13/02/2014
Thứ Năm sau Chúa Nhật
5 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm II) 1 V 11, 4-13
"Bởi
ngươi không giữ giao ước, Ta cất vương quốc khỏi ngươi; nhưng vì Ðavít thân phụ
ngươi,Ta sẽ dành một chi tộc cho con trai ngươi".
Trích
sách Các Vua quyển thứ nhất.
Khi
vua Salomon đã về già, các bà vợ của ông mê hoặc lòng ông, kéo ông theo các thần
dân ngoại, lòng ông không còn trọn vẹn với Chúa là Thiên Chúa của ông, như lòng
Ðavít thân phụ ông. Salomon tôn thờ nữ thần Astarthê của dân Siđon, và thần Môlốc
của dân Ammon. Và Salomon đã làm điều không đẹp lòng Chúa và không trọn niềm
theo Chúa, như Ðavít thân phụ ông. Bấy giờ Salomon xây am trên núi đối diện với
Giêrusalem cho Khanios, thần của dân Moab, và cho Môlốc, thần của dân Ammon.
Ông cũng làm như thế cho tất cả các bà vợ ngoại bang của ông, để các bà dâng
hương và tế lễ cho các thần của các bà. Vậy Chúa thịnh nộ với Salomon, vì tâm hồn
ông đã bỏ Chúa là Thiên Chúa Israel, Ðấng đã hiện ra với ông hai lần, và cấm
ông không được chạy theo các thần khác, nhưng Salomon không tuân giữ điều Chúa
truyền dạy ông.
Do
đó, Chúa phán cùng Salomon rằng: "Bởi ngươi đã ăn ở như thế, và đã không
tuân giữ giao ước và lề luật mà Ta đã truyền cho ngươi, Ta sẽ phân chia vương
quốc của ngươi, và trao cho tôi tớ ngươi. Nhưng vì nể Ðavít, thân phụ ngươi, Ta
sẽ không thi hành điều đó khi ngươi còn sống. Ta sẽ phân chia vương quốc ngươi
ngay trên tay con của ngươi. Vì Ðavít, tôi tớ Ta, và vì Giêrusalem Ta đã tuyển
chọn, Ta sẽ không lấy tất cả vương quốc: Ta sẽ dành một chi tộc cho con trai
ngươi".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 105, 3-4. 35-36. 37 và 40
Ðáp: Lạy Chúa, xin
nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài (c. 4a).
Xướng:
1) Phúc cho ai tuân giữ những lời huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công
chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài; xin mang ơn cứu
độ đến thăm viếng chúng con. - Ðáp.
2)
Họ đã hoà mình với người chư dân, và học theo công việc chúng làm. Họ sùng bái
tà thần của chúng, những tà thần đã hoá thành lưới dò hại họ. - Ðáp.
3)
Họ đã giết những người con trai và con gái, để làm lễ cúng tế quỷ thần. Chúa đã
bừng cơn thịnh nộ với dân tộc, và tởm ghét phần gia nghiệp của Ngài. - Ðáp.
Alleluia:
1 Sam 3,9
Alleluia,
alleluia - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời
ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 7, 24-30
"Những
con chó ở dưới gầm bàn cũng ăn những mụn bánh rơi của con cái"
Bài
trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi
ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt Tyrô và Siđon. Vào một nhà kia, Người không muốn ai
biết mình, nhưng người không thể ẩn náu được. Vì ngay lúc đó, một bà kia có đứa
con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người.
Bà
đó là người dân ngoại, dòng giống Syrôphênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi
con bà.
Người
nói: "Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà
ném cho chó".
Nhưng
bà trả lời và thưa Người rằng: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con
cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái".
Người
liền nói với bà: "Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi".
Khi
bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi.
Ðó
là Lời Chúa.
Suy
Niệm:
Ơn
cứu độ đại đồng
Trong
nhật ký của mình, Mahatma Gandhi cho biết khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất
say mê đọc Kinh Thánh, nhất là Bài Giảng Trên Núi, đến nỗi ông xác tín rằng
Kitô giáo chính là câu trả lời cho nạn kỳ thị giai cấp đã từng hành hạ dân Ấn
suốt bao thế kỷ, thậm chí ông còn muốn trở thành Kitô hữu nữa. Thế nhưng, một
ngày nọ, khi đến nhà thờ dự lễ, ông bị người giữ cửa chặn lại và bảo ông phải
đi lễ ở nhà thờ dành cho người da đen, kể từ đó, ông không bao giờ quay trở lại
nhà thờ nữa.
Chúa
Giêsu không bao giờ tỏ ra kỳ thị con người như thế. Tin Mừng hôm nay là một bằng
chứng. Cũng như các tác giả Tin Mừng khác, thánh sử Marcô cho thấy phần lớn hoạt
động và thời giờ của Chúa Giêsu được dành cho người Do thái; chỉ sau khi sống lại,
Ngài mới chính thức sai các Tông đồ truyền giảng Tin Mừng cho mọi người, bất luận
là Do thái hay không Do thái. Thật ra ngay những năm rao giảng Tin Mừng, Chúa
Giêsu đã hé mở cho thấy chiều kích phổ quát của giáo lý và của ơn cứu độ mà
Ngài mang lại. Ngoài những giáo huấn về tình huynh đệ đại đồng và thái độ không
bài ngoại của Chúa Giêsu, Tin Mừng còn thuật lại các chuyến đi của Ngài tới
vùng đất ngoại giáo, tại đây, Ngài cũng đã làm nhiều phép lạ, như trừ quỷ cho một
thanh niên ở Gêrasa, cho một người câm ở miền Thập tỉnh nói được, và lần này trừ
quỷ cho con gái của một phụ nữ Hy lạp gốc Phênixi.
Dựa
vào những yếu tố trên, câu nói của Chúa Giêsu: "Không được lấy bánh dành
cho con cái mà ném cho chó con" không thể giải thích đó là dấu biểu thi sự
khinh miệt của Ngài đối với người khác đạo và khác tổ quốc; đúng hơn, Chúa muốn
mọi người đừng quên ưu thế của người Do thái trong việc thừa hưởng ơn cứu độ, bởi
vì Thiên Chúa đã chọn cha ông họ và muốn tỏ lòng trung thành với cha ông họ.
Người Do thái được ưu tiên, chứ không phải là những người duy nhất được hưởng
ơn cứu độ; vì thế, dù quan tâm săn sóc người Do thái nhiều đến đâu, Chúa Giêsu
cũng không để trở thành vật sở hữu độc quyền của họ, Ngài vẫn có tự do bày tỏ
tình thương đối với người khác.
Chúng
ta chấp nhận sự tự do của Thiên Chúa trong việc ban phát ơn huệ và tình thương
của Ngài. Dù ý thức mình chẳng là gì, chúng ta hãy tin rằng mình luôn là đối tượng
yêu thương của Thiên Chúa. Với một Ðấng vô biên như Thiên Chúa, thì bất cứ hành
vi nào của Ngài cũng có chiều kích vô hạn và quà tặng của Ngài cũng tràn trề
sung mãn. Xin cho chúng ta cảm nhận được rằng Chúa đang yêu thương chúng ta và
như thế là đủ cho chúng ta.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần V TN
Bài đọc: I Kgs 11:4-13; Mk
7:24-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phẩm giá của phụ nữ
Người
tị nạn Việt-Nam bị giằng co giữa 2 kiểu mẫu: nên theo kiểu Âu Tây, mà 5 thứ tự
liên hệ được sắp xếp ưu tiên như sau: “đàn bà trước tiên, con nít, chó, cỏ, đàn
ông;” hay theo kiểu Việt-Nam: “chồng chúa vợ tôi?” Điều quan trọng không phải
việc phải đòi cho được sự ngang hàng, nhưng làm sao cho cuộc đời cả hai và gia
đình được hạnh phúc. Cả hai kiểu mẫu trên đều dẫn tới những xáo trộn trong cuộc
sống gia đình: Theo kiểu Âu Tây, đàn ông được xếp hạng sau cả con nít, chó, và
cỏ, hỏi còn tư cách gì để hướng dẫn gia đình; và điều này hoàn toàn trái ngược
với ý định ban đầu của Thiên Chúa. Theo kiểu Việt-Nam, người vợ chỉ được coi
như người tớ nữ của chồng, và hậu quả là người vợ bị quên lãng và đối xử rất
tàn tệ; điều này cũng đi ngược lại với ý định ban đầu của Thiên Chúa. Thánh
Phaolô trong Thư gởi các tín hữu Êphêsô đã đưa ra một kiểu mẫu Thánh Kinh: “Người
vợ hãy vâng lời chồng như Giáo-Hội vâng lời Đức Kitô; và người chồng hãy yêu
thương vợ như chính bản thân mình, và như Đức Kitô đã yêu thương và hy sinh mạng
sống mình cho Giáo-Hội.”
Các
Bài Đọc hôm nay tập trung trong vai trò người phụ nữ. Trong Bài Đọc I, năm chẵn,
vua Solomon bị các bà vợ mê hoặc để phản bội Thiên Chúa khi về già, mặc dù
Thiên Chúa đã hiện ra để cảnh cáo hai lần. Sau cùng, Thiên Chúa buộc phải phạt
bằng cách chia cắt vương quốc của nhà vua, chỉ để cho giòng dõi của vua một phần.
Trong Phúc Âm, người phụ nữ xứ Phoenician kiên nhẫn vượt qua bức tường Dân Ngoại
và tự ái, để xin Chúa Giêsu chữa lành con gái mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I (năm chẵn):
Ta sẽ giựt lấy vương quốc ngươi mà trao cho một thuộc hạ của ngươi.
1.1/
Vua Solomon phản bội Thiên Chúa: Trong lịch sử thế giới, xưa cũng như nay, biết bao
nhiêu anh hùng đã bị tiêu tan sự nghiệp vì mỹ nhân. Lịch sử của Do-thái cũng đầy
dẫy những câu truyện tương tự: Tuần trước, chúng ta được biết vua David đã bị
Thiên Chúa để cho biết bao tai ương xảy ra cho nhà vua, cho gia đình, và cho quốc
gia; sau khi David phạm tội ngoại tình với bà Bathsheba và tội thủ tiêu Uriah
chồng bà để phi tang. Tuy nhiên, vì David hết lòng ăn năn trở lại, Thiên Chúa
đã xót thương và chúc lành cho Solomon, con kế vị của David.
Trong
mấy ngày qua, chúng ta được nghe sự khôn ngoan và vinh quang tuyệt đỉnh của vua
Solomon; nhưng rồi lại một lần nữa, anh hùng bị tiêu tan cơ nghiệp vì các mỹ
nhân. Nhà Vua phản bội Thiên Chúa bằng cách xây dựng đền thờ cho tất cả các thần
của những bà vợ. Theo truyền thuyết, Solomon có tới 700 vợ và 300 cung phi; chắc
là ông không xây cả 100 bàn thờ. Trình thuật chỉ liệt kê 4 bàn thờ chính: nữ thần
Ashtoreth của dân Sidon, thần Milcom ghê tởm của dân Ammon, thần Chemosh ghê tởm
của dân Moab, và thần Molech ghê tởm của con cái Ammon. Một người có thể tự hỏi
tại sao một người khôn ngoan như Solomon, đã biết nguồn gốc và mục đích của mọi
sự việc, lại phản bội Thiên Chúa? Trình thuật đưa ra hai lý do:
(1)
Lú lẫn của tuổi già:
Trí khôn và cơ thể con người chắc chắn bị suy sụp theo thời gian. Khi về già,
vua Solomon chắc không còn tinh anh để phán xét sự việc cách khôn ngoan như khi
còn trẻ. Điều này phải là bài học cho những người đi sau để đừng quá tự tin vào
sự khôn ngoan của mình; nhưng phải cậy nhờ vào ơn thánh Chúa qua cuộc sống cầu
nguyện và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa.
(2)
Áp lực của những mỹ nhân: Các ông chồng có tuổi thường dễ bị lung lay vì sắc đẹp của những
người vợ trẻ, nhất là khi các nàng biết dùng vũ khí nguy hiểm là đổ những giọt
lệ. Người đi sau có thể học nơi vua Solomon và đừng quá tham lam đèo bồng. Thân
trai hai vợ đã bị xẻ làm hai rồi, vua Solomon khổ thế nào khi bị xẻ thành ngàn
mảnh!
1.2/
Hậu quả của việc nghe lời các vợ: Đức Chúa nổi giận với vua Solomon, vì lòng vua rời
xa Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel, Đấng đã hiện ra với vua hai lần, và truyền
cho vua là đừng đi theo các thần ngoại, nhưng vua không giữ điều Đức Chúa đã
truyền. Đức Chúa phán với vua Solomon: "Vì ngươi đã như vậy và đã không giữ
giao ước cũng như các giới răn Ta truyền cho ngươi, thì chắc chắn Ta sẽ giựt lấy
vương quốc ngươi mà trao cho một thuộc hạ của ngươi."
Tuy
thế, vì tình nghĩa và những gì Thiên Chúa đã hứa với vua cha David, Thiên Chúa
đã không làm điều đó trong đời vua Solomon; nhưng sẽ chờ tới thời con của
Solomon. Dòng dõi của Solomon chỉ còn giữ lại được một chi tộc và sẽ trở thành
vương quốc Judah, với thủ đô đặt tại Jerusalem.
Nhìn
lại cuộc đời của các vua Saul, David, Solomon, trong lịch sử Israel; một người
có thể học được bài học phải biết đặt mối liên hệ với Thiên Chúa trên tất cả mọi
sự. Khi họ trung thành với Thiên Chúa, họ được Thiên Chúa ban ơn, bảo vệ, và
chúc lành; nhưng khi họ bất tuân và phản bội Ngài, họ phải lãnh nhận biết bao
đau khổ xảy đến, không chỉ trên cá nhân, nhưng còn trên gia đình và quốc gia nữa.
Sự phản bội chỉ xảy ra về phía con người; về phía Thiên Chúa, tất cả những gì
Ngài hứa, Ngài đã thi hành.
2/
Phúc Âm:
Người phụ nữ Phoenician vượt qua xấu hổ để cầu xin cho con gái.
Trong
3 năm rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài rất ít khi đi ra ngoài lãnh thổ của
Do-thái. Lý do không phải vì Ngài không muốn Tin Mừng của Ngài được lan rộng đến
Dân Ngoại; nhưng vì Ngài đã có kế hoạch rõ ràng. Bổn phận của Ngài là loan báo
Tin Mừng cho các chiên lạc của nhà Israel. Các Tông-đồ, nhất là Phaolô và
Barbara, sẽ loan truyền Tin Mừng đến cho Dân Ngoại. Đó là lý do tại sao trình
thuật kể: “Đức Giêsu đứng dậy, rời nơi đó, đến địa hạt Tyre. Người vào một nhà
nọ mà không muốn cho ai biết, nhưng không thể giấu được. Thật vậy, một người
đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình
dưới chân Người.” Tuy không có ý định loan báo Tin Mừng và chữa bệnh cho Dân
Ngoại, nhưng đứng trước cách biểu lộ niềm tin và sự kiên trì của Bà, Chúa Giêsu
đã chữa lành cho con gái của Bà.
2.1/
Bà vượt qua bức tường ngăn cách Dân Ngoại: Thánh Marcô nói rõ về lai lịch của người phụ nữ:
“Bà là người Hy-lạp, gốc Phoenician thuộc xứ Syria. Bà xin Người trừ quỷ cho
con gái bà.” Bà biết rõ Chúa Giêsu là người Do-thái, và theo truyền thống, Bà
không có lý do gì để cầu xin Chúa Giêsu, vì người Do-thái không muốn làm một điều
gì với Dân Ngoại. Nhưng vì lòng thương con, Bà đã đạp đổ bức tường kỳ thị giữa
hai dân tộc, để đến và cầu xin với Chúa.
2.2/
Bà vượt qua bức tường tự ái: Vượt qua được bức tường kỳ thị chủng tộc, Bà phải đương đầu với
một bức tường khác khó khăn để vượt qua hơn: tính tự ái. Chúa Giêsu nói với Bà:
"Phải
để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném
cho chó con." Chúa Giêsu so sánh con của Bà với chó con, và như thế, Bà
cũng bị so sánh như loài chó. Khi một người bị so sánh như thế, thử hỏi bao
nhiêu người có can đảm ở lại để tiếp tục nài xin như Bà: "Thưa Ngài, đúng
thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ
con." Đứng trước một người Dân Ngoại, thấy cách biểu lộ niềm tin và tình
thương của Bà cho con như thế, Chúa Giêsu nói với bà: "Vì bà nói thế, nên
bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi." Về đến nhà, bà thấy đứa trẻ
nằm trên giường và quỷ đã xuất.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Các Bài Đọc hôm nay đòi hỏi chúng ta phải suy xét lại mối liên hệ giữa nam nữ,
và liên hệ vợ chồng; và biết cách đối xử sao cho phù hợp với ý định của Thiên
Chúa ban đầu.
-
Chúng ta đừng dễ dàng chạy theo những trào lưu hiện hành của xã hội: “trọng nữ
khinh nam” của Âu Tây, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” của Trung-hoa, hay
“chồng chúa vợ tôi” của Việt-nam; vì cả hai giới đều bình đẳng trước mặt Thiên
Chúa. Tất cả các trào lưu này đều dẫn tới tình trạng mất quân bình trong đời sống
gia đình.
-
Cả hai giới đều cần nhau và có những quà tặng bổ xung cho nhau. Thánh Phaolô
khuyên vợ phải vâng lời chồng, không phải như người nô lệ phải vâng lời chủ,
nhưng ai cũng biết một gia đình không thể có 2 người lãnh đạo. Đồng thời, Ngài
cũng khuyên chồng phải yêu thương vợ như yêu chính thân mình. Điều này loại trừ
tất cả những ích kỷ, hành hung, và bất trung với vợ mình. Chỉ có thế, gia đình
chúng ta mới có thể tiến mạnh, hoà hợp yêu thương, và sống theo đường lối Thiên
Chúa đã vạch định từ ban đầu.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẢY MẦM
Mc
7,24-30
A.
Hạt giống...
Chúa
Giêsu chữa con gái một phụ nữ Phênixi :
-
Bà là một người ngoại, nên lẽ ra theo kế hoạch hành động của Chúa Giêsu, bà
không được hưởng những ơn phúc của Chúa Giêsu, bởi vì theo kế hoạch ấy, Ngài đến
ban ơn cho người do thái trước. Vì thế, ban đầu Ngài đã từ chối bà bằng những lời
rất nặng "Phải để cho con cái ăn no trước đã. Không nên lấy bánh dành cho
con cái mà ném cho chó con".
-
Nhưng lòng tin kiên trì của bà đã biến bà thành "con cái trong nhà"
nên Chúa Giêsu đã ban ơn theo lòng bà xin.
B....
nẩy mầm.
1.
"Ngài vào nhà nọ, không muốn cho ai biết" : Chúa Giêsu không thích
phô trương, cũng không thích người ta theo Ngài vì những phép lạ. Ngài muốn âm
thầm kín đáo gieo đức tin vào lòng người ta, và khi người ta đã tin thì người
ta sẽ theo Ngài cách trung thành.
Nhưng
hình như môn đệ Chúa ngày nay không theo cùng một đường lối đó : thích phô
trương những sự "vĩ đại" của Giáo Hội, của nhà thờ, của tổ chức Giáo
Hội, mà quên đi điều cốt yếu hơn là gieo niềm tin vào lòng người.
2.
Đức tin của người phụ nữ Phênixi này là nguyên do khiến bà được ơn Chúa. Ta hãy
nhìn lại đức tin của bà :
-
một đức tin khiêm tốn : chịu nhận làm "chó con"
-
một đức tin kiên trì : dù bị từ khước ban đầu nhưng vẫn không nản lòng.
-
một đức tin phó thác : Chúa Giêsu bảo bà "cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con
gái bà rồi". Dù chưa thấy hiệu quả nhưng vì tin Lời Chúa, bà ra về.
3.
Chính nhờ Chúa Giêsu đã thử thách đức tin của bà này bằng những lời rất nặng,
nên Ngài mới biết được đức tin của bà rất mạnh.
Cũng
vậy, đức tin của ta có được thử thách thì mới chứng tỏ là một đức tin thật.
Xin
cho con kiên trì chịu đựng những thử thách về đức tin.
3.
Một người da trắng và một người thổ dân cùng nghe giảng. Người thổ dân cảm động
và xin nhập đạo ngay. Còn người da trắng cũng cảm động nhưng cả năm sau mới nhập
đạo. Trong một buổi phụng vụ, người da trắng hỏi :
-
Tôi phải mất một thời gian mới có lòng tin, sao anh có lòng tin sớm thế ? Người
thổ dân đáp :
-
Này bạn, để tôi nói cho bạn nghe. Có vị hoàng tử hứa cho chúng ta chiếc áo mới.
Bạn nhìn vào áo mình, tự nhủ : áo mình còn đẹp, để mai sau hãy lấy. Còn tôi,
tôi nhìn vào tấm chăn cũ kĩ của mình, thấy nó chẳng ra gì, nên vội vàng đến nhận
áo mới. Bạn ạ, bạn đã có chút khôn ngoan, nên bạn còn muốn dùng chúng. Còn tôi,
tôi không có, nên tôi mau mắn đón nhận sự khôn ngoan của Chúa Giêsu. (Góp nhặt)
4.
- Phải để con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà
ném cho chó con.
-
Thưa Ngài đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của
đám trẻ con.
-
Vì bà đã nói thế, nên bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi (Mc 7,27-29)
Trong
cuộc đối thoại thú vị ấy, người phụ nữ ngoại đạo đã dành phần thắng : con gái
chị được khỏi bệnh ; và Chúa Giêsu cũng được lợi : giúp một người thoát khỏi cảnh
khốn cùng.
Đúng
là một cuộc đối thoại thành công mà bí quyết thuộc về cả hai phía : chị phụ nữ
khiêm tốn với ý chí và đức tin mạnh mẽ ; Chúa Giêsu thì hiền hòa, linh hoạt
trong cách làm việc.
Tôi
chợt nghĩ đến những cuộc đối thoại hôm nay giữa các vị nguyên thủ quốc gia, giữa
tôi với Chúa, giữa tôi với anh em…
Lạy
Chúa, xin cho loài người chúng con biết đối thoại để thế giới này hạnh phúc
hơn. (Epphata)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ
13/02/14 THỨ NĂM TUẦN 5 TN
Mc 7,24-30
Mc 7,24-30
KIÊN TRÌ TRONG LỜI CẦU XIN
“Thưa Ngài, đúng thế, nhưng
chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con.” (Mc 7,28)
Suy niệm: Bà ta là người Hy Lạp, quê ở Phênixi, nghĩa
là bà thuộc về dân ngoại, loại người bị người Do thái khinh khi. Bà thật là “lì
đòn”: ngay cả những lời thử thách đầy vẻ miệt thị nhất “Không nên lấy bánh mà vất cho
chó” cũng
không làm bà nản lòng. Bà vẫn tha thiết cầu xin: “Nhưng con chó ở dưới gầm bàn
lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”. Tình yêu của bà đối với người con đã giúp bà
có sức mạnh như thế: sẵn sàng chịu đựng mọi thứ đau khổ, sỉ nhục, miễn sao đem
lại điều tốt đẹp cho người con mà bà yêu quí. Chúa đã chấp nhận lời cầu xin vì
cảm kích tấm lòng tha thiết của bà.
Mời Bạn: Phần bạn, có bao giờ bạn cầu nguyện với Đức
Kitô cách tha thiết như vậy chưa? Có bao giờ bạn cảm thấy buồn phiền ray rứt
trước những đau khổ, những tội lỗi, những khốn cùng của người khác đến mức sẵn
sàng chịu khổ, kể cả hạ mình chịu sỉ nhục để làm một cái gì đó tốt đẹp cho họ
không?
Sống Lời Chúa: Bạn có biết ai sống chung quanh bạn đang phải
đau khổ về vật chất hay tinh thần không? Bạn có thể làm gì để giúp họ? Một sự
chia sẻ? Một lời an ủi? Một nụ cười cảm thông? Ít nhất bạn hãy cầu nguyện cho
họ một cách thật tha thiết như người đàn bà xứ Phênixi này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết mở to đôi mắt để con thấy được những
nỗi thống khổ của tha nhân. Xin cho con biết mở rộng tấm lòng để cảm thông chia
sẻ, và cho con biết dang rộng đôi tay để sẵn sàng làm điều gì đó tốt đẹp cho
họ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.
Những mảnh vụn
Đức Giêsu hẳn hết sức bất ngờ với câu trả lời của
người phụ nữ: vừa tin tưởng, hy vọng, vừa khiêm tốn, khôn ngoan. Chính câu trả
lời này đã chinh phục và làm cho Đức Giêsu đổi ý.
Suy niệm:
Để có được cuộc gặp gỡ
giữa Đức Giêsu với người phụ nữ,
hai bên đã phải vượt qua
nhiều đường ranh, nhiều rào cản.
Đức Giêsu đã bỏ đất
Israel để đến vùng Tia, vùng đất ô uế của dân ngoại.
Người đàn bà dân ngoại đã
vượt qua sự ngăn cách với người đàn ông Do thái.
Qua câu đáp của bà, bà
cũng vượt qua được sự lụy phục thường gặp nơi phụ nữ
sống trong một nền văn
hóa do đàn ông làm chủ ở thế kỷ đầu.
Trong Tin Mừng Máccô, đây
là phép lạ duy nhất nhắm đến dân ngoại.
Rõ ràng Đức Giêsu không
có ý làm phép lạ trừ quỷ này,
Chúng ta ngạc nhiên khi
thấy Đức Giêsu từ chối giúp bà ta, rồi lại đổi ý.
Nhiều người không tin đây
là cách cư xử vốn có của Đức Giêsu
trước nỗi đau của trái
tim người mẹ có đứa con bị quỷ ám.
Tuy nhiên, nên nhớ rằng
sứ vụ của Ngài không bao gồm dân ngoại.
Ngài chỉ được sai đến với
dân Israel,
để rồi chính môn đệ Ngài
sẽ chịu trách nhiệm đến với dân ngoại.
Hãy lắng nghe cuộc đối
thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ.
Bà nài xin Ngài đuổi quỷ
ra khỏi con gái của bà,
nhưng bà đã phải nghe một
câu trả lời rất khó chịu và có thể gây tổn thương.
“Hãy để con cái ăn
trước,
vì không nên lấy
bánh của con cái mà ném cho chó con” (c. 27).
Đức Giêsu ví dân Do thái
với những đứa con trong nhà,
còn dân ngoại là mẹ con
bà, được ví với những chó con.
Con cái dĩ nhiên là có
quyền ưu tiên rồi, được ăn bánh trước.
Bánh của con cái đương
nhiên không nên ném xuống đất cho chó con.
Với người khác, câu trả
lời gây sốc của Đức Giêsu có thể khép lại mọi hy vọng.
Nhưng đối với bà, chính
câu này lại mở ra niềm hy vọng mới.
“Thưa Ngài, đúng thế,
nhưng chó con ở dưới gầm bàn
cũng được ăn những mảnh
vụn của lũ trẻ nhỏ” (c. 28).
Bà khiêm tốn nhận mình là
chó con,
được nuôi trong nhà, nằm
dưới gầm bàn lúc mọi người ăn uống,
nên thỉnh thoảng cũng
được đám con cái cho ăn những mảnh bánh vụn.
Như thế những đứa con
cũng chẳng giữ riêng tấm bánh cho mình.
Chúng cũng biết chia sẻ,
thậm chí cho mấy chú chó con.
Hôm nay bà chẳng xin Ngài
cho tấm bánh trên bàn dành cho con cái,
Bà chỉ xin Ngài cho vụn
bánh dành cho chó con nằm dưới bàn.
Đức Giêsu hẳn hết sức bất
ngờ với câu trả lời này,
vừa tin tưởng, hy vọng, vừa
khiêm tốn, khôn ngoan.
Chính câu trả lời này đã
chinh phục và làm cho Đức Giêsu đổi ý.
“Vì bà nói thế, bà cứ
về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi” (c. 29).
Phép lạ này rất “lạ” vì
Đức Giêsu đã đuổi quỷ từ xa,
và Ngài cũng chẳng đưa ra
một lời uy quyền nào để đuổi quỷ.
Khi người mẹ này về nhà,
thì thấy con gái mình đã được bình an.
Chúng ta học được gì nơi
cách cư xử của người phụ nữ?
Chúng ta học được gì nơi
thái độ của Đức Giêsu?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
có những ngày con cảm
thấy
đời sống thật nặng nề ;
có những lúc con muốn
buông trôi,
để mặc cho dòng đời đưa
đẩy ;
có những khoảng thời gian
dài,
con như mảnh đất khô khan
cằn cỗi.
Xin
cho con ánh sáng của Chúa
để
con biết lối mà đi.
Xin
cho con tấm bánh của Chúa
để
con có sức mà dấn bước.
Xin
cho con Lời của Chúa
để
con vững một niềm tin.
Xin
cho con sự sống của Chúa
để
con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn,
niềm
vui và sáng tạo.
Lạy
Chúa Giêsu,
con
thấy mình cần Chúa
trong
mỗi giây phút của cuộc đời.
Ước
gì ai gặp con
cũng
gặp được sự hiện diện của Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
* Suy niệm:
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc gặp gỡ giữa
Đức Giêsu và một phụ nữ thuộc vùng đất của dân ngoại. Bà đến xin Đức Giêsu chữa
cho đứa con bị quỷ ám. Đức Giêsu từ chối bằng một câu chẳng nhẹ nhàng: “Không
nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con”. Như vậy, Người ví dân Do Thái là
con cái trong nhà, còn mẹ con bà là dân ngoại được ví như chó con. Nhưng bà đã
trả lời với Đức Giêsu bằng một câu nói đầy tin tưởng, hy vọng và khiêm tốn:
“Nhưng chó con ở dưới gầm bàn cũng được ăn những mảnh vụn của đám trẻ
con”. Bà chẳng dám xin bánh trên bàn dành cho con cái, nhưng chỉ dám xin
những vụn bánh rơi xuống bàn cho lũ chó con.
Hôm nay, tôi cần nhìn ngắm lòng tin và sự khiêm
tốn của người phụ nữ dân ngoại.
Mong sao, như người phụ nữ trong Tin mừng, tôi
dám vượt qua những ‘rào cản’ để đến được với Đức Giêsu, để tiếp xúc với Người.
Mong sao, chính nhờ lòng tin trong sự khiêm tốn,
như người phụ nữ trong Tin mừng, tôi có thể làm cho Đức Giêsu ‘đổi ý’, dù trước
đó Người ‘không có ý’.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13
THÁNG HAI
Theo Đuổi Kỷ Luật Bản
Thân
Thánh
Phao-lô nhấn mạnh đến ý nghĩa tâm linh của thể thao: “Phàm là tay đua, thì phải
kiêng kỵ đủ điều” (1Cr 9, 25). Ngài nhận thức rằng sự quân bình, kỷ luật bản
thân, sự điều độ và nhất là nhân đức là những yếu tố không thể thiếu trong hoạt
động thể thao.
Để
trở thành một vận động viên chân chính, người ta cần phải trung thực với chính
mình và với người khác. Người ta cần có lòng trung thành và nghị lực tinh thần
hơn cả sức lực thể lý. Người ta phải biết kiên trì, phải có tinh thần cộng tác,
tính cách hào hiệp, lòng quảng đại, thái độ cởûi mở bao dung. Tất cả những điều
ấy đều là những đòi hỏi của một căn bản đạo đức. Nhưng, Tông Đồ Phao-lô còn
thêm: “Các vận động viên làm thế để chiến thắng một triều thiên tạm bợ chóng
qua, còn chúng ta, chúng ta nhắm đến một triều thiên vĩnh cửu”. Qua những lời ấy,
chúng ta tìm thấy sự phác họa một nền đạo đức thể thao và thậm chí một nền thần
học soi sáng cho tất cả các giá trị của thể thao.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 13-02
1V 11, 4-13;Mc 7, 24-30.
LỜI SUY NIỆM: “Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được
lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con.”
Trong câu chuyện Chúa Giêsu
chữa con gái một bà gốc Phênixi xứ Xyri. Cho thấy, chúng ta được Thiên Chúa yêu
thương và được chăm sóc một cách ưu tiên với mọi ơn lành của Ngài. Điều kế tiếp
trong cầu nguyện phải có lòng cung kính khiêm nhường “sấp mình dưới chân Người”.
Chịu thử thách trong niềm tin của mình “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới
gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con” Với sự cung kính khiêm nhường,
đặt trọn niềm tin vượt qua thử thách Chúa đã cứu chữa con gái của bà.
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con thấy
bà ngoại giáo này đến cầu xin Chúa với một lòng tin chịu thử thách. Xin cho mọi
thành viên trong gia đình chúng con biết quý trọng tình thương và mọi ơn lành của
Chúa dành ưu tiên cho chúng con và xin cho chúng con vượt qua những thử thách
trong cầu nguyện.
Mạnh
Phương
13
Tháng Hai
Mang Tên Một Vị
Thánh
Hiện
nay, những người vẽ bản đồ tại Liên Xô đang phải điên đầu vì tên của các thành
phố. Khắp nơi trong toàn lãnh thổ, dân chúng yêu cầu hoàn lại tên cũ cho thành
phố, tên mà Stalin và những người kế vị của ông đã xóa bỏ. Tại Leningrat chẳng
hạn, dân chúng yêu cầu đòi lại đô thị của họ với tên cũ là Petersburg hay St.
Petersburg, nghĩa là đô thị của Thánh Phêrô. Ðây là một trong những đề tài nóng
bỏng mà hội đồng thành phố đang đưa ra thảo luận. Trong một chương trình truyền
hình địa phương người hướng dẫn chương trình đã tránh dùng tên Lenigrat mà lại
gọi tắt là Peter, nghĩa là tên gọi cũ của đô thị. những người yêu cầu hoàn trả
tên cũ lại cho các đô thị nói rằng: cũng như những người có quyền giữ tên cha
sinh mẹ đẻ của mình, thì cũng thế, một đô thị cũng phải được quyền giữ tên khai
nguyên của nó.
Tại
cộng hòa Georgia, trường đại học kỹ thuật Tbilisi đã xóa bỏ tên của Lênin và
ngay cả tượng của ông cũng bị đạp đổ. Tại nhiều nơi khác, người ta cũng xóa bỏ
tên mới của các đô thị để lấy lại tên cũ vốn đã có từ thời các đô thị này được
thiết lập. Gorky sẽ được phục hồi lại như trước kia là Novgorod. Bezhnev sẽ được
mang tên cũ là Nabereznye, Zhadanov sẽ được phuc hồi là Mariupol, nghĩa là đô
thị của Ðức Maria.
Mỗi
người chúng ta, khi chịu phép rửa cũng đều mang một tên mới. Chúng ta thường gọi
đó là tên thánh. Thánh bởi vì đó là tên của một vị Thánh, nhưng thánh bởi vì tất
cả chúng ta đều được mời gọi để nên thánh, hay nói như Thánh Phaolô, tất cả
chúng ta đều là những người thánh. Thật thế, nhờ Phép Rửa, người tín hữu Kitô
được tham dự vào chính sự thánh thiện của Thiên Chúa; nhờ Phép Rửa, người tín hữu
Kitô trở thành Ðền Thờ thánh thiện của Chúa Thánh Thần.
Ðó
là nguồn gốc, là căn tính của người Kitô chúng ta. Mang lấy tên của một vị
thánh, người Kitô luôn được nhắc nhở rằng bản chất của họ chính là nên thánh,
nguồn gốc của họ chính là sự thánh thiện. Chính vì nguồn gốc ấy, cho nên họ
luôn được mời gọi để làm việc thiện, để cầu nguyện, để chịu đựng, để sống tử tế,
để sống vui tươi, để sống phục vụ. Nói tóm lại, vì thông dự vào sự thánh thiện
của Thiên Chúa, người Kitô luôn được mời gọi để sống như Ðức Kitô, Ðấng qua cái
chết và sự Phục Sinh, đã thể hiện chính sự thánh thiện của Thiên Chúa.
(Lẽ
Sống)
Vị thánh trong ngày _ 13/2
Thánh
Ciryl và Thánh Methodius
(c. 869, c. 884)
Vì thân phụ của hai
thánh nhân là một sĩ quan trong phần đất của Hy Lạp nhưng có nhiều người Slav
chiếm ngụ, do đó hai anh em thánh nhân đã trở nên nhà truyền giáo, thầy dạy và
quan thầy của người Slav.
Sau thời gian học tập, Cyril (thường được gọi
là Constantine cho đến khi ngài trở thành tu sĩ ít lâu trước khi từ trần) đã từ
chối địa vị trong chính quyền mà anh ngài đã chấp nhận làm việc cho những người
nói tiếng Slav. Ngài gia nhập một đan viện là nơi anh ngài, Methodius, đã là
một đan sĩ sau thời gian giữ chức vụ trong chính quyền.
Một quyết định đã thay đổi cuộc đời của các
ngài khi Công Tước của Moravia xin Hoàng Ðế Micae của Ðông Phương cho được độc
lập về chính trị với nhà cầm quyền Ðức, và được tự trị về phương diện tổ chức
giáo hội (có giáo sĩ và phụng vụ riêng). Cyril và Methodius đã lãnh nhận công
việc truyền giáo này.
Công việc đầu tiên của Cyril là sáng chế ra
bản mẫu tự, giống như mẫu tự vẫn được dùng trong phụng vụ ở các phần của Nam Tư
cũ. Những người theo ngài có lẽ đã hình thành mẫu tự Cyrillic từ các chữ cái
của Hy Lạp. Ngày nay, họ dịch Phúc Âm, Thánh Thi, Thánh Thư và các sách phụng
vụ sang tiếng Slav, và sáng tác phần phụng vụ bằng tiếng Slav rất đặc biệt.
Vì lý do đó và vì việc xử dụng tiếng mẹ đẻ đã
dẫn đến việc chống đối của hàng giáo sĩ Ðức. Các giám mục Ðức từ chối việc tấn
phong các giám mục và linh mục Slav, và Cyril buộc phải thỉnh cầu lên Rôma.
Trong chuyến viếng thăm Rôma, hai anh em thánh nhân đã vui sướng khi thấy bản
văn phụng vụ mới của họ được Ðức Giáo Hoàng Adrian II chấp thuận. Nhưng Cyril
không bao giờ trở lại Moravia nữa, ngài từ trần ở Rôma sau 50 ngày nhận áo
dòng.
Methodius tiếp tục công cuộc truyền giáo trên
16 năm nữa. Ngài là đại diện giáo hoàng đối với toàn thể người dân Slav, được
tấn phong giám mục và được giao cho trông coi một giáo phận cũ (thuộc Nam Tư).
Khi lãnh thổ trước đây thuộc về họ nay bị tước khỏi quyền tài phán, vị giám mục
Bavaria đã trả thù với hàng loạt điều cáo buộc Ðức Methodius. Kết quả là Hoàng
Ðế Louis của Ðức đã lưu đầy Ðức Methodius trong ba năm. Sau đó Ðức Giáo Hoàng
Gioan VIII đã đảm bảo sự tự do cho ngài.
Hàng giáo sĩ người Frank vẫn còn ấm ức nên họ
tiếp tục chụp mũ, và Ðức Methodius phải sang Rôma để bảo vệ ngài khỏi điều cáo
buộc về tội lạc giáo và xin duy trì việc dùng bản văn phụng vụ Slav. Một lần
nữa ngài lại thành công.
Truyền thuyết nói rằng, trong một giai đoạn
cực kỳ hăng say, Ðức Methodius đã chuyển dịch toàn bộ Phúc Âm sang tiếng Salv
chỉ trong vòng tám tháng. Ngài từ trần vào ngày thứ Ba Tuần Thánh, với các môn
đệ tụ tập chung quanh. Sau khi ngài chết sự chống đối vẫn chưa dứt, và công
trình của hai anh em thánh nhân ở Moravia đã đi vào chỗ tận tuyệt, các môn đệ
của hai ngài phải phân tán khắp nơi. Nhưng sự trục xuất ấy đã có ảnh hưởng tốt
đẹp trong việc phổ biến các công trình về phụng vụ, về tâm linh và văn hóa của
hai anh em thánh nhân đến các vùng Bulgaria, Bohemia và nam Ba Lan.
Là quan thầy của Moravia, và được đặc biệt
sùng kính bởi người Công Giáo Czech, Slovak, Croatia, Chính Thống Giáo Serb và
người Bulgaria, Thánh Cyril và Methodius thật xứng đáng là người bảo vệ sự hiệp
nhất Ðông và Tây, là điều được mọi người khao khát từ lâu.
Lời Bàn
Thánh thiện có nghĩa dùng tình yêu Thiên Chúa
để đối xử với thói đời: đời sống con người lúc nào cũng vậy, luôn chằng chịt
những vấn đề chính trị và văn hóa, sự mỹ miều cũng như sự xấu xa, sự ích kỷ
cũng như sự thánh thiện. Với Thánh Cyril và Methodius, hầu như thập giá hàng
ngày của các ngài là phải đương đầu với những khó khăn giống như của chúng ta
ngày nay: vấn đề ngôn ngữ trong phụng vụ. Các ngài là thánh không phải vì đã
đưa phụng vụ vào tiếng Slav, nhưng vì các ngài đã thi hành điều ấy với sự can
đảm và khiêm tốn của Ðức Kitô.
Lời Trích
"Ngay cả trong phụng vụ, Giáo Hội không
muốn áp đặt một sự đồng nhất cứng rắn nào trong các vấn đề không liên hệ đến
đức tin hay không có lợi cho toàn thể cộng đoàn. Ðúng hơn, Giáo Hội tôn trọng
và khuyến khích những tinh hoa và những đặc tính riêng của các chủng tộc và
dòng giống... Miễn sao sự hợp nhất cốt yếu của nghi lễ Rôma vẫn được duy trì, việc
tu chỉnh các sách phụng vụ phải được phép thay đổi và thích nghi với các tổ
chức khác nhau, sự sùng bái và các dân tộc khác nhau, nhất là trong xứ truyền
giáo" (Hiến Chế về Phụng Vụ, 37, 38).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét