09/03/2014
Chúa Nhật I Mùa
Chay Năm A
(phần II)
GIÁO
LÝ PHÚC ÂM
Sách
Sáng Thế 2.7-9; 3:1-7; Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Roma 5.12-19
và Phúc
Âm Thánh Mathhêô 4.1-11
I. Giáo
Huấn P.Â.:
Con
người, không trừ ai phải chiến đấu với sự dữ tức những cám dỗ của Satan.
Cám
dỗ nổi dậy lên từ những ước muốn bình thường và chính đáng: Thức ăn lúc đói
lòng; Thi thố khả năng mình có và Ước muốn sang giàu và quyền thế.
Phải
ăn chay, cầu nguyện mới thắng chước cám dỗ.
II. Vấn
nạn P.Â.
Những chủ đề chính
trong Mùa Chay theo chu Kỳ Phụng Vụ năm A
Chúa Nhật I Mùa Chay, Matthêu 4:1-11, Chúa Giêsu là con người thật như chúng
ta, Ngài phải đương đầu với những cám dỗ của cuộc sống con người: cần lương thực
lúc đói lòng; Thi thố tài năng và tham vọng.
Chúa Nhật II Mùa Chay, Matthêu 17:1-9, Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, nơi Ngài
tỏ hiện vinh quang sáng ngời của Thiên Chúa khi biến hình trên núi Tabor, nhưng
rồi cũng đi trọn đường trần, đi về Giêrusalem để chịu đau khổ và bị giết chết.
Chúa Nhật III Mùa Chay, Gioan 4:5-42, Chúa là nước hằng sống, chỉ có Chúa mới
thỏa đáp những khát vọng của con người. Chúa là Đấng Cứu Thế mà thế gian mong đợi.
Chúa Nhật IV Mùa Chay, Gioan 9:1-41, Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian. Ngài đến
để đẩy lui bóng tối ác thần và dẫn đưa con người đi trong ánh sáng sự thật hướng
về hạnh phúc thật.
Chúa Nhật V Mùa Chay, Gioan 11:1-45, Chúa Giêsu là sự sống và là sự sống lại.
Chúa Nhật Lễ Lá, Bài thương khó Chúa Giêsu, Matthêu 26: 14-27, 66 Chúa Giêsu
đau khổ, bị hành hình, bị giết chết và phục sinh.
Dung nhan Chúa trong Mùa Chay: Chúa Giêsu là con người như chúng ta để mang
chúng ta đến với Thiên Chúa là cùng đích của đời người. Cứu đời bằng việc sinh
làm người, sống với con người và chết cho con người.
Phúc Âm Nhất Lãm và
những tường thuật về việc Chúa bị cám dỗ trong sa mạc.
Phúc Âm Nhất Lãm tường thuật việc Chúa ăn chay, cầu nguyện và bị ma
quỉ cám dỗ có phần khác nhau. Phúc Âm Luca và Matcô tường thuật: Chúa Giêsu được
Thánh Thần dẫn vào trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu quỉ cám dỗ…có vẻ như
Chúa bị cám dỗ liên lỉ suốt bốn mươi ngày. Còn Phúc Âm Thánh Matthêeô bảo: Sau
khi ăn chay cầu nguyện liên lỉ suốt bốn mươi đêm ngày.. Ngài thấy đói và ma quỉ
xuất hiện cám dỗ… (Matt.4,1-11) Cám dỗ đến sau khi ăn chay cầu nguyện? Tường
thuật nào đúng?
Trong ba Thánh Sử của Phúc Âm nhất lãm, chỉ có Matthêô là tông đồ Chúa chọn.
Trong thực tế, khi được dẫn vào sa mạc ăn chay và cầu nguyện, Chúa chưa chọn
tông đồ hay môn đệ nào cả. Như vậy ba thánh sử tường thuật lại chuyện Chúa ăn
chay và cầu nguyện trong hoang địa theo lời kể của Chúa hay của người khác, chứ
không có vị nào thấy Chúa vào hoang địa hay tháp tùng với Chúa trong bốn mười
ngày chay tịnh nầy.
Thật ra, Phúc Âm không là phóng sự chiến trường hay một thứ tường
thuật tại chỗ những gì mắt thấy tai nghe. Phúc Âm là Giáo Lý của
các Tông đồ: Nhiều chục năm sau, sau khi Chúa về trời các Tông Đồ đi truyền đạo
và viết lại hay nhở người viết lại để dạy giáo lý và để trình bày quan điểm thần
học của mình. Nên chúng ta không nên trả lời là trường thuật nào đúng? Không có
tường thuật nào chính xác trăm phần trăm với sự kiện xảy ra cả. Nhưng chúng ta
phải trả lời là qua tường thuật, thánh sử muốn nói gì?
Chúa bị cám dỗ suốt bốn mươi ngày theo tường thuật của
Matcô và Luca để nói rằng: Cám dỗ không bao giờ mệt mỏi hay
cho chúng ta “nghỉ xả hơi” hay có thời gian “hưu chiến” trong
cuộc đời chúng ta. Quan điểm thần học nầy xem chừng rất thật trong cuộc sống
Kitô hữu. Thí dụ: Lúc nào? Tuổi nào? và ở lên tới địa vị nào thì chúng ta sẽ
không còn bị cám dỗ về ham muốn nhục dục? Cám dỗ bất chấp thời điểm, tuổi tác
hay địa vị. Còn địa vị nào cao cho bằng Tổng Thống nước Mỹ như Tổng Thống Bill
Clinton, nhưng ông vẫn bị cám dỗ và tằng tịu với Monica ngay trong phủ tổng thống?
Nên thánh Luca kết thúc bài phúc âm tường thuật việc Chúa bị cám dỗ torng hoang
địa bằng câu “Sau hi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi để chờ dịp
khác!” Ma quỉ chưa chịu thua! Đây là cuộc chiến dai dẵng không ngưng nghỉ.
Những cám dỗ: biến đá thành bánh hay nhảy từ trên cao xuống không gảy
chân… đâu có gì xấu mà còn mang ích lợi thực tế, sao
Chúa không làm?
Đây là những điều xấu:
Bản chất sự việc xấu: Biến đá thành bánh hay nhảy từ trên cao xuống là những
thách thức để thi thố quyền bính. Chúa còn có thể biến đá thành con cái Abraham
huống chi thành bánh! Người tin Chúa còn có thể truyền lệnh cho cây cối dời xuống
biển mà mọc, huống chi Chúa. Nhưng quyền bính Chúa ban không để thi thố tranh
tài, nhưng để cho thấy vinh quang Chúa hay loan báo cho mọi người biết “thời giờ
đã diểm và Nước Thiên Chúa đã gần” (Matt.4,17; Luca 10,9) Nên khi Chúa làm phép
lạ chữa bệnh tật, Chúa không có ý thi thố quyền bính, nhưng để chữa bệnh,
để đẩy lui sự thống trị của tà thần trên bệnh nhân và để loan báo Tin Mừng Cứu
Độ đã đến và Chúa là Đấng Cứu Thế đang ở giữa con người.
Nghe theo ma quỉ là xấu: Ma quỉ theo nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa kẻ vu
khống (slanderer) hay người tố cáo (accuser). Ma quỉ là tà thần, là kẻ gian dối,
lọc lừa để hại người. Ma quỉ luôn xúi giục con người làm điều xấu,
ma quỉ giết chết chứ không có cứu độ. Làm theo ma quỉ là thực hiện mưu đồ xấu của
mà quỉ. Theo ma quỉ là thành kẻ thù của Chúa. Những định nghĩa về ma quỉ và những
diễn tả về hành vi ác xấu của ma quỉ được tìm thấy nhiều trong Sách Khải Huyền
của Thánh Gioan Tổng Đồ 12,9 hay 20,2 về con rồng đỏ rình nuốt trững con của
người đàn bà. Cũng có trong thư của Thánh Phaolô gửi Êphêsô 2,2 hay Thư Thứ II
của Thánh Phaolô gửi Corintô 4,4.
Giả như Chúa đã nghe theo ma quỉ thi thố quyền phép bằng
cách biến đá thành bánh ăn và bằng cách nhảy từ trên cao xuống mà không hề bị vấp
chân vào đá thì kết quả sẽ ra sao? Chắc chắn Chúa sẽ quì xuống thờ lạy ma quỉ để
được những của cải vật chất phù hoa trên trần thế. Đây là thất bại ê chề vì đảo
lộn trật tự căn bản: Chúa thờ lạy ma quỉ. Ma Quỉ lên làm Chúa, và Chúa thành nô
lệ cho ma quỉ. Hai lần đầu, biến đá thành bánh hay nhảy từ trên cao không có gì
xúc phạm đến bản tính Thiên Chúa, nhưng nó là đường dẫn đến thất bại sau cùng:
đánh mất bản thể Thiên Chúa.
Một
thanh niên trẻ tuổi nghe bạn bè xấu hút xì ke, một lần, hai lần rồi ba lần, rồi
sau cùng nghiện ngập. Nghiện ngập biến con người thành con vật, có thể làm bất
cứ chuyện gì để được hút: ăn trộm, ăn cắp và có khi thành ăn cướp hay giết người.
Người trong tình trạng nầy gọi là mất nhân tính. Không còn tính người. Con người
được sinh ra có lý trí phải làm chủ bản năng. Đàng nầy biến thành con vật, đi
làm nô lệ cho bản năng. Nên tu đức bảo: Những tội nhẹ đưa dần đến tội trọng là
vậy.
Phúc Âm diễn tả “quỉ xuất hiện cám dỗ, hay quỉ nói với Người hay quỉ trích
dẫn Kinh Thánh… Nếu Ông là Con Thiên Chúa…”, xem chừng quỉ hiện hình và mặt đối
mặt với Chúa trong sa mạc.
Chắc
một điều là quỉ không hiện hình như chúng ta có trong trí về quỉ:
Một tên thân thể trần trụi, đen thủi đen thui như than, có hai sừng nhọn hoắc,
rồi còn thêm cái đuôi phe phẩy sau đít, mặt mày nham nhở xấu xí… Quỉ là thần,
làm sao có hình để hiện. Hơn nữa nếu quỉ hiện hình ghê tỡm như vậy thì làm sao
cám dỗ được ai? Như vậy quỉ cám dỗ Chúa cách nào?
Satan khuấy động bản năng tự nhiên nơi con người Chúa Giêsu.
Đói sinh thèm ăn hay cần ăn.
Cần ăn hay thèm ăn sinh sáng kiến kiếm ăn.
Phương thế kiếm ăn được dự định thực hiện bằng chuyện dùng thần quyền: Biến
đá thành bánh.
Cám dỗ thứ hai: Chúa biết mình có khả năng “gieo mình xuống đất từ
nơi cao mà không vấp chân vào đá” Satan khuấy động việc thi thố khả năng
“làm xiếc” của Chúa Giêsu.
Chúa bị khuấy động muốn thi thố khả năng, làm cho
Satan lé mắt, nễ sợ một phen.
Ai trong chúng ta cũng đã từng bị cám dỗ và cũng đã từng sa chước cám dỗ.
Chúng ta có thể nghiệm lại xem mình đã bị cám dỗ như thế nào và đã sa chước cám
dỗ ra sao? Chúng ta thường bị cám dỗ để nói xấu người khác. Người thứ ba đến gợi
lên cho chúng ta vài khuyến điểm của đối tượng và thêu dệt một viễn ảnh tốt
“giúp xây dựng nhau trong tình bạn!” Hay quá! Thực tế, chúng ta chưa có ý
và cũng chưa biết xây dựng trong tình bạn là như thế nào. Cái chúng ta biết là
khuyết điểm người khác. Rồi chúng ta chia sẻ những khuyết điểm nầy với người
chung quanh để gọi là giúp xây dựng nhau cho tốt hơn. Sau cùng, chuyện xây dựng
không thấy, nhưng ai cũng biết người kia có những khuyết điểm do chúng ta cung
cấp.
Chắc chắn quỉ không có hiện hình. Nhưng quỉ dùng thủ đoạn để khơi dậy bản
năng hướng chìu về tội của chúng ta. Chúng ta gọi là bị cám dỗ và sa ngã.
Tôi cũng không chối bỏ những trường hợp đặc biệt như Thánh Gioan Maria Vianney,
Cha sở họ Ars ở Pháp. Quỉ đã ra tay mạnh để đuổi Ngài ra khỏi giáo xứ: như ném
Ngài xuống đất ban đêm và đốt giường ngủ của Ngài. Đó là những tấn cống từ bên
ngòai. Rất ít thấy! Đại đa số là khuấy động dục vọng, lòng ham muốn thấp hèn tự
tại nơi chúng ta. Vì thế có nhiều người bị mắng “con quỉ!” hay “thằng quỉ!” hay
“đồ quỉ” để cho thấy, hành động của những người kể trên do quỉ hướng dẫn. Chúa
cũng có lần mắng Phêrô “Satan hãy lui ra đàng sau Ta!” (Matt.16,23) Vì ý kiến của
Phêrô ngược lại ý Chúa.
III. Thực
hành P.Â.:
Đừng
biến đá thành bánh?
Sau bốn mươi ngày ăn chay cầu nguyện, Chúa thấy đói và cần ăn.
Phải chi có gì ăn ngay cho đỡ đói thì tốt quá! Có thể Chúa nghĩ vậy. Có gì dễ
cho bằng chỉ nói một câu làm cho đá thành bánh. Chuyện nhỏ và dễ ợt! Nhưng Chúa
không làm chuyện nhỏ và dễ ợt nầy. Vì đó là chuyện ma quỉ.
Người
ta nói chung quanh Quảng Trường Ba Đình ở Hà Nội có vài ngàn gái mãi dâm. Lý
do, họ muốn có tiền cho nhanh để chạy theo kịp mốt ăn chơi của thời văn minh. Họ
muốn có gì giúp gia đình ngay để cho bố mẹ đỡ vất vả. Nên họ đã biến đá thành
bánh. Chỉ cần một suất đi khách ba mươi phút là kiếm được khối tiền bằng người
lao động hai ngày. Ai trong chúng ta cũng cần những nhu cầu vật chất cần thiết
như nhà, xe và những nhu cầu lương thực hằng ngày. Ai trong chúng ta
cũng cần vài tuần lễ nghỉ hè chung với gia đình hàng năm. Thêm vào đó cũng cần
có một số tiền phụ trội để giúp gia đình hay người nghéo đói hay xây dựng một
căn nhà cho người bất hạnh ở Việt Nam. Toàn chuyện chính đáng, tốt đẹp và nên
làm. Nhưng làm sao để có tiền thỏa đáp cho những nhu cầu chính đáng nầy?
Có người đã chọn giải pháp cấp thời theo kiểu biến đá thành bánh nầy.
Họ đi trồng cỏ, họ đi buôn lậu, họ chứa dựa và tiêu thụ những hàng hóa ăn cắp.
Đá đã thành bánh! Tiền dư bạc thừa, giàu nứt khố đổ vách… và làm chuyện bác ái
giúp Việt Nam. Đó là chuyện của ma quỉ! Những người trên đã bị cám dỗ và đã sa
chước cám dỗ! Ma quỉ vẽ ra những công phúc nào là bác ái, nào là nhu cầu chính
đáng và chúng ta đã thua, đã biến đá thành bánh.
Cũng
có những linh mục đã nhận những chiếc bánh từ việc biến đá thành
bánh nầy. Người trồng cỏ, người buôn lậu, người khai thuế gian, người khai man
lãnh trợ cấp xã hội… đến xin Cha lễ tạ ơn Chúa với số tiền to lớn, để Chúa phù
hộ cho ăn nên làm ra. Linh mục nhận chiếc bánh được biến từ hòn đá bất chính một
cách tỉnh bơ, không thắc mắc. Xin lễ là chuyện thánh thiện, nhưng dùng tiền bất
chính mà xin lễ là chuyện ma quỉ. Nên nhớ, quỉ là tên tráo trở, hay đánh lận
con đen, hay dùng sự cao đẹp thánh thiện để biến chúng ta thành nô lệ cho bản
năng xấu xa. Chúa không cần của lễ bất chính. Linh mục cũng không được phép im
lặng để ăn những chiếc bánh từ những hòn đá bất chính nầy. Linh mục hơn ai hết
được kêu gọi nên công chính.
Thách thức và thi thố
Ma quỉ thách thức Chúa để thi thố quyền năng Thiên Chúa:
“Nếu Ông là con Thiên Chúa, thì biến đá thành bánh mà ăn”.
“Nếu Ông là con Thiên Chúa thì đứng đây mà gieo mình xuống đi. Vì có lời chép
…” Như đã nói, biến đá thành bánh! Chuyện nhỏ, Chúa làm cái một! Gieo
mình xuống từ nơi cao! Not a problem! Chúa là Con Thiên Chúa, bảo một
tiếng, Lazarô chết bốn ngày chôn trong mồ còn sống lại đi ra khỏi mồ trên
tay còn vải liệm. Nhưng Chúa không làm, không vì sợ thất bại biến đá
không thành bánh hay nhảy xuống sẽ chết hay bị thương tật? Không!
Chúa không làm vì Chúa đến để làm theo Thánh Ý Thiên Chúa Cha,
chứ không làm theo sự xúi giục của tà thần.
Khi
còn nhỏ tôi hay đánh lộn và hay ăn thua đủ với những bạn bè trang lứa trong họ
đạo. Đánh lộn thường do những chuyện trẻ con như giành sân chơi hay giành trái
banh để đá. Nhưng nhiều khi đánh lộn vì bị người khác thách thức: Thằng đó nó
chưởi ba mầy, thằng kia nó ăn hiếp chị mầy… thế là hai thằng bé đánh nhau nhiều
khi sưng cả mặt mày, trầy da chảy máu. Thường tôi thắng, nhờ to con một chút,
tôi đè được đối thủ xuống. Nhưng thật sự ai là người thắng cuộc?
Không phải tôi chút nào! Nhưng là người thách thức để tôi gây chiến, đánh nhau
và thi thố sức lực của mình.
Lm
Phêrô Trần Thế Tuyên
Những
cuộc cám dỗ bất tận – R. Veritas.
(Trích
từ ‘Sống Tin Mừng’)
Khởi
đầu công cuộc cứu chuộc, Chúa Giêsu đã trải qua biến cố chịu thử thách, chịu ma
quỷ cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng. Những cám dỗ của Chúa Giêsu xét cho cùng
cũng có thể rút về hai điểm chính, là cám dỗ về thực thể mình là ai? Đến sống
trên trần gian này để làm gì?
Ma
quỷ cám dỗ Chúa Giêsu về thực thể mình là Con Thiên Chúa: "Nếu ông là Con
Thiên Chúa, thì hãy biến những hòn đá này thành thức ăn".
Thử
thách đòi có dấu lạ để trắc nghiệm xem mình có thật là Con Thiên Chúa hay
không. Ma quỷ cám dỗ Chúa nghi ngờ thay đổi sứ mạng đã lãnh nhận từ Thiên Chúa
Cha: "Nếu ông sấp mình thờ lạy ta, thì ta sẽ cho ông tất cả".
Sứ
mạng của Chúa Giêsu là con người trở về cùng Thiên Chúa, chứ đâu phải con người
làm nô lệ cho tội lỗi để củng cố vinh quang cho riêng mình Ngài. Chúa Giêsu nhắc
lại: "Con chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi".
Sống
vâng phục Thiên Chúa, thi hành thánh ý Ngài đã là sứ mạng căn bản nhất của con
người, của mỗi người chúng ta đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và đã
được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc để trở thành con cái Thiên Chúa, được chia sẻ sự
sống Thần Linh của Thiên Chúa. Chúng ta được Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta con đường
để chiến thắng những cám dỗ, và chúng ta không thể nào tránh khỏi con đường này
trong cuộc sống của mình, đó là con đường vâng phục, lắng nghe Lời Chúa.
Hôm
nay chúng ta bắt đầu Mùa Chay, và chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, chúng ta dốc quyết
một điều cụ thể cho đời sống của mình trong Mùa Chay này. Mỗi người chúng ta
hãy nhìn về cuộc sống của mình, xem mình đã có ý thức về thực thể mình là ai và
xác tín mình là con của Thiên Chúa, đã được Chúa Giêsu cứu chuộc hay không? Có
ý thức rõ ràng là sứ mạng của mình trên trần gian này là sống vâng phục Thiên
Chúa, sống với Thiên Chúa không?
Chúng
ta hãy dốc quyết một cách cụ thể trong Mùa Chay này, đọc Lời Chúa, ít ra không
đọc hàng ngày thì mỗi tuần một lần để cho Lời Chúa chỉ dẫn cuộc sống chúng ta,
nhắc cho chúng ta luôn luôn nhớ mình là con cái Thiên Chúa và sống trên trần
gian này bằng cuộc sống vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Lectio Divina: Chúa Nhật I Mùa Chay (A)
Chúa Nhật, 9 Tháng 3,
2014
Cuộc
đối mặt của Chúa Giêsu với ma quỷ trong sa mạc
Những
cám dỗ trong sa mạc của cuộc đời
Mt
4:1-11
1. Lời
nguyện mở đầu
Lạy
Chúa Giêsu, xin hãy ban Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với
cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường E-mau. Trong ánh
sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá
ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết
của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy
vọng đã trở nên nguồn gốc của sự sống và sự sống lại.
Xin Chúa hãy tạo ra trong chúng con một không gian thinh lặng để
chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh,
trong các sự kiện và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo
khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để cho chúng con,
cũng giống như hai môn đệ từ E-mau, được biết đến sức mạnh sự phục sinh của
Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng
con như nguồn gốc của tình anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin
vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha
và xin gửi Chúa Thánh Thần đến với chúng con. Amen.
2.
Bài Đọc
a) Chìa
khóa dẫn đến bài đọc:
Chúng
ta hãy cùng đọc bài Tin Mừng mô tả những cám dỗ của Chúa Giêsu, những cám dỗ đó
cũng là cám dỗ của tất cả loài người. Trong khi đọc bài Tin Mừng
này, chúng ta nên chú ý đến điều sau đây: cám dỗ là gì, cám dỗ xảy
ra ở đâu, và Chúa Giêsu đã đối phó với chúng ra sao?
b) Phân
đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mt
4:1-2: Tình huống ở đâu và từ đâu sự cám dỗ nảy sinh: sa
mạc, thánh thần, ăn chay và đói
Mt
4:3-4: Sự cám dỗ liên quan đến thức
ăn
Mt
4:5-7: Sự cám dỗ liên quan đến danh vọng
Mt
4:8-11: Sự cám dỗ liên quan đến quyền lực
c) Phúc
Âm:
1-2: Khi
ấy Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám
dỗ. Khi Người đã nhịn bốn mươi đêm ngày, Người cảm thấy đói.
3-4: Và
tên cám dỗ đến gần và nói với Người rằng: “Nếu ông là Con Thiên
Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh”. Nhưng Chúa Giêsu
đáp lại: “Có lời chép rằng: ‘Người ta sống không
nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.’”
5-7: Bấy
giờ ma quỷ đưa Người lên thành thánh, và đặt Người trên góc tường đền thờ rồi
nói với Người rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống
đi; vì có lời chép rằng: ‘Ngài đã ra lệnh cho các thiên thần đến
với ông, và chư vị đó sẽ nâng đỡ ông trên tay, để ông khỏi vấp chân vào đá.’” Chúa
Giêsu đáp: “Cũng có lời chép rằng: ‘Ngươi đừng thử
thách Chúa, là Thiên Chúa ngươi.’”
8-11: Quỷ
lại đưa Người lên núi rất cao; và chỉ cho Người xem thấy mọi nước thế gian và
vinh quang của những nước đó, rồi nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho
ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi.” Bấy
giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: “Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có
lời đã chép: ‘Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ
phụng sự một mình Ngài.’” Bấy giờ ma quỷ bỏ Người. Và
các thiên thần tiến lại, hầu hạ Người.
3. Giây
phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời
của Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một
vài câu hỏi gợi ý
Để giúp
chúng ta suy gẫm và cầu nguyện.
a) Cám
dỗ là gì? Sự liên hệ giữa Chúa Thánh Thần, sa mạc, nhịn ăn và cơn
đói và sự cám dỗ của Chúa Giêsu là gì?
b) Ngày
nay chữ cám dỗ gợi cho chúng ta điều gì? Nó ảnh
hưởng đến tôi trong cuộc sống hằng ngày như thế nào?
c) Tên
cám dỗ hoặc Satan có sẽ làm tôi lìa xa hay đi chệch đường của Thiên Chúa
không? Có thể nào tôi đã trở thành Satan cho ai đó, giống như Phêrô
đã là Satan cám dỗ Chúa Giêsu không?
d) Chúa
Thánh Thần dẫn Chúa Giêsu vào trong sa mạc để bị cám dỗ bởi ma
quỷ. Điều này nhắc nhớ lại những cám dỗ của dân Do Thái trong sa mạc
sau khi vượt thoát khỏi đất Ai Cập. Thánh sử Mátthêu muốn đề nghị
điều gì và giảng dạy điều gì qua lời nhắc nhở này về những cám dỗ của người ta
trong sa mạc này?
e) Ma
quỷ dùng Kinh Thánh để cám dỗ Chúa Giêsu. Chúa Giêsu dùng Kinh Thánh
để vượt qua sự cám dỗ! Kinh Thánh có thể nào được xử dụng cho tất cả mọi
việc không? Tôi đã xử dụng Kinh Thánh như thế nào và cho mục đích
gì?
f) Cám
dỗ của thức ăn. Làm thế nào chúng ta có thể nói về Thiên Chúa cho
những người đã có tất cả những gì họ cần? Làm thế nào chúng ta có
thể nói về Thiên Chúa cho những ai đang đói khát?
g) Cám
dỗ liên quan đến thanh thế. Thanh thế từ kiến thức, từ tiền bạc, từ
tư cách đạo đức, từ dáng vẻ bề ngoài, từ danh vọng, từ danh
dự. Những điều này có đang hiện hữu trong đời sống của tôi không?
h) Cám
dỗ liên quan đến quyền lực. Bất cứ nơi đâu có hai người gặp gỡ, một
mối quan hệ của quyền lực sẽ đến hiện diện. Tôi sẽ xử dụng quyền lực
mà tôi có như thế nào: trong gia đình tôi, trong cộng đoàn, trong xã
hội, trong khu xóm tôi? Tôi có sẽ nhượng bộ cho sự cám dỗ không?
5. Ý
chính của bài đọc
Dành
cho những ai muốn đào sâu vào chủ đề
= Chúa
Giêsu đã bị cám dỗ. Thánh Sử Mátthêu làm cho sự cám dỗ trở nên dễ
hiểu: cám dỗ của bánh, cám dỗ của danh vọng, cám dỗ của
quyền lực. Đây là những hình thức khác nhau của niềm hy vọng về Đấng
Cứu Thế mà khi ấy có trong dân chúng. Một Đấng Cứu Thế vinh quang,
giống như một ông Môisen mới, sẽ nuôi sống người ta trong sa mạc: “khiến
những hòn đá này biến thành bánh!” Đấng Cứu Thế vô danh sẽ tự
đặt mình trên tất cả bằng một dấu hiệu ngoạn mục trong Đền Thờ: “gieo
mình xuống từ đây!” Đấng Cứu Thế yêu nước sẽ đến để thống trị
thế giới: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó!”
= Trong
Cựu Ước, những cám dỗ giống nhau đã làm cho người ta sa ngã trong sa mạc sau
khi vượt thoát khỏi Ai Cập (Đnl 6:3; 6:16; 6:13). Chúa Giêsu nhắc
lại lịch sử. Người chống lại những cám dỗ và ngăn cản chúng làm hỏng
kế hoạch của Thiên Chúa để làm cho nó phù hợp với các ích lợi cho loài người lúc
bấy giờ. Cám dỗ hay Satan là bất cứ điều gì khiến cho chúng ta đi chệch
khỏi kế hoạch của Thiên Chúa. Thánh Phêrô đã là Satan của
Chúa Giêsu (Mt 16:23).
= Cám dỗ
luôn hiện diện trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Nó đã cùng đi với
Người từ lúc đầu cho tới cuối, từ phép rửa của Người cho đến khi Người chết
trên thập giá. Bởi vì, khi việc công bố về Tin Mừng Nước Trời càng
lan truyền trong dân gian, thì áp lực trên Chúa Giêsu càng nặng nề để Người
phải thích ứng với những mong đợi và kỳ vọng về Đấng Cứu Thế của dân chúng để
là một Đấng Cứu Thế được kỳ vọng và mong đợi bởi những người
khác: “một vị cứu thế dân tộc và vinh quang”, “một vị vua cứu thế”,
“một vị thượng tế cứu thế”, “một vị phán quan cứu thế”, “một chiến sĩ cứu thế”,
“một vị cứu thế luật sĩ”. Thư gửi cho các tín hữu Do Thái đã
viết: “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện giống như chúng
ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4:15).
= Nhưng
sự cám dỗ không bao giờ thành công trong việc khiến cho Chúa Giêsu đi sai lạc
khỏi sứ vụ của Người. Người tiếp tục vững chắc tiến bước trên cuộc
hành trình của Người là “Đấng Cứu Thế Tôi Tá”, như đã được công bố
bởi ngôn sứ Isaia và được trông đợi, nhất là bởi những kẻ nghèo hèn. Trong
việc này, Chúa Giêsu đã không e ngại gây xung đột với những kẻ cầm quyền và với
những ai thân cận nhất với Người. Tất cả những ai cố gắng để
khiến Người đi lệch khỏi con đường của Người đều đã nhận được những câu trả lời
gay gắt và các phản ứng bất ngờ:
* Phêrô đã
cố gắng lôi kéo Người rời xa khỏi thập giá: “Xin Thiên Chúa thương
đừng bao giờ để cho việc này xảy ra!” (Mt 16:22). Và ông
đã nghe câu trả lời: “Satan, lui lại đằng sau Thầy!” (Mc
8:33).
* Những
thân nhân của Người, đã muốn đem Người về nhà. Họ nghĩ rằng Người đã mất
trí (Mc 3:21), nhưng họ đã được nghe những lời chói tai, dường như để tạo nên
một sự rạn nứt (Mc 3:33). Sau đó, khi Chúa Giêsu đã trở nên nổi
tiếng, họ đã muốn Người xuất hiện thường xuyên hơn nơi công cộng và tiếp tục ở
lại Giêrusalem, nơi thủ đô (Ga 7:3-4). Một lần nữa, câu trả lời của
Chúa Giêsu cho thấy có sự khác biệt căn bản giữa mục đích của Người và của họ
(Ga 7:6-7).
* Cha mẹ
Người đã phàn nàn: “Con ơn, sao con lại xử với cha mẹ
như vậy?” (Lc2:48). Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Tại sao
cha lại đi tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha
con sao?” (Lc 2:49).
* Các
tông đồ đã vui mừng về đời sống công khai của Chúa Giêsu đã được
đông đảo dân chúng chấp nhận và họ muốn Người hướng về phía dân
chúng. “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” (Mc 1:37). Nhưng họ
đã được nghe lời từ chối: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các
làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm
việc đó!" (Mc 1:38).
* Ông
Gioan Tẩy Giả đã muốn nài ép Chúa Giêsu trở nên “vị phán quan cứu thế
nghiêm khắc” (Lc 3:9; Mt 3:7-12; Mt 11:3). Đức Giêsu đã nhắc nhở
Gioan về những lời tiên tri và đòi hỏi ông so sánh chúng với sự
thật: “Các ông hãy về và thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy
tai nghe!” (Mt 11:4-6 và Is 29:18-19; 35:5-6; 61:1).
* Dân
chúng, khi họ trông thấy những phép lạ của việc hóa bánh ra
nhiều trong sa mạc, đã kết luận: “Đây chắc chắn chính là vị ngôn sứ,
Đấng phải đến thế gian!” (Ga 6:14). Họ hùa với nhau nài ép Chúa
Giêsu trở thành “vị vua cứu thế” (Ga 5:15), nhưng Chúa Giêsu đã lánh mặt
trên núi để được ở cùng với Chúa Cha trong lặng lẽ.
* Khi ở
trong tù và trong giờ của quyền lực tối tăm (Lc 22:53), sự cám dỗ của “vị chiến
sĩ cứu thế” lại xuất hiện. Nhưng Chúa Giêsu đã
nói: “Hãy xỏ gươm vào vỏ!” (Mt 26:52) và “Các con hãy cầu nguyện kẻo
sa chước cám dỗ” (Lc 22:40, 45).
= Đức
Giêsu hướng về Lời Thiên Chúa và ở đó đã tìm thấy ánh sáng và nguồn nuôi
dưỡng. Điều hơn hết cả là lời tiên tri về Người Tôi
Trung, được công bố bởi ngôn sứ Isaia (Is 42:1-9, 49:1-6 ; 50:3-9; 52:13-53,
12) đã thông tri và khuyến khích Người tiếp tục tiến tới. Tại phép
rửa ở sông Giođan và trong lúc biến hình, Người nhận lãnh sự xác nhận của Chúa
Cha về cuộc hành trình của Người, sứ vụ của Người. Tiếng phán ra từ
trời lặp lại những lời mà ngôn sứ Isaia đã nói về Người Tôi Trung của Đức Chúa
cho dân chúng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, hãy nghe lời Người!” (Mc
1:11; 9:6).
= Chúa
Giêsu xác định sứ vụ của Người với những lời này: “Con Người đến
không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm
giá chuộc muôn người!” (Mt 20:28; Mc 10:45). Bài học này
Người học được từ Mẹ của Người, khi bà đã
nói với thiên sứ: “Này tôi là tôi tá Đức Chúa Trời, xin Chúa cứ làm
cho tôi như lời sứ thần truyền!” (Lc 1:38). Bằng cách
hướng về Lời của Chúa để nhận thức sâu sắc hơn về sứ vụ của Người và đi tìm sức
mạnh trong lời cầu nguyện, Chúa Giêsu đã phải đối mặt với những cám
dỗ. Sống giữa những kẻ nghèo hèn, và trong sự hiệp nhất với
Chúa Cha, trung thành với cả hai, Người đã chống trả và theo đúng đường lối của Đấng
Cứu Thế Tôi Tá, đường lối của phục vụ tha nhân (Mt 20:28).
6.
Thánh Vịnh 91 (90)
Thiên
Chúa, Đấng Che Chở, sẽ ở cùng chúng ta trong những lúc cám dỗ
Hỡi ai nương tựa Đấng Tối
Cao
và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối,
hãy thưa với CHÚA rằng:
"Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn,
là đồn luỹ chở che, con tin tưởng vào Ngài."
Chính Chúa gìn giữ bạn
khỏi lưới kẻ thù giăng, khỏi tai ương tàn khốc.
Chúa phù trì che chở, dưới cánh Người, bạn có chỗ ẩn thân:
lòng Chúa tín trung là khiên che thuẫn đỡ.
Bạn không sợ cảnh hãi hùng đêm vắng
hay mũi tên bay giữa ban ngày,
cả dịch khí hoành hành trong đêm tối,
cả ôn thần sát hại lúc ban trưa.
Vì bạn có CHÚA làm nơi trú ẩn,
có Đấng Tối Cao làm chỗ nương thân.
Bạn sẽ không gặp điều ác hại,
và tai ương không bén mảng tới nhà,
bởi chưng Người truyền cho thiên sứ
giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường,
và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng
cho bạn khỏi vấp chân vào đá.
Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc,
đạp nát đầu sư tử khủng long.
Chúa phán: "Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát,
người nhận biết danh Ta sẽ được sức phù trì.
Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại
lúc ngặt nghèo có Ta ở kề bên.
Ta giải cứu và ban nhiều vinh dự,
cho sống lâu, tuổi thọ dư đầy
và hưởng ơn cứu độ Ta ban."
7. Lời nguyện kết
và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối,
hãy thưa với CHÚA rằng:
"Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn,
là đồn luỹ chở che, con tin tưởng vào Ngài."
Chính Chúa gìn giữ bạn
khỏi lưới kẻ thù giăng, khỏi tai ương tàn khốc.
Chúa phù trì che chở, dưới cánh Người, bạn có chỗ ẩn thân:
lòng Chúa tín trung là khiên che thuẫn đỡ.
Bạn không sợ cảnh hãi hùng đêm vắng
hay mũi tên bay giữa ban ngày,
cả dịch khí hoành hành trong đêm tối,
cả ôn thần sát hại lúc ban trưa.
Vì bạn có CHÚA làm nơi trú ẩn,
có Đấng Tối Cao làm chỗ nương thân.
Bạn sẽ không gặp điều ác hại,
và tai ương không bén mảng tới nhà,
bởi chưng Người truyền cho thiên sứ
giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường,
và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng
cho bạn khỏi vấp chân vào đá.
Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc,
đạp nát đầu sư tử khủng long.
Chúa phán: "Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát,
người nhận biết danh Ta sẽ được sức phù trì.
Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại
lúc ngặt nghèo có Ta ở kề bên.
Ta giải cứu và ban nhiều vinh dự,
cho sống lâu, tuổi thọ dư đầy
và hưởng ơn cứu độ Ta ban."
7. Lời nguyện kết
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa vì những Lời của Chúa đã trao ban để giúp
chúng con có thể hiểu cặn kẽ hơn Thánh ý của Chúa Cha. Nguyện xin Chúa
Thánh Thần soi sáng cho những việc chúng con đang làm và ban cho chúng con sức
mạnh để chúng con có thể thực hành những Lời Chúa đã mặc khải cho chúng
con. Chúng con nguyện xin được giống như Đức Maria, mẹ Người, không những
chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị
cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn
đời. Amen.
. Cám dỗ tại hoang địa –
Lm FX. Vũ Phan Long
1.-
Ngữ cảnh
Đoạn
văn này nằm trong Phần Mở của Tin Mừng Mt, mà chúng ta có thể xác định vị trí
theo lược đồ sau đây:
A
= Lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả và câu trích Is 40,3 (3,1-4)
B
= Gioan và Đức Giêsu: cuộc đối đầu giữa các niềm hy vọng Đấng Mêsia (3,5-15)
C
= Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha đăng quang Mêsia, với câu nhắc đến Is 42,1
(3,16-17)
B’=
Đức Giêsu và ma quỷ: Loại trừ niềm hy vọng Đấng Mêsia trần tục (4,1-11)
A’=
Lời rao giảng của Đức Giêsu và câu trích Is 8,23–9,1 (4,12-17). Kết luận và
chuyển mạch (4,18-25).
Trong
phân đoạn này, tác giả Mt đã vận dụng các đoạn Cựu Ước mà ta có thể thấy qua bảng
đối chiếu sau:
Mt
4,1 - Đnl 8,2-3
Mt
4,2 - Xh 34,28; x. Đnl 9,9
Mt
4,4 - Đnl 8,3
Mt
4,6 - Tv 91,11-12 (LXX)
Mt
4,7 - Đnl 6,16
Mt
4,8 - Đnl 34,1
Mt
4,10 - Đnl 6,13
Mt
4,11 - Xh 11,14; x. Đnl 32,11; Tv 91,10-11
2.-
Bố cục
Bản
văn có thể chia thành năm phần:
1)
Mở (4,1-2);
2)
Cám dỗ thứ nhất (4,3-4);
3)
Cám dỗ thứ hai (4,5-7);
4)
Cám dỗ thứ ba (4,8-10);
5)
Kết (4,11).
3.-
Vài điểm chú giải
- Thần Khí dẫn vào hoang địa (1): Chính là
Thần Khí đã xuống trên Đức Giêsu tại sông Giođan nay dẫn (anagô) Người vào
hoang địa.
- hoang địa (1): Đây là một đề tài quan trọng của Kinh
Thánh, vì hoang địa gây ảnh hưởng trong suốt lịch sử Dân Thiên Chúa. Lịch sử
này đã ghi lại hai kỷ niệm có vẻ mâu thuẫn nhau, nhưng thật ra là hai mặt của
cùng một hoàn cảnh. (1) Thời gian ở trong hoang địa trước tiên được trình bày
như là thời kỳ sống lý tưởng của Dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Trong thời kỳ
này, lý tưởng tôn giáo của họ phát triển phong phú và họ sống lý tưởng này ở mức
hoàn hảo. (2) Thời kỳ này cũng còn được coi như một thử thách, thậm chí một
hình phạt dành cho tội lẩm bẩm kêu ca và bất phục tùng. Quả thật, hoang địa vừa
là nơi con người tách mình khỏi trần thế để được thanh luyện, vừa là nơi thử
thách.
- để chịu quỷ dữ cám dỗ (1): Đây là một sự chọn lựa
nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Tư cách Mêsia của Đức Giêsu cần được thử
thách. Và sự thử thách này là một chặng cần thiết trong ơn gọi của Đức
Giêsu, trong tư cách Israel mới.
- quỷ dữ (1): Từ ngữ Hy Lạp diabolos có nghĩa là “kẻ vu khống”, “kẻ
tố cáo” (động từ diaballô, “tố cáo”; “kết án”). Bản LXX đã dùng diabolos để dịch
từ Híp-ri satan (HL satanas). Trong Kinh Thánh, “quỷ” xuất hiện ra như là
kẻ tố cáo (x. Dcr 3,1-5; G 1–2; Tv 109,6), ông hoàng của thế gian (Ga 12,31;
14,30), tên cám dỗ (G 1,8-12; 2,1-6; 2 Sm 24,1tt; 1 Sb 21,1; Kn 2,24; 1 Tx 3,5;
1 Cr 7,5; 2 Cr 11,3-15; Rm 16,17-20…). Dù với tên gọi nào, “quỷ” cũng là một
“đối thủ” (nghĩa nguyên thủy của từ satan), một kẻ thù của Thiên Chúa và của
loài người, nghĩa là chống lại sự thiện. Xem trong Mt: 6,13; 8,28; 12,22;
12,24; 13,25; 16,23…
- Người ăn chay suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm (2): Con số
40 chỉ một thời gian khá dài và có sắc thái là một sự hoàn tất với kết quả tích
cực là giải phóng và xây dựng con người. So với Lc, Mt thêm “bốn mươi đêm” để
ám chỉ thời gian Đức Giêsu ở trong hoang địa tương đương với thời gian Môsê ăn
chay trên núi cao để rồi sau đó được Đức Chúa ban cho các điều khoản của Giao ước
(Xh 34,28; x. Xh 25,18). Nhưng cũng có thể Mt muốn ám chỉ đến Êlia nữa (x. 1 V
19,8: ăn chay trong hành trình tiến về núi Khôrép). Hai dung mạo vĩ đại này, đại
diện cho Lề Luật và các Ngôn sứ, sẽ tái xuất hiện trong cuộc Hiển Dung của Đức
Giêsu (cuộc Hiển Dung này chính là cuộc thần hiển. Sau đó sẽ có việc thiết lập
Giao Ước mới nhờ cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh của Đức Giêsu). Có lẽ Mt muốn nói rằng
việc Đức Giêsu ăn chay đã tóm kết cách nào đó kinh nghiệm của Môsê và Êlia,
cũng như các cám dỗ sẽ tóm kết lịch sử của Israel tại hoang địa.
- Nếu ông là Con Thiên Chúa (3): Cám dỗ
này do bởi quỷ và thử thách dưới chân thập giá do bởi người Do Thái (Mt 27,40)
song song với nhau: chúng nhắm đến tư cách Mêsia của Đức Giêsu. Đây cũng là một
lời thách thức Đức Giêsu làm lại các cử chỉ của Môsê, để chứng tỏ thời đại
thiên sai đã đến. Không có lời nhắc đến man-na, nhưng câu trả lời của Đức Giêsu
khiến nghĩ đến man-na.
- đã có lời chép rằng (4): Gegraptai là thì hoàn thành (perfect) ở
thái bị động của động từ graphô, “viết”. Thái bị động này thay tên Thiên Chúa,
nên có thể hiểu là “Thiên Chúa đã viết”.
- vinh hoa của các nước ấy (8): Doxa (HL), “vinh
quang”, đây là một từ ngữ Kinh Thánh để chỉ sự lộng lẫy huy hoàng hoặc giàu
sang, sung túc, được tỏ ra bên ngoài.
4.-
Ý nghĩa của bản văn
* Mở (1-2)
Bản
văn này được liên kết với bài tường thuật về phép Rửa. Tại sông Giođan, Thần
Khí Thiên Chúa đã được ban cho Đức Giêsu, nay cũng Thần Khí ấy lại dẫn Người
vào hoang địa. Chiều hướng của bản văn là: Bởi vì Đức Giêsu đến hoàn tất nỗi chờ
mong của dân Người, nhất thiết Người phải đảm nhận mọi chiều kích của lịch sử
dân Người: ở tại Ai Cập (2,13-15), đi qua sông Giođan (3,13-17), cám dỗ trong
hoang địa (4,1-11). Qua các cám dỗ, Đức Giêsu cho thấy Người chấp nhận trọn vẹn
thánh ý Chúa Cha; Người loại trừ mọi thứ cung cách Mêsia mà Thiên Chúa không muốn
(mà chính Gioan Tẩy Giả đã hình dung), để chấp nhận làm một Mêsia chịu đóng
đinh.
Tất
cả bài tường thuật về ăn chay và cám dỗ tập trung vào các biến cố của cuộc Xuất
Hành. Dân Israel cũng là “con yêu dấu của Thiên Chúa”, nhưng tất cả hành trình
trong hoang địa cho thấy họ đã là một đứa con nổi loạn và thất trung (x. Đnl
6,16; 17,2.7; ch. 32–34; Ds 14,22; các Tv: Tv 78,18-41; 81,11; 95,8; 96,6; các
ngôn sứ: Gr 7,22; Ed 20,5; Is 63,10. Xem các tác giả Tân Ước: Dt 3,16; Gđ 5).
Quả thật, ngôn ngữ của câu đầu đã khiến chúng ta nhớ đến Đnl 8,2 (LXX) và như
ám chỉ đến hoàn cảnh của Israel tại hoang địa: “… Thiên Chúa đã dẫn (êgagen;
Mt: an-ago) …, như vậy Người thử thách (ekpeirasê; Mt: peirasthênai)…”. Bản văn
Đnl nói rằng Thiên Chúa “thử thách” dân để “biết lòng dạ anh em, xem anh em có
giữ các mệnh lệnh của Người hay không”. Còn ở đây, trong bản văn Mt, “thử
thách” là để phá hỏng và kẻ “thử thách” là quỷ, chứ không phải là Thiên Chúa. Tại
hoang địa, Đức Giêsu vừa tóm kết kinh nghiệm của Môsê và Êlia, vừa tóm kết lịch
sử của dân Israel trong hoang địa.
Sức
con người có thể nhịn ăn nhịn uống được đến thế? Chắc chắn là có, như trường hợp
thánh Phanxicô Assisi sau này. Nhưng ở đây, tác giả còn muốn nói một điều khác:
cũng như trong trường hợp Môsê, ở đây chính Thiên Chúa nâng đỡ Đức Giêsu, vì
Người tin tưởng gắn bó với Thiên Chúa. Nếu như thế, cảm giác đói sau bốn mươi
ngày, chính là một thử thách: Phải chăng Thiên Chúa đã bỏ rơi Đức Giêsu? Cám dỗ
thứ nhất được tháp vào điểm này.
* Cám dỗ thứ nhất (3-4)
Trong
cám dỗ này, quỷ thách thức Đức Giêsu lặp lại các cử chỉ của Môsê, nhưng không
phải bằng cách làm mưa man-na, nhưng bằng cách rút bánh ra từ các tảng đá. Đây
cũng là một thách thức nhắm vào tư cách Mêsia của Đức Giêsu. Từ ngữ “nếu” nhằm
gieo một sự hoài nghi vào tâm trí Đức Giêsu (x. Mt 27,40). Trong cả hai trường
hợp, ở đây và trên thập giá, quỷ (ở đây; trên đồi Sọ: quỷ hiện thân nơi “những
người qua lại”) thúc đẩy Đức Giêsu sử dụng những quyền lực thiên sai để thoát
khỏi một hoàn cảnh nguy hiểm (đói ở hoang địa; chết trên thập giá).
Thiên
Chúa đã để cho Israel đi qua thử thách là cái đói, để kiểm chứng lòng tín thác
của họ (x. Đnl 8,2-3). Họ đã lẩm bẩm kêu ca, tiếc nuối Ai Cập. Đức Giêsu cũng cảm
thấy đói; Người có thể nghĩ rằng Thiên Chúa đã bỏ rơi mình. Quỷ gợi ý cho Người,
trong tư cách là “Con Thiên Chúa”, tin vào quyền năng làm phép lạ của mình, và
như thế là xúi giục Đức Giêsu nghi ngờ và bất phục tùng Thiên Chúa. Đức Giêsu dứt
khoát dựa vào Kinh Thánh (sách Đnl; gegraptai) để nói “không” với quỷ; Người tiếp
tục cậy dựa hoàn toàn vào Thiên Chúa (x. 27,43). Sách Khôn ngoan nói rằng: “Lời
Ngài mới giữ gìn chăm sóc những ai hằng tin tưởng vào Ngài” (Kn 16,26). Tin Mừng
Gioan cho thấy là lương thực mà Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, vẫn dùng chính là
thi hành ý muốn của Chúa Cha (x. Ga 4,34). Đấng Mêsia không có nhiệm vụ vun trồng
những ảo tưởng dễ dãi, nhưng thức tỉnh niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa.
* Cám dỗ thứ hai (5-7)
Sau
cám dỗ thứ nhất, Đức Giêsu đã náu mình vào trong sự che chở của Thiên Chúa. Với
câu Tv 91,11, quỷ đề nghị Người, vẫn trong tư cách “Con Thiên Chúa”, gieo mình
từ nóc Đền Thờ xuống đất: đây hẳn là đáp lại sự chờ đợi của dân chúng, vì họ được
loan báo là Đấng Mêsia sẽ xuất hiện trên núi Sion, cũng được đồng hóa với Đền
Thờ (các sách ngụy thư Ét-ra IV [13,34-37]; Khải huyền Barúc [40,12]). Dù sao
đây cũng vẫn là xúi Đức Giêsu vận dụng sự che chở của Thiên Chúa vào hướng xấu,
như Israel đã làm, khi đòi hỏi Thiên Chúa can thiệp (x. Xh 17,1-7; Ds 14,22;
Đnl 6,16; Tv 95,8-11). Đây chính là áp đặt ý muốn của con người cho Thiên Chúa.
Cùng một chiều hướng như thế, trong Mt, có các truyện các đối thủ Đức Giêsu xin
những dấu lạ từ trời (12,38-42) hoặc đề nghị Người xuống khỏi thập giá (27,49);
trong Lc, có giai thoại các môn đệ muốn xin lửa xuống thiêu hủy thành không hiếu
khách (Lc 9,56). Đức Giêsu vẫn dứt khoát trả lời “không”, bằng câu Đnl 6,16.
Người không muốn ép Thiên Chúa phải can thiệp khi mà Thiên Chúa không định như
thế; Người vẫn tiếp tục tín thác vào Thiên Chúa.
Chúng
ta ghi nhận trong hai cám dỗ đầu, quỷ quy về tư cách “Con Thiên Chúa”, như thế
là xác nhận lời công bố tại sông Giođan (x. 3,17).
* Cám dỗ thứ ba (8-10)
Cám
dỗ cuối cùng không còn chút che đậy nào nữa: quỷ đề nghị Đức Giêsu thờ phượng
nó. Cám dỗ này gồm tóm khát vọng cổ xưa nhất của Israel (sở hữu đất Canaan). Để
làm thế, hẳn là nó bày ra trong trí của Đức Giêsu tất cả quang cảnh các nước thế
gian, như xưa kia Môsê đứng trên đỉnh Nơvô mà nhìn vào Đất Hứa (x. Đnl 31,1-4)
và gợi ý cho Đức Giêsu một giải pháp: bái lạy nó. Đây là cám dỗ con bê vàng, muốn
tự tạo cho mình một thần linh mà mình có thể điều khiển. Đức Giêsu vẫn dứt
khoát nói “không”, bằng câu Đnl 6,13: Thiên Chúa không phải là một Đấng mà người
ta có thể mặc cả với; Ngài đòi hỏi tin tưởng và vâng phục vô điều kiện. Dĩ
nhiên, Đức Giêsu, Tôi Trung của Thiên Chúa, không từ bỏ kế hoạch chinh phục thế
giới, nhưng chinh phục bằng thập giá. Đất Hứa là lãnh địa bao la mà Người sẽ nhận
khi sống lại (x. 28,18: theo lời hứa ở Tv 2,6-8). Sau này, chúng ta thấy các
môn đệ Người không hiểu được chọn lựa này (Phêrô: Mt 16,23). Đức Giêsu sẽ chấp
nhận cái đói, các nỗi nhục nhã, những thất bại, cái chết, để chu toàn ý muốn của
Thiên Chúa.
*
Kết (11)
Câu
kết của bản văn là một ghi chú thần học hơn là một sứ điệp lịch sử. Sự thống trị
mà Đức Giêsu đã từ chối nay vẫn được ban cho Người. Trong tâm thức dân gian,
các thiên sứ là những tôi tớ của Thiên Chúa (x. Mt 16,27), bây giờ đến phục vụ
Đức Giêsu, lệ thuộc Người. Đức Giêsu không nhận một vương quyền trần thế, nhưng
chia sẻ chính quyền thống trị của Thiên Chúa.
Rõ
ràng Nước Trời đã đến gần loài người, bởi vì thiên triều đang vây quanh Người
Con yêu dấu của Thiên Chúa. Nhưng các thiên sứ chỉ can thiệp sau khi Đức Giêsu
đã chiến thắng cám dỗ. Sau này, khi Người đã thắng được cám dỗ muốn vận dụng
“hơn mười hai đạo binh thiên thần” (26,53) để tránh thoát thập giá, khi Người vẫn
phó thác cuộc đời vào tay Chúa Cha, các thiên sứ lại đến hầu hạ Người, qua việc
loan báo tin mừng Phục Sinh cho các môn đệ (x. 28,2-7).
+
Kết luận
Các
cám dỗ nhắm tấn công Đức Giêsu trong tư cách Mêsia và Người Con vâng phục và
trung thành của Thiên Chúa. Quỷ xúi Đức Giêsu lạm dụng lời quyền năng của Người,
rồi xúi Người ỷ lại vào quan hệ giữa Người với Thiên Chúa, và cuối cùng, xúi
Người bỏ đi lòng trung nghĩa với Thiên Chúa. Chiến thắng của Người rất quan trọng.
Nó xóa đi những bóng tối đã tích tụ lại trong lịch sử dân Thiên Chúa và nó cũng
gợi ra chiều hướng dấn thân phục vụ ơn cứu độ. Thay vì chọn làm một Mêsia-Phù
thủy hay một Mêsia-Thủ lãnh, Đức Giêsu chọn làm Mêsia-Tôi tớ khiêm nhường. Khi
đó, Người vẫn là Người Con vâng phục, và cũng là Israel chân chính và hoàn hảo.
5.-
Gợi ý suy niệm
1.
Trung thành đọc và suy gẫm Lời Chúa, chúng ta sẽ khám phá ra liên tục lòng nhân
ái của Thiên Chúa đối với chúng ta. Từ đó, chúng ta có thể yên tâm phó thác cuộc
sống cho Ngài, không phải tính toán để bảo vệ cuộc sống mình, để rồi rơi vào
các cám dỗ. Cám dỗ luôn luôn xoay quanh Lời Chúa, hoặc để vi phạm hoặc để lái Lời
Chúa khỏi ý nghĩa đúng đắn. Con rắn mưu mô trong St 3 đã bóp méo Lời Chúa: “Có
thật Thiên Chúa bảo: ‘Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn
không? … ‘Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái
cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra…” (St 3,1.5). Tên cám dỗ trong bài Tin Mừng Mt đã bảo
Đức Giêsu dùng Lời Chúa để biến đá thành bánh hoặc đã uốn nắn ý nghĩa của Thánh
vịnh để đưa Đức Giêsu đến chỗ thử thách Thiên Chúa. Đức Giêsu không áp đảo Lời
Chúa; Người vâng phục Lời Chúa, Người nhận Lời Chúa từ Thiên Chúa.
2.
Quỷ đã đề nghị cho Ađam trở thành Thiên Chúa (St 3,5). Nó cũng gợi ý cho Đức
Kitô sử dụng quyền lực thiên sai của mình như một đặc quyền hay như một vũ khí.
Nói cho cùng, tội lỗi luôn luôn là một ý chí hùng cường. Thế mà Thiên Chúa lại
cứu con người khỏi tội lỗi bằng sự yếu đuối của Đức Kitô. Muốn được Thiên Chúa
can thiệp tức khắc vào đời sống mình có nghĩa là nghi ngờ sự quan phòng thông
thường của Ngài, nghi ngờ quyền năng và lòng nhân lành của Ngài. Ai thử thách
Thiên Chúa, thì không có đức tin hoặc có một đức tin đang chao đảo, nên mới chờ
đợi các phép lạ.
3.
Các cám dỗ không chỉ là chuyện một ngày hay bốn mươi ngày, mà là cả đời Đức
Giêsu. Luôn luôn có những sức mạnh bên ngoài, như các môn đệ (Mt 16,22), các kẻ
thù (12,38; 27,41), và cả những khát vọng của bản thân Người (26,39; 27,46) tìm
cách đưa Người đi theo nẻo đường quỷ vạch ra cho Người. Người đã chọn, Người sẽ
phải liên tục chọn nói “không” với quỷ và thưa “xin vâng” với Chúa Cha (x. Dt
5,8).
4.
Đức Giêsu nói “không” với quỷ, nhưng cũng phải nói “không” với chính mình, bởi
vì con đường Người theo kềm hãm các khát vọng và những đòi hỏi của bản tính tự
nhiên. Các phản ứng của Người trước đau khổ, những tủi nhục, những thất bại,
thì cũng giống như mọi người. Người không thể phạm tội, nhưng Người có thể chọn
con đường chung của mọi người, là sự thỏa thuê. Vinh quang không phải là một tội,
mà còn là một quyền Người có thể dùng. Sự rút lui của quỷ chứng tỏ đây không những
là một chiến thắng của chủ trương Mêsia khiêm nhường và phục vụ như tôi tớ, mà
còn là một chiến thắng riêng của Đức Giêsu. Người đã không nhường bước cho một
nẻo đường tiện nghi thoải mái, đã không muốn hưởng trước một thành công; nhưng
Người đã tôn trọng con đường đã được chọn cho Người dù phải hy sinh, thiệt
thòi. Rời khỏi hoang địa, không những Người được thánh hiến mà còn đủ tư cách
Mêsia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét