vai trò lãnh đạo của các nhóm sinh viên Công Giáo và Thệ Phản trong các cuộc nổi dậy có tính cách mạng tại các đại học ở Âu Châu cũng như tại các nơi khác đã xác nhận xu hướng này. 

Việc diễn dịch mới mẻ các ý niệm này thành hành động, sự hòa nhịp mới các thúc đẩy của Kitô Giáo với các hoạt động thế tục và chính trị được coi như một ánh chớp; tuy nhiên, những đám cháy được nó thực sự tạo nên lại xẩy ra tại Châu Mỹ La Tinh. Trong hơn một thập niên, nền thần học giải phóng dường như đã chỉ ra được một con đường nhờ đó đức tin có thể lên khuôn lại cho thế giới, nhờ đã tạo được một chính nghĩa chung với các phát kiến và sự khôn ngoan thế tục của thời đại. Không ai tranh cãi sự kiện này: ở Châu Mỹ La Tinh, đã có những sự kiện hết sức kinh hoàng như áp chế, cai trị bất chính nghĩa, tập trung tài sản và quyền hành trong tay một thiểu số, và bóc lột người nghèo, và cũng không ai tranh cãi việc cần phải làm một điều gì đó. Và vì đây là vấn đề của các quốc gia đa số dân là Công Giáo, nên hiển nhiên Giáo Hội có trách nhiệm ở đây và đức tin phải tự chứng tỏ mình là sức mạnh dành công lý. Nhưng dành cách nào? Thế là Mác xuất hiện như một sách giáo khoa vĩ đại. Người ta bảo hiện giờ ông đóng cùng một vai trò như vai trò từng rơi xuống vai Arítốt vào thế kỷ mười ba; nền triết học tiền Kitô Giáo (hay “ngoại đạo”) của người vừa kể cần được rửa tội mới đem đức tin và lý trí vào một tương quan thích đáng đối với nhau. Nhưng bất cứ ai chấp nhận Mác (trong bất cứ sắc thái tân Mácxít nào) làm đại biểu cho lý trí trần thế, cũng đều không những chấp nhận một triết lý, một viễn kiến về cội nguồn và ý nghĩa hiện sinh, mà còn và đặc biệt còn chấp nhận luôn một chương trình thực tiễn. Bởi vì “triết lý” này, trong yếu tính, vốn là một “lý thuyết thực hành” (praxis), một lý thuyết không tiền giả thiết một “chân lý” nào mà muốn tạo ra chúng. Bất cứ ai muốn biến Mác thành triết gia của thần học đều chấp nhận tính tối thượng của chính trị và kinh tế, những điều hiện đã trở thành quyền lực thực sự có thể đem lại sự cứu rỗi (và nếu bị lạm dụng, có thể mang tới tai họa). Theo lối suy nghĩ này, sự cứu rỗi của nhân loại xẩy ra nhờ chính trị và kinh tế, trong đó hình thức tương lai được xác định. Tính tối thượng của lý thuyết thực hành và chính trị này, trước nhất, có nghĩa: Thiên Chúa không thể bị phạm trù hóa như một điều “thực tiễn”. “Thực tại” mà người ta phải can dự vào lúc này chỉ là thực tại vật chất của những hoàn cảnh lịch sử nhất định, là những hoàn cảnh cần được nhìn một cách có phê phán và được cải cách, được qui hướng về các mục tiêu đúng đắn bằng cách sử dụng các phương thế thích đáng. Trong số các phương thế này, bạo lực là điều không thể miễn chước. Theo viễn ảnh này, việc nói về Thiên Chúa không thuộc cả lãnh vực thực tiễn lẫn lãnh vực thực tại nữa. Nếu cần phải khoan dung việc này, thì nên triển hạn nó cho tới khi công việc quan trọng hơn đã được làm xong. Điều còn phải bàn, là khuôn mạo Chúa Giêsu, Đấng vào lúc này dĩ nhiên không được xuất hiện như Đấng Kitô, mà đúng hơn như hiện thân của mọi con người đau khổ và bị áp bức và như phát ngôn viên của họ. Người kêu gọi ta đứng lên, thay đổi xã hội. Trong tất cả những điều này, điều mới lạ là chương trình thay đổi thế giới, một chương trình theo Mác vốn có xu hướng không những vô thần mà còn phản tôn giáo nữa, nay tràn ngập lòng say mê tôn giáo và được xây dựng trên các nguyên tắc tôn giáo: một cách đọc Thánh Kinh mới (nhất là Cựu Ước) và một phụng vụ mới được cử hành như một thành tựu tượng trưng của cách mạng và như một chuẩn bị cho cuộc cách mạng ấy. 

Phải thừa nhận rằng nhờ cuộc tổng hợp đáng lưu ý này, Kitô Giáo đã một lần nữa bước vào vũ đài thế giới và trở thành một sứ điệp “tạo thời thế”. Không lạ gì các nhà nước xã hội chủ nghĩa rất ủng hộ phong trào này. Điều đáng lưu ý hơn nữa là sự kiện này: ngay tại các quốc gia “tư bản chủ nghĩa” thần học giải phóng cũng là cục cưng của công luận: nói ngược lại nó bị tích cực coi như một tội lỗi chống lại nhân tính và nhân loại, dù lẽ dĩ nhiên không ai muốn thấy các biện pháp thực tiễn được áp dụng vào hoàn cảnh riêng của mình, vì hiển nhiên họ đã đạt tới một trật tự xã hội công bình. Giờ đây, ta không thể chối cãi rằng trong số các nền thần học giải phóng khác nhau, thực sự có những nền có cái nhìn rất thông sáng. Tuy nhiên, mọi kế hoạch nhằm một tổng hợp có tính tạo thời thế giữa Kitô Giáo và thế giới phải bị gạt qua một bên lúc niềm tin coi chính trị như một sức mạnh cứu rỗi bị sụp đổ. 

Thực vậy, như Arítốt từng nói, con người là một “hữu thể chính trị” nhưng không thể giản lược họ vào chính trị và kinh tế. Tôi thấy các nền thần học giải phóng có vấn đề thực sự và rất sâu xa ở chỗ họ thực sự bỏ sót ý niệm Thiên Chúa, một việc lẽ dĩ nhiên cũng thay đổi dung mạo Chúa Kitô một cách triệt để (như chúng ta đã chỉ ra). Không phải như thể Thiên Chúa bị bác bỏ, không đời nào! Nhưng chỉ là vì Người không được cần đến khi nói tới “thực tại” mà nhân loại đang phải đối phó. Thiên Chúa không liên quan gì tới việc này cả. 

Ta ngỡ ngàng về điểm này và bỗng tự hỏi: phải chăng đây là trường hợp chỉ có trong thần học giải phóng? Hay lý thuyết này sở dĩ có thể đạt tới một lượng định như thế về vấn đề Thiên Chúa, một vấn đề không thực tế chút nào đối với việc hằng mong chờ là thay đổi thế giới, chỉ vì thế giới Kitô Giáo cũng nghĩ như thế, hay đúng hơn, cũng sống như thế, không suy tư về nó hay không hề lưu ý tới nó? Há ý thức Kitô Giáo đã không thuận tình một cách đáng kể, dù không để ý, với thái độ cho rằng đức tin vào Thiên Chúa là một điều chủ quan, thuộc lãnh vực riêng tư chứ không thuộc sinh hoạt chung của cuộc sống công cộng, là nơi, để có thể sống hoà hợp với người khác, tất cả chúng ta phải cư xử etsi Deus non daretur (như thể không còn Thiên Chúa nữa)? Há không cần thiết hay sao phải tìm ra cách có giá trị khác trong trường hợp Thiên Chúa quả không hiện hữu? Và, thực sự, chuyện này sẽ tự động xẩy ra: khi đức tin rời khỏi nội thẳm thánh thiêng của các vấn đề thuộc Giáo Hội để bước vào nơi công chúng nói chung, thì Thiên Chúa chả còn chi để làm và do đó nên để Người ở nơi Người vốn ở: tức lãnh vực riêng tư, trong phạm vi thân thiết chẳng liên quan tới bất cứ ai khác. Người ta không cần phải lãng quên một cách đặc biệt, và chắc chắn không cần phải cố ý bác bỏ mới có thể để Thiên Chúa như một Thiên Chúa không có gì để làm, nhất là vì Danh Người thường rất hay bị lạm dụng. Đức tin đáng lẽ đã ra khỏi chỗ cô lập nếu nó chịu mang theo mình vào khu vực công cộng đặc điểm rõ nét nhất của nó: tức Đấng Thiên Chúa phán xét và đau khổ, Đấng Thiên Chúa định giới hạn và tiêu chuẩn cho ta; Đấng Thiên Chúa mà từ Người chúng ta phát xuất và hướng về Người chúng ta đang đi tới. Nhưng, thực sự, cũng như trước, nó vẫn tiếp tục ở lại trong khu cô lập, cho tới nay tuyệt đối vẫn không có gì để làm. 

Ấy thế nhưng Thiên Chúa vẫn là Đấng “thực tiễn”, chứ không phải là kết luận lý thuyết của một thế giới quan nhằm thoa dịu mà ta có thể tin theo hay đơn giản bác bỏ. Hiện nay, ta thấy điều sau tại bất cứ nơi nào mà việc cố ý bác bỏ Người đã trở thành nguyên tắc và người ta không còn tìm cách giảm nhẹ việc Người vắng bóng nữa. Vì thứ nhất, khi Thiên Chúa bị lấy ra khỏi bức tranh, thì mọi sự xem ra vẫn tiếp tục như cũ. Các quyết định chín chắn và các cơ cấu căn bản của cuộc đời vẫn y nguyên, dù chúng đã mất hết nền tảng. Nhưng như Nietzsche từng mô tả, một khi tin tức “Thiên Chúa đã chết” thực sự đến tai người ta và họ lưu tâm tới việc này, thì mọi sự sẽ thay đổi. Ngày nay, điều này đã được minh chứng, một đàng, trong cung cách khoa học xử lý sự sống con người: con người đang trở thành một đối vật kỹ thuật trong khi càng ngày càng biến mất như một chủ thể nhân bản, và một mình họ phải chịu trách nhiệm về việc này. Khi bào thai người được “cấy” một cách nhân tạo để có được “chất liệu cho nghiên cứu” và kho cung cấp các bộ phận, hai việc mà sau đó được coi là có ích cho những con người nhân bản khác, nào có ai phản đối đâu, vì rất ít người khiếp đảm vì chúng nữa. Tiến bộ đòi hỏi những điều như thế, và chúng thực sự là những mục đích cao thượng: thăng tiến phẩm chất sự sống, ít là đối với những ai có khả năng tài chánh có thể sử dụng được các dịch vụ này. Nhưng nếu từ nguồn cội và gốc rễ của mình, con người chỉ là một đối vật cho chính mình, nếu họ “được sản xuất” ra và phát xuất từ đường dây sản xuất với những đặc điểm và phụ tùng được lựa lọc, thì, ở trên đời này, con người sẽ nghĩ về con người ra sao? Họ nên cư xử với mình thế nào? Thái độ của con người đối với con người sẽ ra sao, khi họ không thể tìm được điều gì có tính huyền nhiệm thần linh nơi người khác, mà chỉ là kiến thức kỹ thuật? Điều xẩy ra trong phạm vi “kỹ thuật cao” của khoa học đang được phản ảnh rõ ở bất cứ chỗ nào văn hóa nói chung thành công dứt bỏ được Thiên Chúa ra khỏi trái tim con người. Ngày nay, có những nơi việc buôn bán người đã diễn ra công khai: quả là một việc tiêu thụ người đầy ích kỷ trong khi xã hội đứng nhìn vô vọng. Tội ác có tổ chức, chẳng hạn, đã không ngừng đem phụ nữ ra khỏi Albania dưới nhiều chiêu bài khác nhau rồi gửi họ tới đất liền bên kia đại dương làm gái điếm, và bởi vì có đủ những kẻ ích kỷ ở đó chờ đợi thứ “hàng hóa” này, nên càng ngày tội ác có tổ chức càng quyền thế hơn, và những ai cố gắng chặn đứng nó đều chỉ nhận ra rằng con quái xà (hydra) tội ác này cứ thế mọc ra đầu mới, bất kể người ta cắt mất bao nhiêu chiếc đầu của nó. Và há ta đã không thấy khắp nơi chung quanh ta, ngay tại các khu xóm có vẻ thanh bình của ta, sự gia tăng bạo lực, một thứ bạo lực càng ngày càng được coi như chuyện tự nhiên và do đó, mỗi ngày mỗi trở nên liều lĩnh hơn? Tôi không muốn khai triển thêm nữa cảnh tượng hãi hùng này. Nhưng ta hẳn thắc mắc liệu Thiên Chúa có thực là một thực tại chân chính, một tiên quyết căn bản cho mọi “thực tại” đến nỗi không có Người, không điều gì được an toàn hay không. 

Ta hãy trở lại với dòng phát triển lịch sử từ năm 1967. Năm 1989, như tôi đã nói trên đây, không mang theo nó giải đáp mới nào, mà đúng hơn đã chỉ càng làm sâu thêm sự bối rối chung, khiến người ta càng hoài nghi hơn nữa các lý tưởng cao xa. Tuy nhiên, một điều gì đó quả đã xẩy ra. Tôn giáo trở thành hiện đại một lần nữa. Người ta không còn dự phóng nó sẽ mất dạng nữa; trái lại, nhiều hình thức tôn giáo mới mọc ra xum xuê. Trong cõi đơn côi nặng như chì của một thế giới từ bỏ Thiên Chúa, trong cái buồn chán bên trong của nó, việc tìm kiếm huyền nhiệm, tìm kiếm bất cứ loại tiếp xúc nào với đấng linh thiêng, bỗng trổ sinh như mới. Khắp mọi nơi, người ta nói tới thị kiến và sứ điệp từ thế giới bên kia, và bất cứ nơi nào có tường trình hiện ra, thì cả hàng ngàn người đổ xô du lịch tới đó, để họa may khám phá được đường nứt nào đó trên thế giới chăng, qua đó trời có thể nhìn xuống và gửi an ủi đến cho họ. Nhiều người than phiền rằng cuộc tìm kiếm tôn giáo mới mẻ này phần lớn đã qua mặt các Giáo Hội Kitô Giáo cổ truyền. Định chế luôn bất tiện và tín điều là một chuyện phiền toái. Điều người ta tìm là một trải nghiệm, một cuộc gặp gỡ với Đấng Tuyệt Đối Khác kia. Tôi không thể nói: tôi hoàn toàn nhất trí với lời than phiền này. Tại Ngày Giới Trẻ Thế Giới, như ngày gần đây tại Paris, đức tin quả đã trở thành một trải nghiệm và đem lại niềm vui hiệp thông. Một điều gì ngây ngất, theo nghĩa tốt, được giao cảm. Thứ ngây ngất đầy phiền muộn và phá hoại của ma túy, của nhịp nhạc như búa giáng, của náo động, của nghiện ngập đã chạm chán với thứ ngây ngất rạng rỡ của ánh sáng, của gặp gỡ hân hoan trong ánh nắng chan hòa của Thiên Chúa. Đừng ai cho rằng đây chỉ là chuyện thoáng qua. Đã đành, đôi khi là như thế thật. Nhưng nó cũng có thể là thời khắc có thể đem lại một thay đổi lâu dài và khởi diễn cho một hành trình. Những việc tương tự như thế từng xẩy tới cho nhiều phong trào giáo dân vốn xuất hiện trong ít thập niên qua. Ở đây cũng thế, đức tin đã trở thành một hình thức trải nghiệm sống, trở thành niềm vui được khởi diễn một cuộc lữ hành và được tham dự vào mầu nhiệm men bột đang thấm nhiểm trọn khối quần chúng ngay từ bên trong và đổi mới họ. Nhiên hậu, miễn có cội nguồn lành mạnh, ngay các nơi hiện ra cũng có thể là những động viên lên đường lại để tìm kiếm Thiên Chúa một cách tỉnh táo. Dĩ nhiên, bất cứ ai trông mong Kitô Giáo ngày nay trở thành một phong trào đại chúng đều sẽ thất vọng. Vì các phong trào đại chúng không mang theo chúng lời hứa hẹn của tương lai. Tương lai chỉ được tạo ra bất cứ nơi nào con người tìm được đường dẫn tới nhau trong các xác tín làm khuôn cho cuộc sống. Và một tương lai tốt đẹp sẽ lớn lên bất cứ nơi nào các xác tín này phát xuất từ sự thật và dẫn tới sự thật. 
______________________________________________________________________________________________________________
(1) Karl Rahner, Joseph Ratzinger và Vatican II, Vũ Văn An, Vietcatholic.net 11/28/2013
(2) Bản tiếng Việt của Nguyễn Luật Khoa, OFM, Nhà XB Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội, 2009

Tuy nhiên, việc tái khám phá tôn giáo có một khía cạnh khác. Ta đã thấy rằng khuynh hướng này tìm kiếm tôn giáo như một trải nghiệm, khía cạnh “huyền nhiệm” của tôn giáo là một phần quan trọng của việc này: tôn giáo phải giúp tôi tiếp xúc với Đấng Tuyệt Đối Khác kia. Trong hoàn cảnh lịch sử của ta, điều này có nghĩa: các tôn giáo huyền nhiệm của Á Châu (một phần của Ấn Giáo và một phần của Phật Giáo) với việc họ bác bỏ các tín điều và rất ít tính định chế, xem ra thích hợp với khối nhân loại được khai sáng (enlightened) hơn là một Kitô Giáo vốn được xác định bằng tín điều và được cấu trúc theo định chế. Tuy nhiên, xét chung, hậu quả là các tôn giáo riêng rẽ bị tương đối hóa; bất chấp các dị biệt và cả các mâu thuẫn nữa giữa các hình thức tín ngưỡng này, điều thực sự đáng kể, xét cho cùng, là cái bên trong của mọi hình thức khác nhau này, tức sự tiếp xúc với thể vô tả, với mầu nhiệm dấu ẩn. Và phần đông, người ta nhất trí với nhau rằng mầu nhiệm này không được biểu thị một cách trọn vẹn dưới bất cứ hình thức mạc khải nào, nghĩa là nó luôn chỉ được thoáng thấy một cách tình cờ và vụn vặt, ấy thế nhưng lại được tìm kiếm như một điều duy nhất và luôn như nhau. Cho rằng ta không thể nào biết chính Thiên Chúa, mọi sự ta nói được hay mô tả được chỉ có thể là một biểu tượng: đây chính là sự chắc chắn nền tảng đối với con người hiện đại, điều họ cũng coi là lòng khiêm nhường đứng trước thể vô cùng. Liên kết với sự tương đối hóa này là ý niệm hoà bình vĩ đại giữa các tôn giáo, biết nhìn nhận nhau như những cách thế phản ánh khác nhau Hữu Thể Trường Cửu Duy Nhất và để tùy mỗi cá nhân tự dò dẫm đường đi mà tìm ra Đấng, dù sao, vẫn kết hợp họ. Qua diễn trình tương đối hóa này, đức tin Kitô Giáo đã thay đổi một cách căn để, nhất là tại hai chỗ nền tảng trong sứ điệp chủ yếu của nó:

1. Khuôn mạo Chúa Kitô được giải thích cách mới hẳn, không những chỉ về phương diện tín điều, mà còn cả về phương diện Tin Mừng nữa, mà nhất là phương diện này. Niềm tin cho rằng Chúa Kitô là Con duy nhất của Thiên Chúa, Thiên Chúa thực sự cư ngụ giữa chúng ta như một con người trong chính Người, và con người Giêsu đời đời vẫn ở trong Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa, và do đó, không phải là một hình tượng để Thiên Chúa xuất hiện, mà đúng hơn là Thiên Chúa duy nhất và bất khả thay thế, niềm tin này đã bị loại bỏ. Thay vì là người mà cũng là Thiên Chúa, Chúa Kitô trở thành người cảm nghiệm Thiên Chúa cách đặc biệt. Người là người được giác ngộ và do đó, xét trong căn bản, không còn khác chi với những người được giác ngộ khác, như Bút Đa chẳng hạn. Nhưng trong lối giải thích này, khuôn mạo Chúa Giêsu mất hết tính luận lý nội tại của nó. Nó bị tước hết khung cảnh lịch sử trong đó nó đã được cột chặt và bị buộc phải khép mình vào một khung ảnh sự vật hoàn toàn xa lạ với nó. Bút Đa, và trong phương diện này giống như Sôcrát, đã khuyên môn đệ đừng chú ý tới mình: bản thân ngài không đáng kể, nhưng đáng kể là con đường ngài vạch ra. Ai đã tìm ra con đường ấy thì có thể quên Bút Đa đi. Còn với Chúa Giêsu, điều đáng kể lại là chính con người của Người, là chính Chúa Kitô. Khi Người nói “Ta là Đấng ấy”, ta nghe được âm sắc của lời “Ta là Đấng hằng có” trên núi Hôrép xưa. Đường đi vì thế hệ ở việc bước chân theo Người, vì “Ta là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6). Chính Người là đường, và không còn đường nào khác biệt lập khỏi Người, trên đó Người không còn đáng kể nữa. Vì sứ điệp chân thực mà Người mang tới không phải là một học thuyết mà là chính con người của Người, nên lẽ dĩ nhiên ta phải thêm rằng “cái Ta” (I) của Chúa Giêsu này tuyệt đối qui chiếu về “cái Ngài” (Thou) của Chúa Cha, nó không lấy mình làm đủ (self-sufficient), nhưng đúng hơn quả là một “con đường”. “Giáo huấn của Ta không phải của Ta” (Ga 7:16). “Ta không tìm ý Ta, mà là ý Đấng đã sai Ta” (Ga 5:30). “Cái tôi” này rất quan trọng vì nó hoàn toàn lôi kéo ta vào một sứ mệnh năng động, vì nó dẫn ta tới việc vượt quá con người ta và kết hợp với Đấng ta đã được tạo nên vì Người. Nếu khuôn mạo Chúa Giêsu bị lấy ra khỏi chiều kích làm ta bối rối này, nếu nó bị tách biệt khỏi Thiên Tính của Người, thì nó sẽ trở thành mâu thuẫn với chính nó. Lúc ấy chỉ còn lại những sợi chỉ rời rạc khiến ta bối rối hoặc trở thành cái cớ để ta tự khẳng định chính mình. 

2. Ý niệm Thiên Chúa cũng thay đổi một cách căn để. Vấn đề liệu có nên nghĩ về Thiên Chúa như một ngôi vị hay như không phải là một ngôi vị xem ra nay chỉ còn quan trọng bậc nhì; người ta hết còn ghi nhận sự dị biệt yếu tính giữa các hình thức tôn giáo duy thần hay phi duy thần (theistic and nontheistic). Quan điểm này hiện đang lan tràn hết sức nhanh chóng. Ngay những người Công Giáo có niềm tin và được huấn luyện về thần học, muốn được chia sẻ các trách nhiệm trong đời sống Giáo Hội, cũng đặt câu hỏi (như thể câu trả lời tự hiển nhiên rõ ràng): “Liệu việc ai đó hiểu Thiên Chúa như một ngôi vị hay không như một ngôi vị có thực sự quan trọng đến thế hay không?” Dù sao, ta cũng nên có tinh thần cởi mở, người ta bảo thế, vì mầu nhiệm Thiên Chúa, trong bất cứ trường hợp nào, cũng vượt quá các ý niệm và hình ảnh. Thế nhưng, những nhượng bộ như thế đập vào chính tâm điểm đức tin Thánh Kinh. Kinh shema, tức “Hãy nghe đây, hỡi Israel” trong Đệ Nhị Luật 6:4-9, đã là và vẫn còn là cốt lõi thực sự của căn tính tín hữu, không riêng cho Israel mà cho cả Kitô Giáo nữa. Người tín hữu Do Thái chết trong khi đọc lời tuyên xưng này; người tử đạo của Do Thái Giáo thở hơi thở cuối cùng vẫn tuyên xưng nó, vẫn hiến đời mình cho nó: “Hãy nghe, hỡi Israel. Người là Thiên Chúa chúng ta. Người là duy nhất”. Sự kiện nay Thiên Chúa đã tỏ lộ thánh nhan Người cho ta nơi Chúa Giêsu Kitô (Ga 14:9), một thánh nhan mà Môsê không được phép nhìn (Xh 33:20), vẫn không thay đổi mảy may lời truyên xưng này và không thay đổi được điều gì chủ yếu trong căn tính này. Dĩ nhiên, Thánh Kinh không sử dụng hạn từ “ngôi vị” để nói rằng Thiên Chúa có ngôi vị, nhưng ngôi vị tính của Thiên Chúa vẫn hết sức tỏ tường, giống như Thánh Danh Thiên Chúa vậy. Một Thánh Danh bao hàm khả năng được xưng hô, được nói, được nghe, được trả lời. Điều này là điều chủ yếu đối với Thiên Chúa Thánh Kinh, và nếu nó bị lấy đi, thì đức tin Thánh Kinh sẽ bị bác bỏ. Không ai tranh cãi việc từ trước đến nay vẫn có những cách sai lầm, hời hợt trong cái hiểu Thiên Chúa là Đấng có ngôi vị. Như Công Đồng Latêranô Thứ Tư từng nói về mọi lời lẽ của ta nói về Thiên Chúa, chính lúc ta áp dụng ý niệm ngôi vị vào Thiên Chúa, sự khác nhau giữa ý tưởng ngôi vị của ta và thực tại Thiên Chúa đã luôn luôn cực kỳ lớn lao hơn những gì chúng có chung với nhau rồi. Các áp dụng sai lạc ý niệm ngôi vị chắc chắn sẽ hiện hữu bất cứ lúc nào Thiên Chúa bị độc quyền hóa vì quyền lợi riêng của con người và do đó Thánh Danh Người bị nhuốc nhơ. Thành thử không phải là chuyện tình cờ khi Điều Răn Thứ Hai, là điều răn giả thiết phải bảo vệ Thánh Danh Thiên Chúa, theo ngay sau Điều Răn Thứ Nhất, là điều răn dạy ta thờ lạy Người. Về phương diện này, ta luôn học được một điều gì đó mới mẻ trong cung cách các tôn giáo “huyền nhiệm” nói về Thiên Chúa qua nền thần học hoàn toàn tiêu cực của họ, và về phương diện này nhiều nẻo đường đối thoại đã xuất hiện. Nhưng với việc mất đi điều vốn được hiểu như “Thánh Danh Thiên Chúa” tức bản chất hữu vị của Người, Thánh Danh Người không còn được bảo vệ và tôn kính nữa, mà bị bác bỏ thẳng thừng. 

Nhưng thử hỏi Thánh Danh Thiên Chúa, hữu thể hữu vị của Người, thực ra có nghĩa gì? Chính xác, nó có nghĩa này: không những ta cảm nghiệm Người, vượt quá mọi cảm nghiệm (trần thế), mà Người còn tự phát biểu và thông đạt Người ra nữa. Khi Thiên Chúa bị hiểu một cách hoàn toàn phi bản vị, như trong Phật Giáo chẳng hạn, bị hiểu như một chối bỏ hoàn toàn đối với mọi sự xem ra rất thực đối với ta, thì làm gì có mối liên hệ tích cực nào giữa “Thiên Chúa” và thế giới. Lúc đó, thế giới sẽ phải bị khuất phục như là nguồn gây đau khổ, và nó không còn được lên khuôn nữa. Lúc đó, tôn giáo chỉ còn nhiệm vụ chỉ cho ta con đường để khuất phục thế giới, để giải thoát con người khỏi ách nặng của những điều không có thực (seeming) trên thế giới, nhưng không đề xuất bất cứ tiêu chuẩn nào để hướng dẫn ta sống trong đời, không một hình thức trách nhiệm xã hội nào trong đời cả. Với Ấn Độ Giáo, tình thế có khác đôi chút. Điều chủ yếu trong tôn giáo này là cảm nghiệm đồng nhất (experience of identity): xét cho cùng, tôi là một với cơ sở dấu ẩn của chính thực tại, là tat tvam asi (Ngươi là cái đó) của Upanishads. Sự cứu rỗi hệ ở việc giải thoát khỏi cá nhân tính, khỏi việc là-một-ngôi-vị, bằng cách vượt qua sự dị biệt hóa khỏi mọi hữu thể vốn bắt nguồn từ việc là-một-ngôi-vị: sự lừa dối do việc bản ngã tự quan tâm tới chính mình cần phải được dẹp bỏ. Nan đề của quan điểm về hữu thể này thấy rõ hơn cả trong Tân Ấn Độ Giáo, là nơi tính độc đáo của các ngôi vị không còn nữa vì họ cho rằng phẩm giá bất khả vi phạm của từng ngôi vị cá thể không hề có bất cứ nền tảng nào. Để đem lại các cải cách đang được tiến hành (bãi bỏ các luật lệ về đẳng cấp và thiêu sống các quả phụ…), người ta cần đặc biệt thoát ra ngoài cái hiểu có tính nền tảng này và nên du nhập vào hệ thống tư tưởng nói chung của Ấn Độ ý niệm ngôi vị, như đã được khai triển trong đức tin Kitô Giáo nhờ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa có ngôi vị. Việc tìm kiếm “lý thuyết hành động” đúng, trong trường hợp này, đã khởi sự điều chỉnh lại “lý thuyết”: ta có thể nhận ra phần nào việc niềm tin của Kitô Giáo vào Thiên Chúa có tính “hành động” ra sao, và quả là bất công thế nào khi dẹp bỏ các sự phân biệt còn đang bị tranh cãi nhưng rất quan trọng này, coi chúng như nhiên hậu không còn ăn nhập gì nữa. 

Ngày nay, với những xem sét trên, ta đã tới điểm phải bắt đầu cuốn “Dẫn Nhập Vào Kitô Giáo” rồi. Nhưng trước khi khai triển thêm tuyến lý luận tôi vừa gợi ý, thiển nghĩ cần phải nhắc tới tình huống hiện nay của đức tin vào Thiên Chúa và vào Chúa Kitô. Người ta đang sợ sệt trước một “chủ nghĩa đế quốc” Kitô Giáo, họ nuối tiếc tính đa nguyên tôn giáo đầy tốt đẹp cũng như tính phấn khởi và đầy tự do mà người ta coi là khôi nguyên của chúng. Người ta cho rằng chủ nghĩa thực dân cũng liên kết một cách yếu tính với Kitô Giáo lịch sử, là tôn giáo không chịu chấp nhận người khác trong cái tính khác biệt của họ, trái lại luôn cố gắng đặt mọi sự dưới sự bảo hộ của mình. Do đó, theo quan điểm này, các tôn giáo và các nền văn hóa của Nam Mỹ đã bị chà đạp và dẹp bỏ và cả linh hồn người bản xứ cũng bị bạo hành: họ không còn tìm được chính họ trong trật tự mới nữa trong khi trật tự cũ của họ đã bị cưỡng bức lấy đi. (Về phương diện này) hiện đang có những ý kiến nhẹ nhàng hơn mà cũng có những ý kiến gay gắt hơn. Các ý kiến nhẹ nhàng hơn thì cho rằng cuối cùng ta nên dành cho các nền văn hóa bị dẹp bỏ kia quyền được cư ngụ trong đức tin Kitô Giáo và cho phép chúng khai triển cho mình một hình thức Kitô Giáo bản địa. Quan điểm cực đoan hơn thì coi Kitô Giáo trong toàn bộ như một thứ tha hóa (alienation) mà người bản địa cần được giải thoát khỏi. Hiểu một cách đúng đắn thì việc đòi cho có một Kitô Giáo bản địa là điều phải được coi như một trách vụ cực kỳ quan trọng. Mọi nền văn hóa vĩ đại đều cởi mở đối với nhau và đối với sự thật. Tất cả các nền văn hóa này đều có một điều gì đó để góp phần vào “xiêm y lộng lẫy” của Nàng Dâu như Thánh Vịnh 45:14 từng nói tới, một Nàng Dâu được các giáo phụ đồng nhất hóa với Giáo Hội. Điều chắc chắn là nhiều cơ may đã bị lỡ hụt nhưng nhiều cơ may mới cũng đã xuất hiện. Tuy nhiên, ta đừng quên rằng các dân tộc bản địa này phần lớn đã tìm được lối riêng để phát biểu đức tin Kitô Giáo trong các sùng kính bình dân của họ. Việc Thiên Chúa chịu thống khổ và Mẹ từ nhân cách riêng đã trở thành các hình ảnh đức tin chính yếu đối với họ, giúp họ vươn tới Thiên Chúa của Thánh Kinh, cũng đang nói với ta một điều gì đó. Nhưng lẽ dĩ nhiên, vẫn còn nhiều việc cần phải làm. 

Bây giờ, ta hãy trở lại với câu hỏi về Thiên Chúa và về Chúa Kitô, coi nó như chủ điểm của việc dẫn nhập vào đức tin Kitô Giáo. Điều đã trở nên hiển nhiên là: chiều kích huyền nhiệm trong ý niệm Thiên Chúa, chiều kích mà các tôn giáo Á Châu mang theo chúng như một thách thức đối với ta, rõ ràng phải có tính quyết định đối với việc suy tư của ta, và đối với cả đức tin của ta nữa. Thiên Chúa đã trở nên cụ thể nơi Chúa Kitô, nhưng qua cách này, mầu nhiệm của Người cũng trở nên vĩ đại hơn. Thiên Chúa luôn vĩ đại khôn cùng hơn hết mọi ý niệm, mọi hình ảnh và danh xưng của ta. Sự kiện hiện ta đang công nhận Người là tam vị không có nghĩa ta đã học biết hết về Người. Trái lại: Người cho ta thấy ta biết ít ỏi xiết bao về Người, ta hiểu được Người hay bắt đầu đo lường được Người ít ỏi xiết bao. Ngày nay, sau các kinh hoàng hãi hùng của các chế độ toàn trị [trong thế kỷ 20] (tôi muốn nhắc độc giả nhớ đến chứng tích tại Auschwitz), vấn đề thần lý học (theodicy, thần học tự nhiên) khẩn thiết và mạnh mẽ đòi tất cả chúng ta phải chú ý; đây là một định mức nữa cho thấy khả năng định nghĩa Thiên Chúa của ta nhỏ nhoi xiết bao, việc đo lường Người lại càng nhỏ nhoi hơn nữa. Dù sao, câu Thiên Chúa trả lời cho ông Gióp cũng chẳng giải thích được chi, nhưng đúng hơn, nó xác định ranh giới cho cơn tham cuồng của ta muốn phán đoán mọi sự và muốn có khả năng “phán” những lời sau hết đối với một chủ đề; nó nhắc ta nhớ tới các hạn chế của ta. Nó nhủ ta nên tín thác vào mầu nhiệm Thiên Chúa trong tính khôn dò của nó. 

Nói thế rồi, ta vẫn phải nhấn mạnh tới tính sáng láng của Thiên Chúa cùng lúc với sự tối tăm. Từ lúc có Tự Ngôn của Tin Mừng Gioan, ý niệm logos đã nằm ở tâm điểm đức tin vào Thiên Chúa của Kitô Giáo rồi. Logos nghĩa là lý lẽ, ý nghĩa, và cả “lời” nữa, do đó, là một ý nghĩa vốn là Lời, vốn là tương quan, vốn có tính sáng tạo. Đấng Thiên Chúa logos này bảo đảm tính khả niệm của thế giới, tính khả niệm của hiện sinh ta, khả năng suy luận để biết Thiên Chúa [die GottgemŠssheit der Vernunft] và tính hữu lý (reasonableness) của Thiên Chúa [die VernunftgemŠssheit Gottes]), cho dù sự hiểu biết của Người vượt quá sự hiểu biết của ta vô cùng, vì sự hiểu biết của ta gần như tối tăm. Thế giới phát xuất từ lý trí và lý trí này là một Ngôi Vị, là Tình Yêu, đó là điều đức tin Thánh Kinh dạy ta về Thiên Chúa. Lý trí có khả năng nói về Thiên Chúa, nó cũng phải nói về Người, nếu không nó sẽ tự rút ngắn nó. Bao gồm trong việc này là ý niệm sáng thế. Thế giới không phải chỉ là maya, huyễn tượng, mà sau cùng, ta buộc phải để lại phía sau. Nó không phải chỉ là bánh xe vô tận của khổ đau, mà ta phải luôn cố gắng thoát ra cho bằng được. Nó là một cái gì tích cực. Nó là một điều tốt, bất chấp mọi cái ác trong nó và bất chấp mọi sầu buồn, sống trong nó là một điều tốt đẹp. Thiên Chúa, Đấng Hóa Công và là Đấng tự tuyên bố về mình trong sáng thế, cũng hướng dẫn và tính sổ các hành động của con người. Ngày nay, ta đang sống trong một cuộc khủng hoảng về các giá trị luân lý [Ethos], một cuộc khủng hoảng đến nay không còn chỉ là vấn đề có tính học thuật khoa bảng về nền tảng tối hậu của các lý thuyết đạo đức nữa, mà đúng hơn, là một vấn đề hoàn toàn có tính thực tiễn. Đang có tin tức phổ biết cho rằng các giá trị luân lý không thể có cơ sở ở một điều nào khác, và hậu quả của quan niệm này là điều hiển nhiên. Các công trình đã xuất bản về chủ đề các giá trị luân lý này thì có cả hàng đống và gần như đang tung tóe khắp nơi; các tác phẩm này một đàng cho thấy tính cấp thiết của vấn đề, nhưng đàng khác cũng cho thấy tính gây bối rối trầm trọng của chúng. Kolakowski, trong dòng suy nghĩ của ông, từng nhấn mạnh rằng loại bỏ niềm tin vào Thiên Chúa, dù người ta lúi húi quay quồng ra sao, cuối cùng cũng sẽ tước hết mọi căn bản trong các giá trị luân lý. Nếu thế giới và con người không phát xuất từ một trí hiểu sáng tạo, một trí hiểu chứa trong mình thước đo các thực tại này và vẽ ra đường đi nước bước cho cuộc nhân sinh, thì chỉ còn lại các luật lệ giao thông áp dụng cho tác phong con người, các luật lệ ta có thể vất bỏ hay duy trì tùy theo tính hữu dụng của chúng. Điều cuối cùng còn lại là việc tính toán các hậu quả, điều thường được gọi là nền đạo đức học cứu cánh (teleological ethics) hay chủ nghĩa duy tỷ lệ (proportionalism). Nhưng ai thực sự có khả năng xét đoán quá bên kia các hậu quả của giây phút hiện tại? Lúc ấy, há giai cấp thống trị mới đã không nắm lấy chìa khóa của nhân sinh và trở thành quản trị viên của nhân loại hay sao? Trong cuộc tính toán hậu quả, sự bất khả vi phạm của nhân phẩm không còn nữa, vì không còn gì tự mình là tốt hay là xấu nữa. Ngày nay, người ta lại bàn tán về vấn đề giá trị luân lý, và đây là vấn đề hết sức cấp bách. Đức tin vào Logos, vào Lời mà ngay từ đầu vốn hiểu các giá trị luân lý như trách nhiệm, như lời đáp lại tiếng Logos, và do đó, đem lại cho các giá trị này tính khả niệm của chúng cũng như xu thế chủ yếu của chúng. Cũng liên hệ với điều này là trách vụ phải tìm ra một cái hiểu chung về trách nhiệm, một tìm kiếm đi song hành với mọi nghiên cứu trung thực và thuận lý và các truyền thống tôn giáo vĩ đại. Trong cố gắng này, không những có sự gần gũi nội tại của ba tôn giáo độc thần, mà còn có những đường hội tụ rất có ý nghĩa với các khuynh hướng sùng đạo khác tại Á Châu mà ta gặp thấy nơi Đạo Khổng và Đạo Lão. 

Nếu logos, tức Lời từ nguyên thủy, lý trí sáng tạo, và tình yêu, là yếu tố quyết định đối với hình ảnh về Thiên Chúa của Kitô Giáo, và nếu ý niệm logos này đồng thời tạo nên cốt lõi cho Kitô học, cho đức tin vào Chúa Kitô, thì tính bất phân chia của Đức tin vào Thiên Chúa và của đức tin vào Con nhập thể của Người là Chúa Giêsu Kitô chỉ có thể được xác nhận hơn nữa mà thôi. Ta sẽ không hiểu Chúa Giêsu tốt hơn chút nào hay tới gần Người hơn chút nào, nếu ta xem nhẹ đức tin vào thần tính của Người. Ngày nay, niềm lo sợ cho rằng niềm tin vào thần tính Người sẽ làm Người ra xa lạ với ta hiện rất phổ biến. Không hẳn chỉ vì các tôn giáo khác mà một số người muốn càng ít nhấn mạnh đến tín điều này càng hay. Đây là mối lo sợ trước nhất và đầu hết của chính người Tây Phương chúng ta. Tất cả những điều này xem ra không đi đôi với thế giới quan hiện đại của ta. Thế giới quan này cho rằng đây hẳn chỉ là các giải thích thần thoại học, sau đó được tâm thức Hy Lạp biến thành hữu thể học. Nhưng khi ta tách biệt Chúa Kitô và Thiên Chúa, thì đàng sau cố gắng này là mối hoài nghi không biết liệu Thiên Chúa có khả năng gần gũi ta như thế hay không, liệu Người có tự cho phép mình cúi mình sâu đến thế hay không. Sự thật là ta không muốn điều này xuất hiện như là đức khiêm nhường. Nhưng Romano Guardini hoàn toàn đúng khi nhấn mạnh rằng hình thức khiêm nhường cao hơn hệ ở việc Thiên Chúa tự cho mình làm chính điều đối với ta là bất xứng, và cúi mình xuống điều Người làm, chứ không xuống điều ta thiết kế về Người và cho Người. Ý niệm Thiên Chúa ở chốn xa xăm đối với thế giới sở dĩ có đó là vì cái chủ nghĩa duy thực khiêm cung bề ngoài của ta, nhưng chính vì thế, ta mất hẳn ý thức về sự hiện diện của Người. Nếu Thiên Chúa không ở trong Chúa Kitô, thì hẳn Người sẽ rút lui vào một cõi xa xăm tít tắp không thể đo lường được, và nếu Thiên Chúa không còn là một Thiên-Chúa-ở-với-chúng-tôi nữa, thì hẳn nhiên, Người chỉ còn là một Thiên Chúa khiếm diện và chẳng là Thiên Chúa chút nào: một vị thần không có khả năng làm việc không phải là Thiên Chúa. Còn đối với niềm lo sợ cho rằng Chúa Giêsu sẽ đẩy ta đi quá xa nếu ta tin vào tư cách Con Thiên Chúa của Người, thì chính điều ngược lại mới đúng: nếu Người chỉ là một con người, thì hẳn Người đã lui vào một quá khứ không tài nào phản hồi, và cùng lắm người ta chỉ tưởng nhớ xa xôi tới Người một cách ít nhiều rõ ràng mà thôi. Nhưng nếu Thiên Chúa thực sự mang lấy nhân tính và do đó cùng một lúc vừa là người thực sự vừa là Thiên Chúa thực sự nơi Chúa Giêsu, thì Người hẳn tham dự vào sự hiện diện của Thiên Chúa, một hiện diện ôm lấy mọi thời mọi buổi. Lúc đó, và chỉ lúc đó thôi, Người không phải chỉ là một điều gì đó xuất hiện hôm qua, mà còn đang hiện diện giữa ta, là người đồng thời với ta hiện bây giờ. Đây là lý do tại sao tôi xác tín vững vàng rằng việc canh tân Kitô học phải có cái can đảm nhìn thấy Chúa Kitô trong mọi nét cao cả của Người, như Người đã được trình bày trong Bốn Sách Tin Mừng với nhiều nét căng thẳng trong tính hợp nhất của chúng. 

Nếu ngày nay tôi phải viết lại cuốn Dẫn Nhập Vào Kitô Giáo này, tất cả các kinh nghiệm của 30 năm qua hẳn sẽ được đưa vào bản văn; bản văn này sau đó cũng phải bao gồm ngữ cảnh của các cuộc thảo luận liên tôn ở mức độ cao hơn mức độ lúc ấy được coi là xứng hợp. Nhưng tôi tin rằng tôi không lầm trong phương thức nền tảng, vì trong đó, tôi đã đặt vấn đề Thiên Chúa và vấn đề Chúa Kitô ở chính trung tâm; trung tâm này dẫn ta tới một “Kitô học tường thuật” (narrative Christology) và minh chứng rằng nơi dành cho đức tin chính là ở trong Giáo Hội. Tôi nghĩ xu hướng căn bản này chính xác. Chính vì thế, tôi mạnh dạn đặt cuốn sách này một lần nữa vào tay bạn đọc thời nay.

Hồng Y Joseph Ratzinger
Vũ Văn An12/5/2013(vietcatholic)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét