09/03/2014
Chúa Nhật I Mùa
Chay Năm A
(phần I)
BÀI
ĐỌC I: St 2, 7-9; 3, 1-7
"Nguyên tổ được tạo thành, và phạm tội".
Trích
sách Sáng Thế.
Thiên
Chúa lấy bùn đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở
thành một vật sống.
Thiên
Chúa lập một vườn tại Eđen về phía đông và đặt vào đó con người mà Ngài đã dựng
nên. Thiên Chúa cho từ đất mọc lên mọi thứ cây trông đẹp, ăn ngon, với cây sự sống
ở giữa vườn, và cây biết thiện ác.
Rắn
là loài xảo quyệt nhất trong mọi dã thú mà Thiên Chúa tạo thành. Nó nói với người
nữ rằng: "Có phải Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được ăn mọi thứ cây
trong vườn?" Người nữ nói với con rắn: "Chúng tôi được ăn trái cây
trong vườn; nhưng trái cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa bảo: 'Các ngươi đừng ăn,
đừng động tới nó, nếu không sẽ phải chết'". Rắn bảo người nữ: "Không,
các ngươi không chết đâu! Nhưng Thiên Chúa biết rằng ngày nào các ngươi ăn trái
ấy, mắt các ngươi sẽ mở ra, và các ngươi sẽ biết thiện ác như thần thánh".
Người nữ thấy trái cây đẹp mắt, ngon lành và thèm ăn để nên thông minh. Bà hái
trái cây ăn, rồi lại cho chồng, người chồng cũng ăn. Mắt họ liền mở ra và họ nhận
biết mình trần truồng, nên kết lá vả che thân. Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 50, 3-4. 5-6a. 12-13. 14 và 17
Đáp:
Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa (x. c. 3a).
1)
Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả
đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Đáp.
2)
Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội
phản nghịch cùng một Chúa. - Đáp.
3)
Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương
nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh
Thần Chúa ra khỏi con. - Đáp.
4)
Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng
con. Lạy Chúa, xin mở môi con, để miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. - Đáp.
BÀI
ĐỌC II: Rm 5, 12-19
"Chỗ mà tội lỗi đã đầy tràn, thì ân sủng đã đầy dàn dụa".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh
em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi
mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người
đã phạm tội. Trước khi có lề luật, đã có tội ở trần gian. Nhưng nếu không có luật,
thì tội không bị kể là tội. Thế mà, từ thời Ađam đến thời Môsê, sự chết đã thống
trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như Ađam đã phạm.
Ađam là hình ảnh Đấng sẽ tới.
Nhưng
sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy,
nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của
Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy
cho muôn người. Ơn Thiên Chúa ban cũng khác với hậu quả do một người phạm tội
đã gây ra. Quả thế, vì một người duy nhất phạm tội, con người đã bị xét xử để
phải mang án, còn sau nhiều lần sa ngã, thì lại được Thiên Chúa ban ơn cho trở
nên công chính.
Vì
nếu bởi tội của một người mà sự chết đã thống trị do một người đó, thì những
người lãnh được ân sủng và ơn huệ dồi dào bởi đức công chính, càng được thống
trị hơn nữa trong sự sống do một người là Đức Giêsu Kitô.
Do
đó, tội của một người truyền đến mọi người đưa tới án phạt như thế nào, thì đức
công chính của một người truyền sang mọi người đưa tới bậc công chính ban sự sống
cũng như thế. Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở
thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người
trở thành kẻ công chính cũng như thế. Đó là lời Chúa.
Hoặc
bài vắn này: Rm 5, 12. 17-19
Anh
em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi
có sự chết, và thế là sự chết đã truyền đến mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã
phạm tội.
Vì
nếu bởi tội của một người mà sự chết đã thống trị do một người đó, thì những
người lãnh được ân sủng và ơn huệ dồi dào bởi đức công chính, càng được thống
trị hơn nữa trong sự sống do một người là Đức Giêsu Kitô.
Do
đó, tội của một người truyền đến mọi người đưa tới án phạt như thế nào, thì đức
công chính của một người truyền sang mọi người đưa tới bậc công chính ban sự sống
cũng như thế. Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở
thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người
trở thành kẻ công chính cũng như thế. Đó là lời Chúa.
CÂU
XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Mt 4, 4b
Người
ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
PHÚC
ÂM: Mt 4, 1-11
"Chúa Giêsu nhịn ăn bốn mươi ngày đêm, và chịu cám dỗ".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ.
Khi Người đã nhịn ăn bốn mươi đêm ngày, Người cảm thấy đói. Và tên cám dỗ đến gần,
nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này
biến thành bánh". Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: 'Người
ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán
ra'".
Bấy
giờ ma quỷ đưa Người lên Thành thánh, và đặt Người trên góc tường Đền thờ, rồi
nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi, vì
có lời chép rằng: Ngài đã ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông, và chư vị đó
sẽ nâng đỡ ông trên tay, để ông khỏi vấp chân vào đá". Chúa Giêsu đáp:
"Cũng có lời chép rằng: 'Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa
ngươi'".
Quỷ
lại đưa Người lên núi rất cao, và chỉ cho Người xem thấy mọi nước thế gian và
vinh quang của những nước đó, rồi nói với Người rằng: "Tôi sẽ cho ông tất
cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi". Bấy giờ Chúa Giêsu bảo
nó rằng: "Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: 'Ngươi phải thờ lạy
Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài'". Bấy giờ ma quỷ
bỏ Người. Và các thiên thần tiến lại, hầu hạ Người. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Ðức Kitô Ðã Chiến Thắng
Giới Thiệu Mùa Chay:
Danh
từ "Mùa Chay" có vẻ chỉ còn "vang bóng một thời", nghĩa là
nhắc lại thời xa xưa mà Giáo hội ăn chay hầu như suốt cả Mùa (trừ Chúa nhật).
Ngày nay chúng ta chỉ còn giữ chay 2 ngày (thứ tư lễ Tro và thứ Sáu Tuần
Thánh). Thế nên có thể nghĩ đến việc tìm ra một danh từ khác. Chẳng hạn có thể
bắt chước La văn hay Pháp văn gọi Mùa này là "Mùa Tứ Tuần" hoặc
"Mùa 40 ngày" (qua dragesima, carême).
Tuy
nhiên nếu giữ lại danh từ "Mùa Chay" cũng vẫn tốt, để nhớ lại nguồn gốc,
ý nghĩa và tinh thần của những tuần lễ trước Tam Nhật Vượt Qua.
Là
vì như chúng ta đã biết, Phụng vụ của Giáo hội đã khởi đầu với việc cử hành
"Ngày Chúa nhật" để tôn kính Ngày Chúa sống lại. Và ngày Chúa nhật
giáp năm Chúa Nhật Phục Sinh đã được cử hành long trọng một cách đặc biệt, bằng
cách tổ chức "Tam Nhật Vượt Qua", tức là ba ngày trước lễ Phục sinh.
Người ta ăn chay, hãm mình để thực hiện mầu nhiệm Tử nạn của Chúa ở nơi mình, hầu
xứng đáng mừng việc Chúa sống lại.
Nhưng
ba ngày thật quá ít đối với những ai thấy mình nhiều tội hoặc đã sống lâu trong
tình trạng tội lỗi. Và những tội nhân công khai chắc cần phải có thời giờ nhiều
hơn, để tập sống đạo đức trở lại. Chẳng bao lâu, Tam Nhật Vượt Qua đã trở thành
nhiều tuần lễ. Và để mở đầu, người ta tổ chức ngày rắc tro trên đầu và mặc áo
nhặm để đưa các tội nhân muốn thống hối vào Mùa ăn chay đền tội. Ðó là ý nghĩa
ngày Thứ Tư Lễ Tro hiện nay.
Chúng
ta có thể tự hỏi vì sao lại chọn ngày thứ Tư? Trước khi có Tam Nhật Vượt Qua để
dọn tâm hồn mừng giáp năm Ngày Chúa sống lại, dần dần trong Hội Thánh có thói
quen chuẩn bị lễ mỗi ngày Chúa nhật. Và hai ngày được chọn để làm công việc này
là thứ Tư và thứ Sáu, vì theo lối tính thời gian, nhiều người nghĩ rằng Chúa
Kitô đã bị bắt ngay từ đêm thứ Ba rạng ngày thứ Tư và Người đã tử nạn vào ngày
thứ Sáu. Thế nên muốn kết hợp với mầu nhiệm Thương Khó của Người, Phụng vụ đã
khởi sự tinh thần thống hối vào ngày thứ Tư. Và các kinh lễ ngày thứ Tư và thứ
Sáu trong tuần vẫn có vẻ đặc biệt hơn những ngày khác.
Cuối
cùng để Mùa ăn chay đền tội được thêm ý nghĩa mầu nhiệm, Phụng vụ đã quy định
thời gian 40 ngày để gợi lại 40 ngày Ðức Kitô ăn chay trong sa mạc. Nhưng lòng
sốt sắng vẫn có khuynh hướng nối dài thêm; thành ra trước đây đã có những Chúa
nhật 70, 60 và 50, mà bây giờ không còn nữa. Và để bắt chước Ðức Kitô trong những
ngày ấy sống bằng Lời Chúa, Giáo hội đã muốn giúp đỡ các tội nhân thống hối bằng
cách lấy kho tàng mạc khải mà giáo huấn họ lại.
Công
việc giáo huấn này lại trùng với việc chuẩn bị các tân tòng đón nhận ơn phép Rửa
tội trong Ðêm Phục Sinh. Thành ra, Mùa Chay hiện nay mang nhiều ý nghĩa:
*
nối dài Tam Nhật Vượt Qua: Giáo hội muốn con cái mình sửa soạn tâm hồn dự lễ
giáp năm Ngày Chúa Phục Sinh;
**
đặc biệt đối với những tội nhân công khai muốn trở về nếp sống đạo đức, Giáo hội
cống hiến cho họ thời gian đền tội và cải tạo.
***
và với các tân tòng sẽ lãnh nhận bí tích Rửa Tội trong Ðêm Phục sinh, Giáo hội
tổ chức việc giáo huấn ở nhịp độ khẩn trương.
Những
ý nghĩa đó chan hòa trong Phụng vụ Mùa Chay, khi ẩn khi hiện. Mọi hạng người,
tân tòng, tội nhân và thánh hữu đều có thể tìm thấy và phải đến tìm được trong
mầu nhiệm Chúa ăn chay 40 ngày, ân sủng của việc Chúa chịu chết hầu cải tạo tâm
hồn và đời sống để xứng đáng hát bài ca ALLÊLUIA mừng sự sống đã phục sinh, bài
ca mà mùa này không hát nữa để sẽ được hát lại với tâm hồn mới mẻ.
Chúng
ta hãy nhờ Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể giúp đỡ, để đổi mới tâm hồn
trong Mùa Chay này.
Suy
Niệm:
Chúa
Nhật I Mùa Chay A
Kn
2,7-9; 3,1-7; Rm 5,12-19; Mt 4,1-11
Câu
truyện Ðức Kitô bị cám dỗ, tuy rất quen thuộc nhưng vẫn gây nhiều chú ý. Người
ta muốn hiểu từng chi tiết, phân tích tỉ mỉ các cơn cám dỗ mà Chúa đã phải chịu.
Rồi bài đọc I hôm nay lại nói về việc Ađam - Evà bị cám dỗ và sa ngã trong vười
địa đàng khiến chúng ta có khuynh hướng gọi Chúa Nhật I Mùa Chay là Chúa Nhật
Nói Về Cám Dỗ hoặc Thử Thách. Kiểu gọi đó lại hợp với Mùa Chay vì là mùa phải
phấn đấu chống lại tội lỗi.
Nhưng
nếu hiểu như vậy, Ngày hôm nay không làm nổi bật ý nghĩa của Ngày Chúa Nhật nữa,
là phải đề cao mầu nhiệm Phục sinh. Chính bài thư Rôma cho ta thấy chủ ý của Phụng
vụ khi trích đọc hai câu truyện kia. Thánh Phaolô nói: như do một người mà nhân
loại đã chết, thì nay do một Vị mà tất cả được sống. Chúa nhật này vì thế mừng
chiến thắng của Ðức Kitô để cứu chuộc loài người sa ngã, hầu giúp chúng ta phấn
khởi và vững vàng bước vào Mùa Chay.
Chúng
ta hãy xem loài người đã sa ngã thế nào và Ðức Kitô đã chiến thắng làm sao, để
chúng ta liên kết với Người hầu sống đúng tinh thần Mùa Chay Thánh.
A.
Loài Người Ðã Sa Ngã
Câu
truyện Ađam-Evà sa ngã đã làm hao tổn nhiều giấy mực. Chúng ta không được coi
đây như là bản văn mới được viết vài năm. Có lẽ nó đã được 3,000 tuổi và được
viết trong một bối cảnh thật xa lạ với chúng ta, tuy cũng có một vài nét khá gần
gũi. Nó thuộc loại văn "khôn ngoan", phát triển sau thời Lưu đày.
Thời
ấy, con người suy nghĩ nhận ra rằng ở mọi nơi đều có tội lỗi; và tội lỗi ở ngay
trong tâm hồn mỗi người. Tội lỗi có đủ mọi bộ mặt, nhưng sâu xa đều là những
hình thức bất tuân phục tiếng nói trong trắng, thần thiêng trong lòng con người.
Diễn tả sự kiện ấy thế nào đây? Một tác giả "khôn ngoan" được ơn linh
hứng đã viết ra câu chuyện nguyên tổ.
Ađam
là "Người"; Evà là "Bà". Ađam-Evà là đàn ông và đàn bà, là
loài người, là Nguyên tổ đã được Thiên Chúa dựng nên với hai yếu tố "thác
là thể phách, còn là tinh anh". Mang yếu tố thể phách có thể thác đi, loài
người là tạo vật chưa có hạnh phúc đầy đủ và bảo đảm. Nhưng Thiên Chúa đã
thương cất nhắc họ lên một bậc, khi đưa họ đặt vào vườn địa đàng, hình ảnh về một
trạng thái hạnh phúc bất tận, vì trong đó có cây hằng sống. Chỉ có một điều kiện:
con người phải nhớ đây là tình trạng ân huệ nhưng không, lệ thuộc vào lòng tốt
của Thiên Chúa, nên đáng lý con người luôn phải mến yêu kết hợp với Người.
Nhưng
sự thật đã không như vậy. Và để diễn tả việc sa ngã này, tác giả sách Khởi
nguyên đã lồng lời mạc khải trong bộ áo văn chương của thời đại. Giáo lý của
Chúa thật đơn sơ: tội lỗi hoàn toàn không phải bởi Chúa, nhưng do ngây ngô khờ
dại của loài người muốn tự kiêu. Giáo lý ấy diễn tả làm sao cho người sống cách
đây 3,000 năm? Thời ấy người ta hay nói đến những thứ cây hằng sống và những
cây ban khôn dại; người ta cũng coi rắn là loài quỷ quyệt và là thần sinh đẻ.
Tác giả Thánh kinh mượn ngay những hình ảnh văn chương ấy để diễn tả Lời mạc khải.
Con rắn dụ dỗ người ta ăn trái cây khôn dại. Nó sắc sảo nên đã cám dỗ Evà là
người yếu đuối và là người đã không trực tiếp được nghe lệnh Chúa. Nó đảo lộn lệnh
Ngài: "Các ngươi không được ăn cây nào trong vườn ư?", đang khi Chúa
dạy được ăn mọi thứ cây, trừ cây biết tốt xấu. Và nói xuyên tạc ý nghĩa lệnh
truyền: chẳng chết chóc gì đâu! Chỉ có điều Thiên Chúa biết: ngày nào ăn nó,
các ngươi sẽ nên như những Thiên Chúa. Nó phỉnh lòng hiếu thắng tự kiêu của
Evà, lôi bà vào tội bất vâng phục, khiến cả Ađam cũng sa ngã.
Ðiều
quan trọng không phải là những chi tiết của câu truyện mặc dầu về phương diện
văn chương, tâm lý, bản văn rất có giá trị. Chủ ý của tác giả chỉ muốn trình
bày một số thực tại: mọi người đều tội lỗi, tội lỗi không phải bởi Chúa nhưng bởi
Satan quỷ quyệt; nó ranh mãnh vặn vẹo tiếng nói thần linh trong lòng con người
và phỉnh lòng tự ái của họ; con người khờ dại nghe theo nó, phạm tội bất vâng
phục, và khi mở mắt ra thì thật là bẽ bàng... Chúng ta có thể suy nghĩ nhiều
hơn nữa về những sự kiện trên, nhưng để cử hành Phụng vụ chúng ta chỉ cần nhận
biết loài người đã sa ngã phạm tội, đã bại trận hoàn toàn, chỉ còn biết chờ
mong ơn cứu vớt. Và ơn Chúa cứu độ đã đến nơi Ðức Yêsu Kitô, Chúa chúng ta, như
bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy.
B.
Ðức Kitô Ðã Chiến Thắng
Thánh
Matthêô đã tường thuật tỉ mỉ. Bản văn rõ ràng, nhưng che giấu nhiều ý tứ quan
trọng.
Trước
hết, sự việc đã xảy ra vào lúc Ðức Kitô khởi sự công trình cứu thế. Người vừa
chịu phép rửa của Yoan; được Thánh Thần hiện xuống; và có tiếng Chúa Cha tuyên
bố: "Ðây là Con Chí Ái của Ta". Người được Thánh Thần đưa vào sa mạc
để chịu cám dỗ như Israel đã được cột lửa dẫn vào hoang địa để chịu thử thách.
40 đêm ngày của Người trong sa mạc khác nào như 40 năm của Israel nơi hoang địa
vì Người là Israel mới đến cứu Israel cũ. Hơn nữa, Người là Môsê mới. Và như
Môsê cũ đã ở trên núi 40 đêm ngày trước khi ban Luật pháp cho dân, Người cũng
muốn sống một thời gian như thế ở nơi u tịch trước khi ban bố Luật pháp Nước Trời.
Người ta cũng có thể thời gian 40 ngày này gợi lại hình ảnh một Êlya, sau 40
ngày trên đường đi gặp Thiên Chúa, đã cảm thấy đói mệt.
Chính
lúc cơ thể Người thay đổi như vậy, Satan đã đến gần. Nó chưa hiểu rõ Người, vì
30 năm ở Nagiarét Người âm thầm và khiêm nhu quá! Nó vừa được nghe tuyên bố Người
là Con Thiên Chúa; nhưng có thật vậy không? Lập trường và đường lối của Người
như thế nào? Nó muốn biết. Nó cần phải thử. Nó nắm lấy cơ hội Người đang đói.
Nó đi từ chính tước hiệu Người là Con Thiên Chúa, để xem "bộ mặt đích thực"
của Người. Nó vừa xúi, vừa thử: nếu Ông là Con Thiên Chúa hãy hóa những viên đá
này nên bánh. Nhưng câu trả lời của Người đã làm nó chưng hửng. Người trích dẫn
câu sách Thứ luật (8,2-5) gợi lại câu chuyện Israel ngày xưa nơi sa mạc bị thử
thách khi đói ăn (Xh 16). Israel cũ đã ngã, nhưng Israel mới không thể như vậy.
Người nói: "Con người không sống nguyên nhờ bánh, nhưng còn nhờ Lời Thiên
Chúa". Người không sống nhờ phương tiện vật chất; Người đã có một thứ
lương thực khác: đó là Thánh Ý của Chúa Cha. Người không đến để tìm sự sống cho
bản thân. Ðã có Chúa Cha ban sự sống đích thực cho Người, vì Người là Con Chúa
Cha. Satan không thể lầm về con người của Người nữa.
Nhưng
còn sứ mạng của Người? Chắc chắn Người đến để thiết lập thời đại cánh chung, thời
đại phân biệt tốt xấu lành dữ. Các tiên tri nói rằng khi đến thời đại ấy nhiều
người sẽ xuất hiện bảo mình là Kitô. Và thiên hạ sẽ được chứng kiến nhiều trò
ngoạn mục. Ngài Yêsu, Con Thiên Chúa đây là Kitô thuộc loại nào? Giả hay thiệt?
Satan tạo nên một bối cảnh cánh chung. Nó đưa Người vào thành thánh và đặt trên
thượng đỉnh Ðền thờ để như có quần chúng đông đảo ở dưới chân đang chờ đợi dấu
thiêng điềm lạ, đến nỗi có thể có cả những sự can thiệp của các thiên thần.
Chính danh từ thành thánh đã báo hiệu thời kỳ cánh chung rồi. Satan dùng ngay
khí giới Ðức Kitô đã dùng. Nó trích Lời Chúa để hy vọng vô hiệu hóa "thứ
gươm hai lưỡi đó", nếu làm được cho Người lạm dụng Lời Chúa, lạm dụng sứ mạng
và quyền lực được trao phó cho Người. Nó bảo: nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy
gieo mình xuống vì như đã chép, Người sẽ lịnh cho các thiên thần đến đỡ... Nó
đâu ngờ được Người sẽ trả lời: lại có chép: Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa.
Câu sách Thứ Luật này (6,16) lại gợi đến một chuyện ở hoang địa, kể trong sách
Xuất hành (17). Chính ở Massa, dân đã thử thách Chúa, để xem Chúa có ở giữa họ
hay không? Ðức Kitô ý thức chắc chắn Thiên Chúa ở với Người. Người không thử
thách Chúa. Người không cần làm chứng về mình, như các kitô giả phải tạo ra uy
tín mà họ không có. Chính Chúa Cha đã làm chứng về Người ở sông Yorđan; và sẽ
làm chứng huy hoàng hơn nữa trong mầu nhiệm Phục sinh.
Satan
cố gắng một lần cuối cùng. Nó muốn biết rõ thái độ của Người đối với nó. Người
phải trực tiếp nhìn vào nó. Và như vậy, nó đưa Người lên núi cao, bày cả thế
gian ra trước mắt Người, chỉ cho Người thấy tất cả vương quốc của nó. Nó bảo
Người chỉ cần lạy nó một cái là được tất cả. Nó thật không ngờ: cảnh tượng này
nhắc Người nhớ tới hôm Môsê được dẫn lên núi cao để bao quát Hứa địa chảy sữa
và mật. Dân sẽ được đất đó làm sở hữu, nhưng họ phải tránh tà giáo và chỉ được
thờ một Thiên Chúa mà thôi. Tiếng của Môsê còn vang rõ trong Xuất hành (23,23),
trong Thứ luật (16,16). Và hình ảnh Êlya, người chiến sĩ vô địch chống tà giáo,
còn như đang đứng cao với ngọn núi Karmel. Ðức Yêsu lập tức cất tiếng: Satan,
xéo đi! Bị gọi đúng tên, nó biến mất, để lại một Ðức Yêsu toàn thắng, được các
thiên thần đến phục vụ. Chúng ta cũng hãy đến với Người để được đưa ra khỏi
tình trạng sa ngã của loài người.
C.
Liên Kết Với Ðức Kitô
Ðó
là mục đích của Phụng vụ và của bài thơ Phaolô hôm nay. Bài thơ này muốn là gạch
nối giữa bài sách Khởi Nguyên và bài Tin Mừng.
Chúng
ta đã thấy tất cả loài người sa ngã hay ít ra đã thấy gương sa ngã của Ađam-Evà
là tiêu biểu giống đàn ông đàn bà chúng ta. Chúng ta dễ đồng hóa mình với hai
nguyên tổ, tức là cũng nhận ra mình là tội nhân trong cả loài người tội lỗi.
Trong khi đó, nhìn vào chiến thắng của Ðức Kitô, chúng ta thấy Satan đã bị đánh
bại. Nhưng đó là chiến thắng của riêng Người, hấp dẫn chúng ta thật nhưng chưa
có gì móc nối ta vào chiến thắng đó. Bài thư Phaolô đáp lại chờ mong của chúng
ta, đem đến một tin mừng cứu độ: Ðức Kitô đã chiến thắng cho chúng ta hết thảy
và vì chúng ta hết thảy. Người là người con duy nhất của Thiên Chúa đã đến làm
lại lịch sử của Dân Chúa để cứu chuộc toàn dân đã lầm lẫn. Người là Môsê mới được
gửi đến để giúp dân không còn thử thách Chúa nữa, một tin vững vàng Ngài đang ở
với mình và vì thế chỉ được thờ một mình Ngài mà thôi. Người cho những ai tin
vào ơn gọi làm con Chúa được liên đới với Người. Và sự liên đới này hữu lý và
sâu xa hơn sự liên đới với Ađam tội lỗi.
Ðó
là ý của bài thư Phaolô. Nó xoay quanh tư tưởng liên đới. Chúng ta dễ thấy mình
liên đới với Ađam vì rõ ràng chính chúng ta cũng tội lỗi. Án tử mà chúng ta hết
thảy đang mang trong mình là bằng chứng rõ rệt. Ý thức ấy sẽ đưa chúng ta vào
tuyệt vọng, nếu không có một sự liên đới khác, sâu xa và hoàn toàn hơn. Sự liên
đới này không kinh nghiệm được, nhưng hoàn toàn tựa vào niềm tin. Chính niềm
tin cứu sống loài người. Trong Cựu Ước, Chúa đã cứu những ai tin Người. Nay dưới
thời Tân Ước, Người cũng cứu những ai tin vào Người Con Chí Ái của Người. Và
tin vào người Con này, thì phải bắt chước, sống ơn gọi làm con như Người.
Do
đó, con đường Mùa Chay dẫn tới vinh quang Phục sinh là con đường bảo đảm và
phát huy ơn gọi làm con Chúa. Ở bất cứ chặng đường nào, dường như vẫn có tiếng
nói nhắc nhở chúng ta: nếu là con Thiên Chúa... thì chúng ta phải liên kết với
Ðức Kitô và phấn đấu như Người.
Dĩ
nhiên cám dỗ có nhiều thứ; nhưng chung quy mọi cám dỗ đều muốn kéo ta ra khỏi
ơn gọi làm con Chúa. Mà ơn gọi này, ở nơi ta cũng như ở nơi Ðức Kitô, không thể
tách rời khỏi ơn cứu thế. Ai ý thức mình là con Chúa cũng phải coi mọi người là
anh em và đưa tất cả anh em về Nhà Cha. Nên hết mọi cám dỗ, khi muốn kéo ta ra
khỏi ơn gọi làm con Chúa, cũng đồng thời lôi ta ra khỏi tình anh em. Và vì thế
Mùa Chay phải là mùa phải trở về với cộng đồng vì là mùa phải trở về với Thiên
Chúa. Chúng ta hãy có tinh thần yêu tha nhân, yêu đồng bào hơn; hãy sửa chữa những
thái độ ích kỷ và phát huy tinh thần phục vụ công ích; hãy muốn cứu thế để được
cứu độ, vì có thương xót mới được xót thương.
Ðức
Kitô giờ đây ban Thịt Máu Người cho ta. Tâm hồn Người thật quảng đại, nên chỉ
có những ai quảng đại mới đáng đón nhận Người. Xin Người ngự vào lòng chúng ta,
giúp chúng ta bảo toàn và phát huy ơn gọi làm con Chúa, để tăng ý thức mọi người
là anh em ở nơi ta, hầu lòng mến Chúa ở nơi ta trở thành lòng mến yêu và phục vụ
mọi người.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật I Mùa
Chay,
Năm A
Bài đọc: Gen 2:7-9; 3:1-7;
Rom 5:12-19; Mt 4:1-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cám dỗ và cách thức
để vượt qua
Cám
dỗ là kinh nghiệm thường xuyên xảy ra cho mỗi người. Nhiều người bi quan cho rằng
con người không thể thắng vượt được trước ba kẻ thù quá mạnh là xác thịt, thế
gian và ma quỉ. Nhưng trong kế hoạch của Thiên Chúa, phải có cám dỗ để thử
thách đức tin. Thiên Chúa để những cám dỗ xảy ra là để thử thách và tôi luyện
niềm tin, sự hy vọng, và lòng yêu mến của mỗi người dành cho Ngài.
Những
bài đọc của Chủ Nhật đầu Mùa Chay, Năm A, cho chúng ta cái nhìn thâm sâu vào sự
cám dỗ. Trong bài đọc I, tác giả Sách Sáng Thế tường trình sự sa ngã của cặp vợ
chồng đầu tiên, ông Adam và bà Eva. Hậu quả là con người phải lãnh nhận biết
vao đau khổ và phải chết. Trong bài đọc II, thánh Phaolô giải thích cho chúng
ta sự liên hệ giữa tội của Adam và công nghiệp của Chúa Giêsu trong Kế Hoạch Cứu
Độ của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, thánh sử Matthew tường thuật cơn cám dỗ của
Chúa Giêsu trước khi khởi đầu sứ vụ rao giảng và cứu chuộc của Ngài. Tuy bị cám
dỗ như bao người, Chúa Giêsu đã chiến thắng khải hoàn vì Người luôn tin tưởng
nơi tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Adong và Eva bị cám dỗ và đã sa chước cám dỗ.
1.1/
Thiên Chúa sắp đặt mọi sự cho con người: Trình thuật STK vắn tắt cho khán giả thấy uy quyền,
tình yêu, và sự quan phòng của Thiên Chúa: Ngài dựng nên con người và thiết lập
một Vườn Địa Đàng để cho con người cư ngụ trong đó. Con người không thiếu thốn
một điều gì trong vườn đó, và có quyền ăn mọi trái cây trong vườn ngay cả cây
trường sinh. Để thử thách niềm tin yêu của con người, Thiên Chúa cấm con người
không được ăn cây “biết điều thiện điều ác.”
1.2/
Con rắn cám dỗ và con người đã sa ngã:
(1)
Sự tinh khôn của rắn:
Tác giả cho chúng ta một chi tiết quan trọng: “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong
mọi giống vật ngoài đồng, mà Đức Chúa là Thiên Chúa đã làm ra.” Rắn là biểu tượng
của quỉ, chúng cũng là tạo vật của Thiên Chúa, nguyên thủy là thiên thần nhưng
đã phản bội Ngài. Chúng tinh khôn hơn con người vì chúng không có thân xác, điển
hình là chúng đã làm cho con người sa ngã. Trước tiên, nó khơi dậy sự tò mò nơi
người đàn bà: Tại sao Thiên Chúa chỉ cấm ăn trái cây đó? Thứ đến, nó khơi dậy sự
nghi ngờ trong người đàn bà về tình yêu Thiên Chúa dành cho con người khi nó
nói với Bà: "Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà
ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều
thiện điều ác."
(2)
Ý nghĩa của cám dỗ đầu tiên:
-
Tên của trái cây bị cấm “biết điều thiện điều ác” cho chúng ta cái nhìn sâu xa
trong cuộc cám dỗ này. Chỉ có Thiên Chúa là Người hoàn toàn biết điều thiện điều
ác. Quỉ cũng muốn được giống như Thiên Chúa, và chúng sa ngã cũng vì lý do này.
Con người không thể hoàn toàn biết điều thiện điều ác như Thiên Chúa, nhưng lại
muốn được giống như Thiên Chúa để khỏi phải lệ thuộc vào Ngài. Đúng như tên gọi
của cây, vì khi hai ông bà ăn vào, “mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần
truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân.” Họ biết điều thiện là họ đã phản bội
Thiên Chúa yêu thương, và họ biết điều ác là mình đã phạm tội và cảm thấy xấu hổ.
-
Tội đầu tiên con người phạm là tội kiêu ngạo: là con người mà lại muốn trở
thành Thiên Chúa. Tội này dẫn đến tội thứ hai là không vâng lời điều Thiên Chúa
truyền dạy: đưa tay ăn quả cấm và cám dỗ chồng để cùng ăn. Hậu quả là con người
bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, chịu trăm ngàn đau khổ, và phải chết.
-
Hai ông bà không phải là những người duy nhất phạm hai tội này, nhưng trải qua
bao thế hệ, chúng vẫn đang làm cho biết bao người sa ngã và chịu những thiệt hại
nặng nề. Con người ở mọi nơi mọi thời vẫn bị cám dỗ để nghĩ họ có thể khôn
ngoan bằng hay hơn Thiên Chúa, họ muốn tự mình quyết định mọi chuyện xảy ra, chứ
không muốn lệ thuộc vào ai cả; nhất là không muốn nghe bất cứ ai truyền cho họ
phải làm điều gì cả cho dù biết nó là điều tốt.
2/
Bài đọc II:
Sự khiêm nhường và lòng vâng phục của Đức Kitô thay đổi bản án cho con người.
2.1/
Tội cùng chịu và phúc lành cùng hưởng: Có lẽ câu trả lời của thánh Phaolô cho câu hỏi
“Làm sao mọi người đều được hưởng ơn cứu độ từ công phúc của một mình Chúa
Giêsu?” phải được xếp ngang hàng về tầm quan trọng với câu trả lời “Con người
được cứu độ là do việc đặt niềm tin vào Đức Kitô, chứ không do bởi việc lành của
con người.” Trình thuật hôm nay dẫn chứng câu trả lời, chúng tôi sắp xếp câu trả
lời như sau để giúp độc giả hiểu rõ hơn.
(1)
“Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự
chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội.”
Phải hiểu làm sao
câu “mọi người đã phạm tội?” Có 3 cách hiểu:
i. Tội tổ tông: Mọi người đều từ cặp
vợ chồng Adam và Eve, nên mọi người đều bị ảnh hưởng di truyền của tội. Đây là
điều Giáo Hội dạy, nhưng không chắc là ý của Phaolô ở đây.
ii. Adam phạm tội đầu tiên, sau đó mọi người
đều phạm tội; nhưng không có một sự liên hệ mật thiết nào giữa tội của Adam và
tội của mọi người, ngoại trừ căn bản là tội kiêu ngạo và bất tuân. Ý kiến này
cũng không vững ở đây.
iii. Adam là biểu tượng chung cho tất cả con người,
như khi chúng ta dùng danh từ “con người” có thể để chỉ “một người” hay có thể
để chỉ “mọi người.” Đây có lẽ là điều thánh Phaolô muốn ám chỉ ở đây: mọi người
đều đã phạm tội trong sự sa ngã đầu tiên.
(2)
Bằng chứng: “Trước
khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật, thì tội
không bị kể là tội. Thế mà, từ thời Adam đến thời Moses, sự chết đã thống trị cả
những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như Adam đã phạm.” Đối với
Phaolô, Lề Luật được coi là “người buộc tội luân lý,” vì nếu không có Luật buộc
sẽ không có tội. Thập Giới chỉ được ban cho con người từ thời ông Moses, vậy chẳng
lẽ con người không có tội từ ông Adam đến thời Moses? Phaolô nói không phải thế,
vì con người vẫn phải chết, mà chết là hậu quả của tội. Phaolô có ý muốn nói tất
cả đều đã phạm tội với Adam rồi, đó là lý do tại sao họ đều phải chết. Nhiều
người sẽ thắc mắc: “chưa sinh ra, làm sao đã phạm tội được?” Phaolô muốn trả lời:
Tập thể con người chỉ là một đối với Thiên Chúa, chứ không phải chỉ là những cá
nhân riêng lẻ, một người phạm tội là mọi người cùng phạm, một người phải chết
là mọi người phải chết. Có người sẽ phản đối như thế là bất công!
(3)
Phaolô trả lời Thiên Chúa không bất công, vì “Adam là hình ảnh Đấng sẽ tới. Nhưng sự sa ngã
của Adam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một
người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa
ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn
người.” Như vậy, Phaolô đã trả lời câu hỏi hóc búa: “Làm sao ơn cứu độ của mọi
người có thể đến từ công nghiệp của một người là Đức Kitô.”
2.2/
Không ai là một hòn đảo riêng lẻ: Nhiều người bi quan thường hay đổ tội cho bà Eva hay
cho ông Adam, vì họ đã gây ra tội lỗi, đau khổ, và sự chết cho con cháu. Thánh
Phaolô và Giáo hội không đổ lỗi như thế, lại còn lạc quan gọi đó là “tội hồng
phúc” như trong bài Exultet ca ngợi trong Đêm Vọng Phục Sinh. Thánh Phaolô liệt
kê ở đây hai hồng phúc mà con người được hưởng vì tội này: (1) Con người được
Thiên Chúa ban ơn cho trở nên công chính nhờ tin vào Đức Kitô. (2) Những ai được
Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và
được thống trị với Ngài. Và Ngài kết luận: “Thật vậy, cũng như vì một người duy
nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một
người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công
chính.”
3/
Phúc Âm:
Chúa Giêsu bị cám dỗ và Ngài đã vượt qua thành công.
Trình
thuật cơn cám dỗ của Chúa Giêsu được đặt trong bối cảnh cuộc đời của Chúa Giêsu
trước khi Ngài bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai. Địa điểm của chỗ cám dỗ này
là Núi Quruntur vẫn còn ngày nay, một vùng núi đá chập chùng nằm giữa Jericho
và Jerusalem. Nếu một người vào tu viện và leo lên đỉnh núi, họ có thể nhìn thấy
rõ Đền Thờ Jerusalem từ đây. Chúa Giêsu bị cám dỗ để chọn lựa cách cứu chuộc
con người: Cách dễ nhất và nhanh nhất để con người tin vào Ngài là làm phép lạ
cho dân có của ăn và ban cho họ tất cả những gì họ muốn như của cải, danh vọng,
uy quyền..., như sau khi Chúa làm phép lạ nuôi 5000 người, họ đã toan tính tôn
Ngài làm vua nên Ngài phải bảo các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia, giải tán
dân chúng, còn Ngài lên núi cầu nguyện (Jn 6:); Cách khó nhất và lâu nhất là
giáo dục để họ nhận ra sự thật, giúp họ kiên nhẫn thực hành, và vượt qua đau khổ
để đạt tới ơn cứu độ; cách này đòi hỏi Ngài phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng
trên Thập Giá để mang lại ơn cứu độ cho con người.
3.1/
Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu.
(1)
Cám dỗ thứ nhất về sự ăn uống: Trình thuật kể “Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau
đó, Người thấy đói.” Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: "Nếu ông là
Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!" Quỉ biết
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nó cũng biết Ngài mang bản tính con người nên cảm
thấy đói sau khi ăn chay, và nó biết để bảo vệ sự sống, một người sẽ không nghĩ
tới gì khác hơn là tìm được của ăn cho đỡ đói, nên nó cám dỗ Ngài làm phép lạ bằng
cách hóa đá thành bánh ăn.
Nhưng
Chúa Giêsu đáp lời quỉ và dạy chúng ta một bài học quan trọng: "Đã có lời
chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng
Thiên Chúa phán ra." Con người là một tổng hợp của hồn và xác, như thân
xác cần bánh ăn mới có thể sống cách thể lý, linh hồn cũng cần được nuôi dưỡng
bởi Lời Chúa thì mới có thể sống về phương diện tâm linh được. Sống phần tâm
linh quan trọng hơn sống phần xác, vì đó là cuộc sống đời đời. Thế mà biết bao
nhiêu người sống như không có hồn, như không phải chết, qua việc họ dành trọn vẹn
thời giờ cho việc mưu sinh và bỏ qua việc học hỏi Lời Chúa. Chẳng lạ gì mà họ bị
rơi vào hết cơn cám dỗ này đến cơn cám dỗ khác, và quằn quại trong đau khổ.
(2)
Cám dỗ thứ hai về làm phép lạ: Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền
thờ, rồi nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống
đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và
thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá." Quỉ biết người
Do-thái rất thích chứng kiến hay được hưởng phép lạ, và đa số dân chúng, nhất
là dân Việt-nam rất thích phép lạ. Nếu muốn con người tin, Thiên Chúa chỉ cần
cho họ thấy phép lạ!
Chúa
Giêsu trả lời quỉ và dạy con người bài học thứ hai: "Nhưng cũng đã có lời
chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi." Phép lạ
được làm là để khơi dậy đức tin trong tâm hồn con người: nếu một người đã có niềm
tin, phép lạ không còn cần nữa; nhưng nếu một người cứng lòng, dù có chứng kiến
biết bao phép lạ họ vẫn không tin. Chúng ta thấy rõ điều này nơi các người
trong Thượng Hội Đồng, họ vẫn không tin Chúa và còn tìm cách hủy diệt Người.
Hơn nữa, niềm tin dựa trên phép lạ không vững bền; nếu không thấy phép lạ nữa,
con người sẽ đánh mất đức tin. Họ muốn biến và điều khiển Thiên Chúa thành máy
làm phép lạ thay vì họ phải biết tin tưởng vào tình yêu và sự quan phòng của
Thiên Chúa, như những gì quỉ nói: “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn,
và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.”
(3)
Cám dỗ thứ ba cho giàu sang phú quí: Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ
cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy,
và bảo rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy
tôi." Cám dỗ này cho chúng ta thấy rõ ràng sự gian dối của ma quỉ, vì tất
cả những thứ quỉ hứa cho thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về chúng.
Chúa
Giêsu trả lời quỉ và dạy con người bài học thứ ba: "Satan kia, xéo đi! Vì
đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải
thờ phượng một mình Người mà thôi." Đây là điều răn thứ nhất và quan trọng
hơn cả. Có thể nói không một tín hữu nào không biết điều răn này; nhưng thực
hành giới răn này trong cuộc sống thì không dễ dàng, vì biết bao người đã vì lợi
lộc không chịu thờ phượng Thiên Chúa, lại quì sụp lạy ma quỉ. Cám dỗ này phải mở
mắt cho con người hiểu rõ họ được sở hữu điều gì hoàn toàn là do bởi Thiên
Chúa, chứ không từ ma quỉ, hay do bởi sức mình, hay bởi những thế lực khác.
3.2/
Những điều căn bản cần thiết để vượt qua chước cám dỗ: Trước tiên, kiến thức
về Thiên Chúa và về con người là điều kiện chủ yếu để vượt qua cám dỗ. Để có kiến
thức này, các tín hữu cần bỏ thời giờ để học hỏi về Thiên Chúa qua Thánh Kinh
và những giáo huấn của Giáo Hội. Không biết Kinh Thánh là không biết Thiên Chúa
và không biết những dự tính và đường lối của Thiên Chúa dành cho con người. Biết
những điều này, con người sẽ nhận ra ngay những cạm bẫy gian dối của ma quỉ và
không dễ rơi vào. Thứ đến, niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa cũng không
kém quan trọng. Con người phải vững tin Ngài sẽ không bỏ mặc con người phải
đương đầu với ma quỉ, nhưng sẽ sai các thiên thần và những người tốt lành đến
giúp đỡ và bảo vệ các con cái của Ngài, như đã sai các thiên thần đến nâng đỡ
và bảo vệ Chúa Giêsu sau cuộc cám dỗ. Sau cùng, nhược điểm của con người là
nghi ngờ sự hiện hữu, tình thương, và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nhiều người
lo sợ không biết có Thiên Chúa hay không, và nếu có, không biết Ngài có để mắt
săn sóc đến họ không; vì thế, họ nghĩ phải tự mình lo liệu lấy cho chắc ăn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta chỉ là loài thụ tạo vì yêu thương Thiên Chúa đã dựng nên, và có rất
nhiều giới hạn. Chúng ta phải diệt trừ tội kiêu ngạo và bất tuân bằng cách tập
luyện cho có được hai nhân đức khiêm nhường và tuân phục như Đức Kitô đã làm
gương cho chúng ta.
-
Chúng ta cần phải loại trừ cách nhìn ích kỷ và cá nhân của thế gian để học cái
nhìn xả kỷ và tập thể của Thiên Chúa. Một người phạm tội, mọi người đều chịu; một
người làm phúc, mọi người đều thông phần. Chỉ một lối sống như thế mới giúp
chúng ta loại bỏ mọi cãi cọ, ghen tương tranh dành, ly dị, chiến tranh và đáp ứng
được giới luật yêu thương như lời Chúa truyền dạy.
-
Mọi cám dỗ đều có thể thắng vượt được nếu chúng ta chịu khó học hỏi Lời Chúa,
và tập luyện để làm cho đức tin cho chúng ta mỗi ngày một thêm vững mạnh và
kiên cường hơn.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
09/03/14 CHÚA NHẬT TUẦN
1 MC – A
Mt 4,1-11
Mt 4,1-11
NHỮNG CÁM DỖ NGÀN ĐỜI
Người ăn chay ròng rã bốn
mươi đêm ngày, và sau đó Người thấy đói. Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người. (Mt 4,2-3)
Suy niệm: Quyền lực, danh vọng, lạc thú
là những cám dỗ có sức mạnh kỳ diệu từ ngàn đời. Ma quỷ cũng không dùng kế sách
nào mới để cám dỗ, chúng áp dụng chiêu thức “bổn cũ soạn lại” để hòng đánh bai
Chúa Giêsu vì biết rằng đó là trận đồ trải qua bao đời khó ai thắng nổi, dù là
những anh hùng hào kiệt hay bậc vĩ nhân xuất chúng. Thế nhưng chúng không ngờ,
Chúa Giêsu đã chiến thắng. Bí quyết chiến thắng của Ngài là sống tâm tình con
thảo với Chúa Cha và đem Lời Thiên Chúa ra để chiến đấu. Tâm tình con thảo với
Chúa Cha giúp Ngài luôn tìm mọi phương cách đẹp lòng Cha; Lời Thiên Chúa củng
cố cho tâm tình con thảo ấy. Không có Lời Chúa, con người sẽ rất lúng túng và
hoang mang khi phải đương đầu với những thử thách như thế.
Mời Bạn: Kinh nghiệm chiến đấu và chiến thắng trên đây
của Chúa Giêsu giúp ta nhận thức rõ giá trị của việc Phúc Âm hóa trong đời sống
Kitô hữu. Một khi cuộc sống đã thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, ta sẽ biết ứng xử
và tránh được những cám dỗ chết người như Chúa của mình.
Chia sẻ: Hãy chia sẻ kinh nghiệm của bạn - đặc
biệt kinh nghiệm thất bại vì không biết hay không muốn thực hành Lời Chúa - khi
bị thử thách, cám dỗ.
Sống Lời Chúa: Đọc, suy niệm Lời Chúa mỗi ngày
để Lời thấm sâu vào tâm hồn, nhờ đó giúp ta ứng xử cho đẹp lòng Chúa trong mọi
hoàn cảnh.
Cầu nguyện: Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đã chiến thắng cám dỗ. Xin Chúa giúp con vượt qua bao cám dỗ
trên đường đời con đi nhờ biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa dạy. Amen.
Những cơn cám dỗ – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Có
nhiều người thắc mắc: Ăn chay là gì? Phải chăng là để dằn vặt thân xác, hành khổ
con người cho Chúa vui lòng? Hỏi như vậy là chưa hiểu đạo, chưa hiểu hết ý
nghĩa của việc ăn chay. Chúa đâu phải quá độc ác, bệnh hoạn, vui lòng khi thấy
con người chịu khốn khổ. Ăn chay một phần để hy sinh đền tội, nhưng mục đích
chính của việc ăn chay là để thao luyện tâm hồn chống lại quỷ dữ.
Ngày
nay người ta quên sự có mặt của ma quỷ. Nhưng ma quỷ vẫn có đó và và vẫn tích cực
hoạt động nhằm phá huỷ thế giới, tiêu diệt con người. Ma quỷ rất tinh ma xảo
quyệt nên người ta khó nhận ra âm mưu, dấu vết của chúng.
Nhìn
vào ba cuộc ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta thấy ma quỷ rất tinh khôn. Nó có kế hoạch,
có chiến thuật, tấn công nhiều đợt, nhiều bước.
Thoạt
tiên ma quỷ tấn công vào những bản năng sơ đẳng nhất nơi con người: bản năng
sinh tồn, bản năng thống trị, bản năng đối nghịch. Những bản năng ấy gắn liền với
những nhu cầu căn bản, chính đáng của con người.
Kéo
chú ý của người ta vào những nhu cầu rồi, ma quỷ tiến bước thứ hai, đó là phóng
đại những nhu cầu đó lên, làm cho người ta lầm tưởng rằng, đó là những nhu cầu
cấp bách, phải thoả mãn ngay tức khắc.
Khi
ta đã hoàn toàn mê mẩn vì cái bẫy nhu cầu, ma quỷ mới đẩy ta đến bước thứ ba,
đó là tìm thoả mãn những nhu cầu theo ý riêng mình. Cách giải quyết đó ngược lại
với ý muốn của Thiên Chúa. Mục đích sau cùng của ma quỷ là xúi giục ta phản loạn,
không sống tâm tình người con hiếu thảo với Chúa, chống lại Chúa và sau cùng
lìa xa Thiên Chúa.
Ông
bà nguyên tổ đã rơi vào bẫy của ma quỷ nên đã không sống tâm tình của người con
hiếu thảo, muốn lìa bỏ cha mình, muốn ngang bằng cha mình, muốn chống lại cha
mình.
Chúa
Giêsu, trái lại, đã sáng suốt vạch trần âm mưu của ma quỷ và kiên quyết sống
tâm tình của người con hiếu thảo.
Khi
ma quỷ phóng đại nhu cầu, muốn cho Chúa Giêsu tưởng rằng con người chỉ là vật
chất, chỉ sống nhờ bánh vật chất, vật chất là tất cả đời sống. Chúa Giêsu đã
sáng suốt chỉ cho ta thấy vật chất không phải là tất cả, bánh vật chất của trần
gian là cần, nhưng bánh tinh thần của trời cao còn cần hơn.
Khi
ma quỷ thúc giục Chúa Giêsu hãy thoả mãn tức khắc nhu cầu của mình, Chúa Giêsu
đã biết kiên nhẫn chờ đợi. Khi ma quỷ khích Chúa Giêsu dùng quyền năng riêng của
mình để thoả mãn nhu cầu, Chúa Giêsu đã từ chối. Người muốn vâng phục Đức Chúa
Cha, tin tưởng phó thác vận mệnh trong tay Chúa Cha, để mặc Chúa Cha quyết định.
Tuy
đã thắng trong cuộc đọ sức đầu tiên, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị ma quỷ cám dỗ
trong suốt cuộc đời. Cơn dỗ khi thì đến từ những người tin theo Chúa, muốn tôn
Chúa làm vua để được ăn no nê bánh vật chất, khi thì đến từ những người chống đối
đòi xin phép lạ từ trời xuống. Có lúc ma quỷ mượn chính những người thân tín
như Phêrô để ngăn cản Chúa Giêsu thực hành ý Chúa Cha. Có lúc ma quỷ dùng cái
chết ghê sợ để uy hiếp tinh thần, mong Chúa Giêsu lùi bước để tìm ý riêng mình.
Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ vì Người luôn tìm thánh ý Chúa Cha. Dù
khi phải chiến đấu trong mồ hôi pha máu, Người vẫn nói: “Lạy Cha, xin đừng theo
ý Con, xin vâng theo ý Cha mà thôi”.
Ma
quỷ vẫn đang tiếp tục tạo nên những cơn cám dỗ. Và nhiều khi chúng ta đã mắc bẫy
ma quỷ. Ta mắc bẫy ma quỷ khi mải mê đuổi theo những nhu cầu tiêu thụ quá đáng.
Ta rơi vào âm mưu ma quỷ khi ta muốn có tất cả và có tức khắc. Ta hoàn toàn nằm
trong vòng tay ma quỷ khi ta dùng mọi phương tiện để thoả mãn những nhu cầu, bất
chấp ý Thiên Chúa.
Thay
vì tuân phục ý Chúa, tôi luôn luôn bắt Chúa làm theo ý tôi. Thay vì vâng lời
Chúa, tôi luôn luôn muốn sai bảo Chúa.
Mùa
Chay này, Chúa kêu gọi tôi trở về với Chúa. Muốn trở về với Chúa, tôi phải chiến
đấu chống lại ma quỷ. Muốn đủ sức chống lại ma quỷ, tôi phải luyện tập bỏ ý
riêng mình và tìm vâng phục ý Chúa.
Hãy
đặt ra cho mình một chương trình sống Mùa Chay bằng tăng cường hy sinh, cầu
nguyện, ăn chay và làm việc bác ái.
Thiên
Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót đang chờ đón tôi trở về, và sẽ ban sức mạnh
để tôi đủ sức chống lại mọi chước cám dỗ, nếu tôi biết sống trọn tình con thảo,
tin cậy phó thác vào Người.
Lạy
Thiên Chúa là Cha của con, xin đón nhận tâm hồn khiêm nhường sám hối của con.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1)
Theo bạn, ngày nay ma quỷ còn hoạt động trong thế giới không? Nếu có, bạn cho một
ví dụ.
2)
Bạn thường thua hay thắng cuộc khi gặp phải cám dỗ. Thua, tại sao? Thắng, nhờ
đâu?
3)
Đâu là âm mưu của ma quỷ che dấu đàng sau những cơn cám dỗ?
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
9
THÁNG BA
Trở Về Với Vòng Tay
Từ Ái Của Cha
Thánh
Phao-lô nói: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã giao hòa thế gian với chính Ngài,
Ngài không chấp những lỗi lầm của chúng ta” (2Cr 5,19).
Cuộc
giao hòa xảy ra giữa Người Con Đi Hoang và cha mình đã được hoàn tất nhờ công
cuộc của Đức Kitô. Thiên Chúa của giao ước vĩnh cửu tự thể hiện chính Ngài nơi
Đức Kitô như là Vị Thiên Chúa của giao hòa. Chân lý này có tầm thật nền tảng
trong Kitô giáo. Con người được mời gọi giao hòa với Thiên Chúa Cha trong Đức
Kitô.
Trong
Thư 2 Cô-rinh-tô, Thánh Phao-lô cho biết Thiên Chúa không chỉ “giao hòa chúng
ta với chính Ngài trong Đức Kitô” mà còn thêm rằng “Ngài trao cho chúng tôi
công bố lời hòa giải” (2Cr 5,18). Rồi Thánh Phao-lô tiếp: “Vì thế, chúng tôi là
sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy.
Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa”
(2Cr 5,20).
Sứ
vụ hòa giải – một hoa trái của cuộc giao hòa giữa Thiên Chúa với con người
trong Đức Kitô – là một phần căn bản thuộc sứ mạng cứu độ của Giáo Hội. Sứ mạng
này trao cho Giáo Hội quyền hòa giải con người với Thiên Chúa xuyên qua việc
tha thứ các tội lỗi của họ.
Nhưng,
hơn thế nữa, như Tông Huấn Reconciliatio et paenitentia (ch.11,
số 7) cho thấy, “Thánh Phao-lô thậm chí cho phép chúng ta mở rộng cái nhìn của
mình về công cuộc của Đức Kitô đến những chiều kích vũ trụ khi ngài viết rằng
nơi Đức Kitô Thiên Chúa đã giao hòa chính Ngài với tất cả mọi loài, trên trời
cũng như dưới đất” (Cl 1,20).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 09-03
CHÚA NHẬT I MÙA CHAY
St 2, 7-9; 3, 1-7; Rm 5, 12-19; Mt 4,
1-11.
LỜI SUY NIỆM: “Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoan địa, để chịu quỷ cám dỗ.”
Chúa Giêsu vào hoang địa, Người ăn chay và cầu nguyện
suốt bốn mươi đêm ngày để lãnh nhận Thánh Ý của Chúa Cha. Ma quỷ cám đỗ Chúa về
quyền năng hóa đá ra bánh để ăn (quyền năng phục vụ bản thân) Chúa đã từ chối.
Ma quỷ cám đỗ Chúa về thử thách Thiên Chúa, bằng cách (gieo mình từ trên nóc đền
Thờ xuông) Chúa đã từ chối; và cám dỗ cuối cùng là thờ lạy chúng (để được vinh
hoa lợi lộc thế gian) Chúa cũng từ chối.
Lạy Chúa Giêsu. Ba cám dỗ mà ma quỷ đã cám dỗ Chúa,
chúng cũng đang cám dỗ chúng con đó là quyền tư lợi, là thách thức quyền năng
Thiên Chúa và bán mình vì những lợi lộc trần gian. Xin Chúa ban cho mọi người
trong gia đình chúng con luôn trung tín, phó thác đời mình cho Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
09-03: Thánh PHANCICA RÔMANA
Nữ
tu (1384 - 1440)
Phanxica
thuộc vào một gia đình quí tộc ở Bussi de Leoni. Nhưng Ngài đã sinh ra và sống ở
Roma. Từ lúc 6 tuổi Ngài đã thực hành sám hối, muốn vào tu lúc 11 tuổi. Cha
Ngài thấy đây chỉ là tưởng tượng của con nít và năm sau đã gả Ngài cho lãnh
Chúa trẻ trung Lorenzo di Ponziani. Người vợ trẻ sẽ dẫn đắt chồng mình theo đường
trọn lành.
Phanxica
một thiếu nữ tươi đẹp. Sống giữa xã hội hào nhoáng Ngài tỏ ra rất hòa nhã dịu
dàng. Ngài giữ kín những khổ hạnh của mình. Có ai biết rằng: áo nhặm dưới y phục
lộng lẫy của Ngài đã làm Ngài mang thương tích đâu. Ngài dậy sớm để giờ cầu
nguyện khỏi bị ngăn trở, Varozza, người em dâu, cùng chia sẻ lý tưởng bác ái với
Ngài. Hai người cùng hồi tâm trong một cái hang ở cuối vườn. Họ phục vụ các bệnh
nhân tại nhà thương và giúp đỡ những người cùng khốn. Bà mẹ chồng nặng tinh thần
thế tục thấy thế nên giận dữ.
Nhưng
con bà, người chồng trẻ đã trả lời: - Sao lại trách họ vì những thói quen đạo đức
ấy ? Vả lại thói quen ấy có ngăn trở gì tới việc bổn phận của họ đâu ?
Thực
vậy, Phanxica luôn sẵn sàng bỏ mọi sự để các bổn phận của một quản gia khỏi bị
suy suyển gì. Một mẫu chuyện cho thấy Thiên Chúa chúc lành cho Ngài như thế
nào. Phanxica đang cầu nguyện. Người ta tới kêu. Ngài mau mắn bỏ sách đó và trở
lại sau khi phục vụ xong. Lần thứ nhất, lần thứ hai... bốn lần liên tiếp như vậy,
Ngài đều bình thản bỏ dở việc cầu nguyện. Lần thứ năm Ngài trở lại và thấy sách
kinh có dòng chữ vàng. Người ta không hề giã từ Chúa khi phục vụ tha nhân và hiến
mình phục vụ cũng là cầu nguyện.
Cha giải tội và nhà chép sử thánh Phanxica cho biết tình trạng được ơn thần bí của thánh nữ. Thiên thần của Ngài chiếu tỏa một ánh sáng để chỉ cho Ngài biết Thiên Chúa thỏa lòng đối với Ngài. Cũng thế, dù khi lỗi nhẹ, thiên thần liền đánh vào Ngài và thánh nữ tạ ơn Thiên Chúa đã giữ cho mình khỏi rơi vào mưu chước quỉ ma. Với thiên thần, Ngài nên mạnh mẽ. Một lần có sức mạnh quỉ ma đẩy Ngài xuống sông Tibre, thiên thần cứu Ngài lên bờ.
Cha giải tội và nhà chép sử thánh Phanxica cho biết tình trạng được ơn thần bí của thánh nữ. Thiên thần của Ngài chiếu tỏa một ánh sáng để chỉ cho Ngài biết Thiên Chúa thỏa lòng đối với Ngài. Cũng thế, dù khi lỗi nhẹ, thiên thần liền đánh vào Ngài và thánh nữ tạ ơn Thiên Chúa đã giữ cho mình khỏi rơi vào mưu chước quỉ ma. Với thiên thần, Ngài nên mạnh mẽ. Một lần có sức mạnh quỉ ma đẩy Ngài xuống sông Tibre, thiên thần cứu Ngài lên bờ.
Sau
khi mẹ chồng qua đời, người thiếu phụ nắm quyền quản trị nhà họ Ponziani. Ngài
coi gia nhân như anh chị em được gọi để chia sẻ nước Thiên Chúa với Ngài, nếu họ
ngã bệnh Ngài tận tâm săn sóc họ. Vào thời đói kém, khi đã cho hết những gì thuộc
quyền mình, Ngài ăn xin để giúp đỡ người thiếu thốn, ngày kia, Ngài gọi Varozza
lên kho lẫm thu lúa mì còn sót lại trong rơm. Lorenzo theo họ lên coi, đã thấy
đống lúa vàng thay vì rơm rạ, một phép lạ xảy ra tương tự tại một thùng rượu
không. Đầy thán phục, Lorenzo đã để cho người vợ thánh thiện được tự do xếp đặt
cuộc sống mình. Thế là Phanxica bán mọi thứ sang trọng, và chỉ mặc y phục khiêm
tốn, lại còn hãm mình nghiêm ngặt hơn.
Khi
chiến đấu cho đức Thánh Cha Lorenzo bị trọng thương và được mang về nhà khi
đang hấp hối. Thánh nữ đã thành công trong việc làm cho ông sống lại. Faluzzô,
em Ngài, bị bắt tù, người ta cho Ngài biết phải nộp con trưởng Gioan tẩy giả của
Ngài làm con tin, nếu không Paluzzô sẽ bị giết chết. Phanxica hoảng hốt đem con
đi giấu. Nhưng Don Antoniô là cha giải tội chặn đường lại nói:- Con làm gì thế
? Hãy đưa đứa con cho người đòi nó.
Phanxica
vâng lời để cứu em chồng, rồi vào nhà thờ quì khóc trước tượng Đức Trinh nữ.
Còn đang cầu nguyện thì viên sĩ quan địch mang đứa bé trả lại, vì ngựa ông không
chịu đi.
Tiếp
đến là những biến cố thảm lhốc. Roma bị xâm chiếm và bị cướp phá. Lorenzzô phải
trốn đi để lại trách nhiệm cho vợ mình, Phanxica ở lại, với hai con Evangêlista
và Anê. Cơn dịch xẩy ra, Evangêlista ngã bệnh, lúc chết cậu nói với mẹ : - Mẹ đừng
khóc, con sẽ được hạnh phúc vì này thiên thần đến tìm con.
Một
đêm kia Ngài cầu nguyện và thấy người con hiện ra báo tin mình đang ở giữa các
thiên thần và cho biết mình sẽ đến tìm đứa em gái, cho nó chia sẻ hạnh phúc. Một
niềm vui siêu nhiên hòa lẫn với các đớn đau loài người. Ngài ngã bệnh và các thị
kíến về hỏa ngục làm Ngài thêm khổ cực. An bình trở lại Roma. Lorenzô trở về chứng
kiến những tang tóc và cướp phá. Phanxica đau đớn trong lòng, nhưng vẫn tìm lời
trấn an đầy tha thứ. Ngài hòa giải thù địch với người chồng chỉ còn biết sống để
chia sẻ bước tiến thiêng liêng của vợ mình.
Phanxica
cũng lôi kéo các phụ nữ Rôma vào việc giúp đỡ cho những tình cảnh khốn khổ do
chiến tranh để lại. Ngài tụ họp vào một nhà những bà cùng một lý tưởng bác ái
và khổ hạnh. Đây là thời đầu của dòng những người tận hiến cho Đức Maria. Gọi
như thế vì khi tự hiến họ dùng từ ngữ: "Con hiến mình" thay vì tuyên
đọc lời khấn. Trong số những cuộc trở lại Phanxica tạo được, có cuộc trở lại của
vợ của Gioan tẩy giả, con Ngài.
Sau
bốn năm hoà hiệp, Phanxica mất chồng. Ngài tới quì trước cửa tu viện mình đã
thiết lập. Đi chân không. đeo giây vào cổ, Ngài xin nhập dòng.
Gioan
tẩy giả ngã bệnh, Phanxica bỏ dòng về thăm, Ngài đã bị lên cơn sốt và đã qua đời
chính tại nhà mình. Các nữ tu vây quanh Ngài để nghe những lời khuyên cao cả: -
Hãy trung tín đến chết, Satan sẽ tấn công các chị như đã tấn công tôi. Nhưng
không thử thách nào quá độc dữ nếu các chị trung thành với Chúa Giêsu.
Nói
lời cuối cùng xong, cửa trời mở ra, thiên thần của Ngài ra dấu kêu gọi Ngài
theo. Thánh Phanxica được chọn làm thánh bảo trợ của các phụ nữ đã lập gia đình
và trở nên góa bụa.
(daminhvn.net)
09
Tháng Ba
"Hãy Làm Một
Cái Gì Ðẹp Cho Chúa"
Mẹ
Têrêxa Calcutta thường hay nói: "Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho
Chúa". Sau tên cực trọng của Chúa Giêsu, hai chữ thường nằm trên đầu môi
chót lưỡi của Mẹ là "tốt đẹp và kỳ diệu". Hai tiếng ấy là một tóm gọn
của bài ca ngợi khen của Ðức Maria mà Mẹ Têrêxa đã lấy làm tâm tình của mình. Tốt
đẹp và kỳ diệu thay Tình Yêu Quan Phòng của Chúa được thể hiện qua những hy
sinh và phục vụ của Mẹ dành cho những người cùng khổ ở Ấn Dộ và trên khắp thế
giới...
Cách
đây hơn 15 năm, Malcolm Muggerridge, một ký giả và bình luận gia nổi tiếng của
đài BBC, đã cùng với một nhóm chuyên viên của đài đến Ấn Ðộ để làm một cuộc phỏng
vấn về Mẹ Têrêxa, về các hoạt động của Mẹ. Sau năm ngày làm việc, đến lúc cắt
xén và tháo ráp để dựng thành cuốn phim, Mẹ Têrêxa đã thốt lên: "Hãy làm một
cái gì tốt đẹp cho Chúa". Câu nói của Mẹ đã được ký giả Muggerridge lấy
làm tựa đề của cuốn phim thời sự về Mẹ và các nữ tu của Mẹ. Cuốn sách ghi lại
cuộc phỏng vấn cũng mang cùng một tựa đề. Sau khi cuốc phim được trình chiếu
trên đài BBC, thế giới bỗng chú ý đến người nữ tu đã từ mấy chục năm qua âm thầm
chăm sóc những người cùng khổ nhất trong các khu ổ chuột ở Calcutta. Tốt đẹp và
kỳ diệu thay! Khuôn mặt đau khổ của nhân loại được phơi bày, nhưng Tình Yêu của
Thiên Chúa cũng được thể hiện qua những âm thầm hy sinh phục vụ của Mẹ Têrêxa
và các nữ tu của Mẹ.
Ngày
nay, khi đi qua một số thành phố lớn trên thế giới, thỉnh thoảng người ta đọc
được bảng hiệu: "Hãy gìn giữ cho thành phố được sạch" hoặc "Hãy
làm đẹp thành phố". Những khẩu hiệu ấy nhắc nhở cho kiều dân và khách qua
đường về nghĩa vụ tôn trọng trật tự, cũng như giữ cho thành phố được sạch sẽ và
đẹp đẽ.
Mỗi
người Kitô cũng là một thành phố của Thiên Chúa. Họ luôn được mời gọi để giữ
thơm và làm sạch cho thành phố ấy. Thay vì vứt bừa bãi ra bên ngoài những rác
rưởi của những hành vi bất chánh, họ luôn được mời gọi để bày tỏ một bộ mặt tốt
đẹp và kỳ diệu để qua đó thiên hạ sẽ nhìn vào mà ngợi khen Cha trên trời...
"Hãy
làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa": đó phải là câu tâm niệm mà người
Kitô thốt lên khi vừa thức giấc đón chào một ngày mới.
"Hãy
làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng cách dâng lên Ngài hy sinh
trong những công việc nhỏ bé hằng ngày.
"Hãy
làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng những cử chỉ quảng đại, hy
sinh phục vụ đối với những người cùng khổ nhất trong xã hội.
"Hãy
làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng cách sống tử tế và không ngừng
tha thứ cho những người xúc phạm đến mình.
"Hãy
làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng chứng tích của một cuộc sống đầy
lạc quan và vui tươi ngay cả khi chỉ gặp toàn đau khổ, thử thách...
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét