23/03/2014
Chúa Nhật III Mùa
Chay Năm A
(phần I)
Bài
Ðọc I: Xh 17, 3-7
"Xin
cho chúng tôi nước để chúng tôi uống".
Trích
sách Xuất Hành.
Trong
những ngày ấy, dân chúng khát nước, nên phàn nàn với ông Môsê rằng: "Tại
sao ông dẫn dắt chúng tôi ra khỏi Ai-cập, để cho chúng tôi cùng con cái và đoàn
súc vật chúng tôi phải chết khát như vầy". Môsê kêu lên cùng Chúa rằng:
"Con sẽ phải làm gì cho dân này? Còn một chút nữa là họ ném đá con rồi".
Chúa liền phán bảo Môsê: "Ngươi hãy tiến lên, đi trước dân chúng và dẫn
các bậc kỳ lão Israel đi theo, tay ngươi cầm gậy mà ngươi đã dùng mà đánh trên
nước sông. Này đây, Ta sẽ đứng trước mặt ngươi, trên tảng đá Horeb, ngươi sẽ
đánh lên tảng đá, từ tảng đá nước sẽ chảy ra cho dân uống". Môsê làm các
điều nói trên trước mặt các bậc kỳ lão Israel. Ông đặt tên nơi đó là "Thử
Thách", vì con cái Israel đã phàn nàn và thách thức Chúa mà rằng:
"Chúa có ở với chúng tôi hay không?"
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9
Ðáp: Ước chi hôm
nay các bạn nghe tiếng Người: "Các ngươi đừng cứng lòng!" (c. 8)
Xướng:
1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy
ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người! -
Ðáp.
2)
Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo
thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là
đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.
3)
Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba,
như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta,
họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.
Bài
Ðọc II: Rm 5, 1-2. 5-8
"Lòng
mến Chúa đổ xuống lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng
ta".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh
em thân mến, khi được đức tin công chính hoá, chúng ta được hoà thuận với Chúa
nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Ðấng cho chúng ta nhờ đức tin mà tiến đến ân
sủng, đứng vững ở đó, và được hiển vinh trong niềm hy vọng vinh quang của con
cái Chúa. Nhưng cậy trông không làm hổ thẹn, vì lòng mến Chúa đổ vào lòng chúng
ta nhờ Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng ta. Ngay từ khi chúng ta còn yếu
hèn, Chúa Kitô theo kỳ hẹn mà chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết
thay cho người công chính, hoạ chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Nhưng
Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc
chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta.
Ðó
là lời Chúa.
Câu
Xướng Trước Phúc Âm: Ga 4, 42 và 15
Lạy
Chúa, Chúa thật là Ðấng cứu chuộc thế gian; xin ban cho con nước hằng sống, để
con không còn khát nữa.
Phúc
Âm: Ga 4, 5-42 (bài
dài)
"Mạch
nước vọt đến sự sống đời đời".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Chúa Giêsu tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp
đã cho con là Giuse, ở đó có giếng của Giacóp. Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi
nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu.
Một
người đàn bà xứ Samaria đến xách nước, Chúa Giêsu bảo: "Xin bà cho tôi uống
nước" (lúc ấy, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn). Người đàn bà Samaria
thưa lại: "Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là
người xứ Samaria?" (Vì người Do-thái không giao thiệp gì với người
Sa-maria).
Chúa
Giêsu đáp: "Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói
với bà: "Xin cho tôi uống nước", thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ
cho bà nước hằng sống".
Người
đàn bà nói: "Thưa Ngài, Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu, vậy
Ngài lấy đâu ra nước? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người
đã cho chúng tôi giếng này và chính người đã uống nước giếng này cũng như các
con cái và đoàn súc vật của người?"
Chúa
Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta
sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở
thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời". Người đàn bà thưa: "Thưa
Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách nước
nữa". Chúa Giêsu bảo: "Bà hãy đi gọi chồng bà rồi trở lại đây".
Người đàn bà đáp: "Tôi không có chồng". Chúa Giêsu nói tiếp: "Bà
nói "tôi không có chồng" là phải, vì bà có năm đời chồng rồi, và người
đàn ông đang chung sống với bà bây giờ không phải là chồng bà, bà đã nói đúng
đó".
Người
đàn bà nói: "Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri. Cha ông chúng
tôi đã thờ trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải thờ ở
Giêrusalem".
Chúa
Giêsu đáp: "Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa
Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ Ðấng mà các người
không biết, còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ từ dân Do-thái
mà đến. Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ
thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn thờ mà
Chúa Cha muốn. Thiên Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn thờ Người, phải tôn thờ
trong tinh thần và trong chân lý".
Người
đàn bà thưa: "Tôi biết Ðấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi
đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". Chúa Giêsu bảo: "Ðấng ấy
chính là Ta, là người đang nói với bà đây".
Vừa
lúc đó các môn đệ về tới. Các ông ngạc nhiên thấy Ngài nói truyện với một người
đàn bà. Nhưng không ai dám hỏi: "Thầy hỏi bà ta điều gì, hoặc: tại sao Thầy
nói truyện với người đó?" Bấy giờ người đàn bà để vò xuống, chạy về thành
bảo mọi người rằng: "Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi tất cả những
gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?" Dân chúng tuôn nhau ra khỏi
thành và đến cùng Ngài, trong khi các môn đệ giục Ngài mà rằng: "Xin mời
Thầy ăn". Nhưng Ngài đáp: "Thầy có của ăn mà các con không biết".
Môn đệ hỏi nhau: "Ai đã mang đến cho Thầy ăn rồi chăng?" Chúa Giêsu
nói: "Của Thầy ăn là làm theo ý Ðấng đã sai Thầy và chu toàn công việc
Ngài. Các con chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt đó ư? Nhưng Thầy bảo
các con hãy đưa mắt mà nhìn xem đồng lúa chín vàng đã đến lúc gặt. Người gặt
lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy kẻ gieo người gặt đều
vui mừng. Ðúng như câu tục ngữ: Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi
gặt những gì các con không vất vả làm ra; những kẻ khác đã khó nhọc, còn các
con thừa hưởng kết quả công lao của họ".
Một
số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng:
"Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm". Khi gặp Người, họ xin
Người ở lại với họ. Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời Người
giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà: "Giờ
đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã
được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế".
Ðó
là lời Chúa.
Hoặc
đọc bài vắn này: Ga 4, 5-15. 19b-26. 39a. 40-42
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Chúa Giêsu tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp
đã cho con là Giuse, ở đó có giếng của Giacóp. Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi
nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu.
Một
người đàn bà xứ Samaria đến xách nước, Chúa Giêsu bảo: "Xin bà cho tôi uống
nước" (lúc ấy, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn). Người đàn bà Samaria
thưa lại: "Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là
người xứ Samaria?" (vì người Do-thái không giao thiệp gì với người
Samaria).
Chúa
Giêsu đáp: "Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói
với bà: "Xin cho tôi uống nước", thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ
cho bà nước hằng sống".
Người
đàn bà nói: "Thưa Ngài, Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu, vậy
Ngài lấy đâu ra nước? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người
đã cho chúng tôi giếng này, và chính người đã uống nước giếng này cũng như các
con cái và đoàn súc vật của người?"
Chúa
Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta
sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở
thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời". Người đàn bà thưa: "Thưa
Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát, và khỏi phải đến đây xách nước
nữa".
Và
người đàn bà nói với Chúa Giêsu: "Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên
tri. Cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải
thờ ở Giêrusalem". Chúa Giêsu đáp: "Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ
người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem. Các
người thờ Ðấng mà các người không biết, còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết,
vì ơn cứu độ từ dân Do-thái mà đến. Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những
kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là
những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn. Thiên Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn
thờ Người, phải tôn thờ trong tinh thần và trong chân lý".
Người
đàn bà thưa: "Tôi biết Ðấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi
đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". Chúa Giêsu bảo: "Ðấng ấy
chính là Ta, là người đang nói với bà đây".
Một
số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng.
Khi gặp Người, họ xin Người ở lại với họ. Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì
nghe chính lời Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo
người đàn bà: "Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin,
nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng
Cứu Thế".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Chúng
ta vẫn còn khát, và khát nhiều?
Mùa
Chay muốn giúp đỡ chúng ta canh tân ơn gọi làm con Chúa và chuẩn bị các tân
tòng đón nhận ơn tái sinh. Phụng vụ hôm nay đã chọn các bài đọc để làm công việc
trên. Ðặc biệt bài sách Xuất hành và bài Tin Mừng đã trực tiếp gợi đến Nước Rửa
tội. Còn bài Thánh thư cũng phải hiểu theo Bí tích Thánh Tẩy. Thế nên Chúa nhật
này là Chúa nhật Nước. Và chúng ta phải suy nghĩ về Nước trong Cựu Ước nơi Tân
Ước và tại Giếng Rửa tội.
A.
Nước Trong Bài Sách Xuất Hành
Cựu
Ước có rất nhiều bản văn nói đến Nước. Và điều đó cũng không có chi lạ. Dân
Chúa đã từng sống lâu năm trong hoang địa; và ngay đất chảy sữa và mật mà Chúa
ban cho Dân cũng nằm trong vùng cát đá và khô cạn. Trong bối cảnh đó, Nước dễ
trở thành một chủ đề năng gặp trong suy tưởng. Ấy là chưa kể việc các dân tộc
chung quanh luôn có khuynh hướng thần hóa nước, coi mùa lụt mùa khô là những dịp
thần giận dỗi và tức bực. Các tác giả Thánh Kinh không bao giờ nghĩ như vậy và
cực lực bài xích khuynh hướng tà giáo. Nước luôn luôn chỉ là một tạo vật nằm
trong tay Chúa. Ðôi khi Người dùng Nước để đánh phạt hoặc cho Nước dâng thành hồng
thủy phủ lấp tất cả mặt địa cầu tội lỗi, hoặc không cho mưa rơi để dân tội lỗi
ăn năn thống hối. Nhưng thông thường hơn, Nước được coi như là nhân tố cứu sống.
Nước đã có mặt trong việc tạo dựng vũ trụ và loài người. Nước tưới vườn Êđen
thành địa đàng trần gian. Nước làm cho vạn vật sinh sôi nảy nở. Ðặc biệt, Nước
gợi lên Ơn Chúa cứu độ. Không những người công chính được sánh ví như cây mọc
bên suối nước, trổ sinh hoa quả đời sống tốt lành; mà nhất là nhờ Nước Biển Ðỏ
và Nước sống Yorđan dựng lên thành tường, Dân Chúa đã thoát ách nô lệ và đi vào
Hứa địa. Chúa lại hứa đến thời cứu thế, Nước sẽ chảy ra từ hông đền thờ mới làm
vạn vật và loài người sống lại trong ân sủng.
Tuy
nhiên chúng ta hãy dừng lại trong bài sách Xuất hành hôm nay. Tuy không phải là
bản văn Cựu Ước hay nhất nói về Nước, nhưng cũng là một trong vài ba đoạn quan
trọng hơn cả. Ngày ấy dân chúng khát nước. Họ đang ở giữa sa mạc, nên họ có càm
ràm, tưởng cũng dễ hiểu. Tuy nhiên thái độ của họ đã có một ý nghĩa khác. Họ
không khẩn nài cầu xin một ơn cần thiết. Ngược lại họ bực tức, trách móc vì đã
được giải phóng. Họ định ném đá Môsê, người đã lãnh đạo họ ra khỏi đất nô lệ. Họ
không còn biết Chúa có ở giữa họ nữa hay không? Thánh Kinh nói rõ: họ đã thử
thách Chúa ở nơi đó, điều mà Ðức Kitô, trong bài Tin Mừng Chúa nhật I Mùa Chay,
bảo không được phép làm. Nói cách khác, ở Massah và Mêribah, dân đã phạm tội,
đã mất đức tin, đã thất sủng với Chúa.
Người
đã xử thế nào? Giọng Người êm ái làm sao! Người dùng Môsê ban Nước cho Dân. Người
đứng ở núi Horeb bảo ông đập đá để Nước chảy ra cho Dân uống. Nhưng ở đây cũng
chú ý. Người bảo Môsê cầm cây gậy đã đập Nước Biển Ðỏ để nó rẽ ra cho Dân đi
qua, rồi sau khép lại giết hết quân quốc Aicập. Cây gậy đã giải thoát Dân nay lại
cứu sống Dân. Nước ở đá chảy ra để Dân uống không phải là không có tương quan
gì với Nước Biển Ðỏ đã cứu Dân, vì ít ra cây gậy kia cũng nhắc lại cho những
người uống nước hôm nay nhớ đến ngày Chúa đã giải thoát họ khỏi đất nô lệ. Vậy
nếu cuộc vượt qua Biển Ðỏ thường được dùng để nói về Ơn Nước Rửa tội trong mầu
nhiệm Vượt qua của Ðức Kitô, thì câu chuyện Môsê đập đá để có Nước chảy ra cho
Dân uống, cũng thích hợp để đưa tâm trí chúng ta nghĩ tới Ðức Yêsu Kitô là Môsê
mới sẽ ban Nước cứu sống và cứu độ cho những ai đến gần Người. Ðề tài này, bài
Tin Mừng hôm nay trình bày rất lợi khẩu trong câu chuyện Ðức Kitô với người phụ
nữ xứ Samari.
B.
Nước Trong Bài Tin Mừng
Ðức
Yêsu hôm ấy đi đường mệt. Vào lúc trưa Người đến ngồi nghỉ bên bờ giếng Yacob
trong khi các môn đệ đi mua đồ ăn. Một phụ nữ Samari đến kín nước. Người nói với
bà ta: "Cho tôi uống với". Một câu nói bất ngờ lọt tới tai người phụ
nữ, nhưng lại là một tia nước vọt ra từ lòng Ðức Yêsu để chảy thành suối lênh
láng, sẽ làm tươi mát tâm hồn rất nhiều người vào buổi trưa, tức là vào lúc
đang khát khao ơn cứu độ.
Quả
thật, từ câu nói trên, dần dần Ðức Kitô đưa người thiếu phụ từ hết ngạc nhiên
này đến ngạc nhiên khác, từ chỗ đầu tiên chỉ thấy người nói với mình là một người
đi đường (c.6), một người Dothái kỳ lạ dám tiếp xúc và xin nước một người đàn
bà Samari vốn kình địch với Dothái (c.9); đến chỗ phỏng chừng Người là Vị vượt
lên trên cả sự mâu thuẫn giữa Dothái và Samari, tức là vào bậc tổ phụ của cả
hai dân tộc ấy (c.12); rồi hơn nữa có lẽ Người là một tiên tri (c.19); và cuối
cùng là Ðấng Thiên Sai đến dạy dỗ loài người mọi sự (c.25). Mà tất cả những
khám phá phong phú ấy, người phụ nữ kia đã dần dần làm được nhờ lời xin một ngụm
nước và nhờ câu chuyện cứ tiếp diễn về đề tài Nước.
Không
phải nước uống thường, có giá trị như vậy đâu! Người phụ nữ thoạt nghe tưởng
người lữ hành kia nói đến nước giếng mà mình sắp múc. Nhưng Người thì ngay từ đầu
đã chỉ muốn nói đến Nước sinh sống. Nước ban sự sống mà chính Người đang có
(c.10). Nước ấy sẽ nên mạch suối trong người uống có nước vọt đến sự sống đời đời
(c.14); chứ không như nước tù trong giếng nước, uống vào chỉ khỏi khát trong chốc
lát.
Người
phụ nữ chắc phải ngơ ngác, chẳng hiểu nước sinh sống ấy là gì, nhưng bà cứ xin
Người ban cho mình thứ nước kỳ lạ đó. Và như vậy là cá đã cắn câu. Ðức Kitô chỉ
muốn bà thấy mình nghèo khó và cần đến Người. Người rót nước sinh sống của Người
vào lòng bà: hãy đi gọi chồng bà, rồi đến đây! Lời nói đánh trúng trái tim bà,
giải quyết vấn đề lòng thòng cho tới nay. Và được nhẹ nhõm lương tâm luân lý đạo
đức rồi, bà đặt vấn đề tôn giáo về tôn thờ chân thật. Và lại được giải đáp thỏa
đáng. Nước sinh sống của Chúa đã tháo gỡ tội lỗi và mê muội trong lòng bà, bởi
vì Nước của Người là Lời có sức mạnh thần linh, là giáo lý ban Thánh Thần, là mạc
khải cứu độ sẽ ban Thần Trí làm suối có nước vọt đến sự sống đời đời ở trong
lòng người tin yêu.
Người
phụ nữ Samari chưa nhận được đến mức độ đó. Tuy nhiên Lời Chúa đã gỡ rối và chiếu
soi tâm hồn bà. Bà thấy hạnh phúc rồi, nên lợi dụng lúc các môn đệ đi mua bán về,
bà thoăn thoắt bỏ đi quên cả vò nước; về làng chia sẻ nỗi mừng với mọi người.
Câu
chuyện còn tiếp diễn, nhưng chúng ta hãy dừng lại để thấy rõ Nước mà Ðức Kitô
ban cho người ta vượt xa hẳn Nước mà Môsê đã ban cho Dân Dothái. Một đàng chỉ
giải khát thân thể; còn đàng kia giải thoát chính tâm hồn. Nhưng Nước Rửa tội
còn quý hóa hơn cả thứ Nước mà Ðức Kitô vừa ban cho người phụ nữ. Người chỉ mới
ban cho bà ta một vài lời hằng sống; chứ như khi ban Nước Rửa tội cho Hội
Thánh, không những Người đã ban đức tin đầy đủ mà còn đổ xuống chính Thánh Thần
làm mạch suối có nước vọt đến sự sống đời đời. Và điều đó chúng ta có thể hiểu
qua bài Thánh Thư và câu chuyện tiếp nối ở trên.
C.
Nước Tại Giếng Rửa Tội
Mở
đầu bài thư, thánh Phaolô khẳng định chúng ta đã được nên công chính nhờ đức
tin... và hy vọng sẽ được thông phần vinh quang của Thiên Chúa... Hy vọng như vậy
sẽ không tủi hổ, vì lòng mến của Thiên Chúa đã được đổ xuống lòng ta nhờ bởi
Thánh Thần Người đã ban cho ta.
Phúc
chúng ta thật lớn. Và cho được như vậy, như thánh Phaolô khẳng định, Ðức Kitô
đã phải chết vì ta. Ðó cũng là điều dường như thánh Yoan muốn diễn tả trong phần
sau của bài Tin Mừng.
Các
môn đệ đi mua thức ăn về. Họ mời Chúa; nhưng Người nói: Người đã có một thức ăn
khác, là làm công việc Chúa Cha đã giao. Ðó là điều các môn đệ không biết, y
như Ðức Maria và thánh Yuse vào hồi Chúa lên 12 tuổi. Người đã làm việc với người
phụ nữ Samari. Người đã gieo thóc và sắp có kết quả rồi. Người đã vất vả đi
truyền giáo và sẽ chịu chết, để các Tông đồ được gặt hái kết quả sau này. Và để
làm chứng, thì kìa dân Sychar đang tuốn đến. Họ còn được nhiều ơn hơn người phụ
nữ kia nữa, vì Ðức Kitô đang đến gặp họ không phải chỉ là Tiên tri và Thiên
sai, mà còn là Cứu Thế, vì Người vừa nhắc đến mầu nhiệm Tử nạn.
Chúng
ta chính là dân Sychar này. Chúng ta đã được tiếp xúc với Ðấng Kitô tử nạn vì tội
thế gian. Không những Người đã ban Lời Chúa cho chúng ta, mà còn ban Thịt Máu
Người nữa. Nhờ cuộc Tử nạn trên Thập giá, cạnh sườn Người đã để Nước và Máu chảy
ra, là Nước Rửa tội trong mầu nhiệm Tử nạn. Nước này mới thật sự cứu độ và ban
Thánh Thần làm mạch suối có nước vọt đến sự sống đời đời trong tâm hồn tín hữu.
Chúa
bảo: Ai uống nước này không còn khát nữa. Chúng ta có giữ lời ấy không? Hay
chúng ta vẫn còn khát, và khát nhiều? Khát dục vọng, khát của cải, khát vinh dự,
khát đủ mọi sự thế gian đến nỗi nhiều lần càm ràm kêu trách và thử thách Chúa
như dân Dothái hồi ở Massah? Thiên Chúa cũng ban Ðức Kitô cho chúng ta trong
Thánh lễ này, để Người cầm gậy Thánh giá đập vào chính Thân thể Người, để Nước
chảy ra theo Máu để Thánh Thần được ban cho chúng ta nhờ Hy lễ đổ máu này. Xin
Thánh Thần tưới mát tâm hồn chúng ta, tiên diệt mọi dục vọng để chúng ta sống xứng
đáng với Tin Mừng cứu độ, tức là hân hoan ngay trong thử thách.
Chính
Chúa đã nhắn nhủ chúng ta khi nói với môn đệ: hãy ngước mắt lên và nhìn, đồng
lúa đã chín vàng chờ gặt! Ta sai các ngươi đi gặt điều các ngươi không vất vả
làm ra; có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các ngươi đã đến thừa hưởng công
lao của họ.
Lời
Chúa chắc chắn đúng ở bình diện Nước Trời. Ðức Kitô và bao thế hệ Tông đồ đã vất
vả làm công việc của người gieo. Công việc tông đồ của chúng ta hiện nay, dù có
vất vả đến đâu, cũng chỉ là áp dụng hiệu quả của mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh.
Nhưng
Lời Chúa thiết tưởng cũng đúng ở bình diện xã hội. Mọi người đã làm việc vì
ta... thì ta cũng phải sống cho mọi người.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật III Mùa
Chay,
Năm A
Bài đọc: Exo 17:3-7; Rom
5:1-2, 5-8; Jn 4:5-42 (4:5-15, 19b-26, 39a, 40-42).
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa kiên nhẫn
hoán cải tâm hồn con người.
Trong
hành trình đức tin, nhiều người nghĩ họ tin vào Thiên Chúa là do ý muốn và công
sức của họ; nhưng thực ra, Thiên Chúa luôn đi bước trước trong việc hoán cải
tâm hồn con người, Ngài cho họ cơ hội gặp gỡ, dùng Lời Chúa bên ngoài và thúc đẩy
của ơn thánh bên trong, để giúp họ nhận ra tình yêu Ngài dành cho họ, và họ tin
vào Ngài. Nếu Thiên Chúa không tỏ tình yêu trước, chẳng ai có thể tin vào Ngài
để được cứu độ.
Trong
3 tuần lễ liên tiếp của Chủ Nhật thứ ba, thứ tư, và thứ năm của Mùa Chay, Giáo
Hội muốn dùng 3 bài Phúc Âm của thánh Gioan, chương 4, 9, và 11, để giáo dục niềm
tin của các tân tòng. Mục đích là để giúp họ nhận ra 3 điều chính: Thứ nhất,
Thiên Chúa kiên nhẫn đi tìm họ để giúp họ tuyên xưng niềm tin vào Ngài qua nước
của bí-tích Rửa Tội qua câu truyện Chúa Giêsu hoán cải người phụ nữ xứ Samaria.
Thứ hai, sau khi họ đã trở thành tín hữu, Ngài sẽ tiếp tục giáo dục để họ nhận
ra những sự thật khác về Thiên Chúa và về cuộc đời, qua câu truyện Chúa Giêsu mở
mắt cho anh mù từ lúc mới sinh. Sau cùng, Ngài sẽ cho họ được sống lại từ cõi
chết như Ngài đã cho anh Lazarus đã chết 4 ngày được sống lại.
Các
bài đọc hôm nay muốn nêu bật sự kiên nhẫn và tình thương tha thứ của Thiên Chúa
trong việc hoán cải tâm hồn con người. Trong bài đọc I, khi dân chúng không có
nước để uống trong sa mạc, họ kêu trách Moses và đe dọa trở về đất nô lệ Ai-cập.
Thiên Chúa truyền lệnh cho Moses đập vào tảng đá ở núi Horeb khiến cho nước
trào ra cho dân chúng uống. Trong bài đọc II, thánh Phaolô xác quyết Thiên Chúa
vẫn thương con người ngay khi họ vẫn còn là tội nhân, Ngài đã ban cho con người
Đức Kitô để chịu chết và tha tội cho con người, để mở lối cho con người vào hưởng
mọi ân sủng, và để chỉ đường cho con người vào chốn trường sinh của Thiên Chúa.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu kiên nhẫn hướng dẫn người phụ nữ Samaria để chị nhận
ra và tin tưởng vào Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Sau khi được soi sáng, chị
trở thành nhà rao giảng Tin Mừng đầu tiên cho dân của chị, và chị đưa mọi người
đến với Chúa Giêsu để được Ngài hướng dẫn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
"Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?"
1.1/
Con người luôn kêu trách Thiên Chúa khi gặp trái ý: Hành trình của dân
Do-thái 40 năm trong sa mạc có thể được so sánh với hành trình của mỗi người
chúng ta trên đường tiến về quê trời. Thiên Chúa đã làm rất nhiều ơn lành cho
con người, nhưng họ không bao giờ thấy đủ. Khi dân Do-thái thấy không có nước uống
trong sa mạc, họ đã kêu trách ông Moses rằng: "Ông đưa chúng tôi ra khỏi
Ai-cập để làm gì? Có phải là để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của
chúng tôi bị chết khát hay không?" Ông Moses kêu lên cùng Đức Chúa:
"Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá
con!"
1.2/
Thiên Chúa luôn kiên nhẫn sửa dạy con người: Ngài vừa mới làm bao nhiêu phép
lạ trước mắt họ để đưa họ ra khỏi đất nô lệ của Ai-cập. Họ cần hiểu rằng: Nếu
Thiên Chúa đã đưa họ ra khỏi Ai-cập, Ngài cũng có uy quyền để cung cấp cho họ
những thứ cần thiết trên đường. Ngài đã cho họ có bánh ăn, manna, và giờ đây
Ngài cũng sắp cho họ có nước uống.
Manna
và nước uống cần thiết cho cuộc sống thể lý của con người; nhưng theo các thánh
giáo-phụ, đây chỉ là hình ảnh của thức ăn thiêng liêng mà Thiên Chúa sẽ ban cho
con người trong tương lai. Manna tượng trưng cho Mình (thịt) của Chúa Giêsu, và
nước uống tượng trưng cho Máu của Ngài. Tảng Đá đây chính là thân thể của Ngài,
và khi người lính cầm đòng đâm thâu cạnh sườn của Chúa Giêsu khi Ngài sinh thì
trên Thập Giá, tức thì Máu cùng Nước chảy ra.
Thịt
và Máu của Chúa Giêsu chính là lương thực thần thiêng mà Ngài ban cho con người
qua bí-tích Thánh Thể, để nuôi dưỡng và cung cấp sức mạnh cho con người đời
trên hành trình tiến về quê trời. Điều này đã được Gioan cắt nghĩa chi tiết
trong chương 6. Chúa Giêsu cắt nghĩa cho người phụ nữ Samaria trong bài Phúc Âm
của Gioan tuần này, khi Ngài nói: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống
nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người
ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” Chúng ta có thể hiểu Nước
chính là Máu của Chúa ban cho con người qua bí-tích Thánh Thể.
2/
Bài đọc II:
Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó
là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
2.1/
Những điều con người được lãnh nhận từ Đức Kitô: Theo thánh Phaolô, con người được
cứu độ là do hoàn toàn tình thương của Thiên Chúa, chứ không do bởi bất cứ một
việc lành nào con người làm. Trong trình thuật hôm nay, thánh Phaolô liệt kê 5
ơn lành con người được lãnh nhận từ Đức Kitô.
(1)
Được trở nên công chính:
Con người được trở nên công chính là do bởi việc đặt niềm tin nơi Đức Kitô. Lề
luật không có sức mạnh làm con người trở nên công chính.
(2)
Được bình an với Thiên Chúa nhờ hòa giải: Tội lỗi gây ra sự xáo trộn trong mối liên hệ giữa
con người với Thiên Chúa. Đức Kitô chịu chết để xóa tan tội lỗi cho con người,
và làm cho con người được hòa giải với Thiên Chúa.
(3)
Được hưởng muôn vàn ân sủng của Thiên Chúa: Cái chết của Đức Kitô mang lại cho con người muôn
vàn ân sủng của Thiên Chúa qua các bí-tích Ngài thiết lập, bắt đầu từ sự kiện
người lính cầm đòng đâm thâu cạnh sườn của Chúa Giêsu trên Thập Giá.
(4)
Được hy vọng hưởng vinh quang của Thiên Chúa: Một khi đã được tẩy sạch khỏi tội
lỗi và được thánh hóa bằng các ân sủng, con người trở thành những người con
thánh thiện, xứng đáng được chia sẻ vinh quang với Thiên Chúa trong Nước Trời.
(5)
Được sự hiện diện của Thánh Thần: Để giúp con người nhận ra những sự thật và tình yêu
của Thiên Chúa, Ngài ban cho chúng ta một Đấng Phù Trợ khác là Chúa Thánh Thần
sau khi Đức Kitô về trời.
2.2/
Thiên Chúa chứng tỏ tình thương của Ngài cho con người qua Đức Kitô: Để chứng minh Thiên
Chúa là người đi bước trước trong hành trình đức tin của con người, Phaolô đưa
ra hai bằng chứng rõ ràng:
(1)
Đức Kitô đã chết vì con người khi họ chưa biết Ngài: “Quả vậy, khi chúng
ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn,
Đức Kitô đã chết vì chúng ta.”
(2)
Đức Kitô đã chết vì con người khi họ còn là tội nhân: “Hầu như không ai
chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện
chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người
tội lỗi.”
3/
Phúc Âm:
“Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần
gian."
3.1/
Thiên Chúa đi tìm con người, bất kể hoàn cảnh và thời gian: Giờ thứ sáu của
Do-thái là mười hai giờ trưa của chúng ta. Giờ này đa số mọi người ở trong nhà
để ăn trưa và nghỉ ngơi. Chúa Giêsu chịu đựng nắng nôi, vất vả đi tìm chiên lạc
để dắt về cho Thiên Chúa. Để chinh phục người phụ nữ Samaria, trước hết Chúa
Giêsu phải vượt bức tường kỳ thị chủng tộc, vì người Do-thái không muốn có bất
cứ sự liên hệ gì với người Samaria, họ coi người Samaria như những Dân Ngoại. Một
bằng chứng cho sự kỳ thị này được tìm thấy trong Tin Mừng Lucas, khi dân
Samaria không chịu tiếp đón Chúa Giêsu, hai ông Giacôbê và Gioan xin Chúa Giêsu
để hai ông khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi dân thành đó (Lk 9:53-54). Kế đến,
Chúa Giêsu phải vượt bức tường xét đoán của các môn đệ khi Ngài nói chuyện với
một phụ nữ. Những điều này được bày tỏ qua câu hỏi ngạc nhiên của người phụ nữ
Samaria, sau khi Chúa Giêsu mở đầu cuộc đối thoại bằng việc xin nước uống:
"Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samaria, cho ông nước uống
sao?"
3.2/
Chúa Giêsu mặc khải về “Nước Hằng Sống:” Chúa Giêsu xin nước uống chỉ là để mở đầu câu truyện,
và để mặc khải cho người phụ nữ về một điều quan trọng của Thiên Chúa. Ngài trả
lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị:
"Cho tôi chút nước uống", thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho
chị nước hằng sống."
Chị
phụ nữ không nhận ra điều Chúa Giêsu muốn nói về “Nước Hằng Sống.” Chúa Giêsu
không dùng mạo từ để xác định nước mà chị phụ nữ đang nói tới. Chị tưởng Chúa
Giêsu muốn nói về “nước giếng,” với mạo từ xác định, nên chị ấy nói: "Thưa
ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng
lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này?
Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy."
Chúa
Giêsu phân biệt giữa “Nước Hằng Sống” và “nước này.” Ngài nói với chị: "Ai
uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa.
Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống
đời đời." Chúa Giêsu có thể muốn đề cập tới hai điều ở đây: Thứ nhất, Nước
Rửa Tội. Nước của bí-tích Rửa Tội sẽ tẩy trừ mọi tội lỗi của con người; không
những thế, nó còn ban cho con người mọi ân sủng cần thiết cho cuộc sống đời đời.
Thứ hai, Máu của Ngài trong bí-tích Thánh Thể sẽ nuôi dưỡng và thánh hóa con
người để họ trở nên những người xứng đáng lãnh nhận Nước Trời. Chương 6 của
Gioan sẽ dành đặc biệt để nói về Mình Thánh Chúa.
Chị
phụ nữ tuy không hiểu rõ Chúa Giêsu muốn nói gì, nhưng có lẽ vì muốn tránh mỏi
mệt mỗi ngày khi phải kín nước, nên xin Chúa Giêsu: "Thưa ông, xin ông cho
tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước."
3.3/
Chúa Giêsu mặc khải chính mình cho người phụ nữ: Để giúp chị tin vào Ngài, Chúa
Giêsu bày tỏ uy quyền của Ngài qua việc cho chị biết: Ngài đã nhìn thấu cuộc đời
của chị. Ngài bảo chị ấy: "Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây."
Người phụ nữ đáp: "Tôi không có chồng." Đức Giêsu bảo: "Chị nói:
"Tôi không có chồng" là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và người
hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng."
Thấy
người lạ nói “trúng tim đen” của mình, chị phụ nữ giật mình và tuyên xưng:
"Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ... Cha ông chúng tôi đã thờ
phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Jerusalem mới chính là nơi
phải thờ phượng Thiên Chúa."
Chúa
Giêsu mặc khải về sự thờ phượng thật trong thần khí và trong chân lý: Khi quốc
gia Do-thái bị tách làm hai dưới thời vua Jeroboam, nhà vua cho xây một đền thờ
tại Bethel, thuộc Samaria. Mục đích là để cho dân khỏi xuống Jerusalem để bị ảnh
hưởng bởi vua của miền Nam. Chúa Giêsu phán: "Này chị, hãy tin tôi: đã đến
giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại
Jerusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng
chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. Nhưng giờ đã đến - và
chính là lúc này đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa
Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người
như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng
trong thần khí và sự thật." Người phụ nữ thưa: "Tôi biết Đấng
Messiah, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng
tôi mọi sự." Chúa Giêsu mặc khải chính mình cho người phụ nữ: "Đấng ấy
chính là tôi, người đang nói với chị đây."
Hành
trình đức tin của người phụ nữ khởi hành từ chỗ nhìn Chúa Giêsu như một người
Do-thái thù nghịch, đến chỗ thú nhận “Ngài là một ngôn sứ.” Sau cùng đến chỗ
tin Ngài là Đấng Messiah, khi chị mời gọi mọi người đến với Chúa Giêsu: "Đến
mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải
là Đấng Kitô sao?"
3.4/
Tin Thiên Chúa là phải thi hành thánh ý của Ngài: Trong khi đó, các
môn đệ thưa với Người rằng: "Rabbi, xin mời Thầy dùng bữa." Người nói
với các ông: "Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết."
Các môn đệ mới hỏi nhau: "Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi
chăng?" Đức Giêsu nói với các ông: "Lương thực của Thầy là thi hành ý
muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.”
Các
môn đệ loay hoay lo lắng tìm của ăn phần xác, trong khi Chúa Giêsu vất vả tìm
kiếm lương thực phần linh hồn. Lương thực đó không gì khác hơn là làm theo
thánh ý Thiên Chúa, mà thánh ý Thiên Chúa là làm sao cho mọi người được cứu độ.
Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ thấy kết quả truyền giáo của Ngài: “Nào anh em chẳng
nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt
lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái! Ai gặt thì lãnh tiền
công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt
đều hớn hở vui mừng. Thật vậy, câu tục ngữ "kẻ này gieo, người kia gặt"
quả là đúng!” Đồng lúa đã chín vàng đây là dân thành Samaria, và chị phụ nữ có
thể được coi là nhà truyền giáo đầu tiên trong Tin Mừng Gioan.
3.5/
Niềm tin có được thực sự là do Thiên Chúa, con người chỉ là khí cụ Thiên Chúa
dùng để mời gọi người khác bắt đầu hành trình đức tin của họ. Khi nghe lời làm
chứng của người phụ nữ, có nhiều người Samaria trong thành đó đã tin vào Đức
Giêsu, và họ ra giếng gặp Ngài.
Vậy,
khi đến gặp Người, dân Samaria xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai
ngày. Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ:
"Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi
đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian."
Người
khác chỉ có thể dùng lời nói hay việc làm khơi dậy niềm tin trong con người
chúng ta. Để có thể sở hữu một niềm tin chắc chắn và một mối liên hệ mật thiết
với Thiên Chúa, chúng ta cần đích thân chạy đến với Ngài, và đào sâu mối liên hệ
với Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện không ngừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Không phải chúng ta tự ý đi tìm Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã đi bước trước để
chuẩn bị mọi sự cho chúng ta. Điều này chứng tỏ tình thương vô biên của Thiên
Chúa.
-
Tình thương của Thiên Chúa được biểu tỏ trọn vẹn và hoàn hảo qua Đức Kitô.
Chúng ta hãy chạy đến và đào sâu mối liên hệ với Ngài qua Lời Hằng Sống và các
bí-tích.
-
Con người có trí khôn và tự do. Chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu để hoán cải
con người bằng cách chỉ cho họ thấy tình thương tha thứ của Thiên Chúa, chứ
không bằng bất cứ một sự ép buộc nào.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
23/03/14 CHÚA NHẬT TUẦN 3 MC – A
Ga 4,5-42
Ga 4,5-42
DẪN NƯỚC VỀ LÀNG
Người phụ nữ để vò nước lại,
vào thành và nói với người ta :” Đến mà xem: có một người đã nói tôi tất cả những
gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao ?” Họ ra khỏi thành và đến gặp
Người ... . Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu vì lời
người phụ nữ làm chứng.
(Ga 4,28-30.39)
Suy niệm: Nhiều
thôn bản miền núi lắp đặt ống dẫn nước tự chảy từ khe suối về cho dân làng.
Người phụ nữ Samaria ra giếng múc nước và tại đó chị đã gặp và trao đổi với
Chúa Giêsu. Chị đã khám phá ra Ngài như nguồn suối nước hằng sống. Và suối nước
thiêng đó đã được chị dẫn về làng nên “có nhiều người Samari trong
thành đó đã tin vào Đức Giêsu và lời chị làm chứng.” Đừng quên người dẫn nước này là một phụ nữ đã
có năm đời chồng và đang sống ngoại hôn với người thứ sáu.
Mời Bạn: Ở
chỗ bạn nghe Lời Chúa, đó là giếng Giacob của mình, bạn hãy làm sao đem dòng
nước hằng sống Giêsu về làng xóm, gia đình mình như người phụ nữ kia.
Chia sẻ: Một
số kitô hữu đang sống trong hoàn cảnh cần đem Chúa cho người khác (con cái bỏ
đạo, người yêu muốn theo đạo, chung quanh toàn lương dân...) tôi có cách gì
giúp họ không?
Sống Lời Chúa: Tôi quan tâm tới những người không biết Chúa
sống quanh tôi. Tôi sống thế nào để họ nhận ra Chúa nơi tôi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nguồn nước nơi Chúa là nguồn sống luôn sẵn sàng
tuôn đổ đến mọi nơi. Xin cho con ý thức rằng Chúa dùng con như là một phương
tiện để giới thiệu Chúa cho mọi người chung quanh, không phải là để thêm gì cho
Chúa nhưng là vì phần vinh phúc của con và là phần rỗi của mọi linh hồn.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
23
THÁNG BA
Chúng
Tôi Rao Giảng Đức Kitô Chịu Đóng Đinh
Mùa
Chay, Giáo Hội không chỉ đào sâu luật luân lý của Thập Giới. Cùng với Thánh
Phao-lô, Giáo Hội còn rao giảng cho chúng ta “Đức Kitô chịu đóng đinh” trên Núi
Can-vê.
Thuở
xưa, người Do Thái đòi dấu lạ và người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan - như một điều
kiện để họ tin vào hành động cứu độ của Thiên Chúa (1Cr 1,22). Con người thời nay
cũng có thái độ tương tự như người Do Thái và người Hy Lạp thời các Tông Đồ.
Hay nói đúng hơn, đòi hỏi của con người thời nay còn xa hơn thế nữa. Đó đây đôi
khi chúng ta gặp phải những chỉ trích và chống đối đối với các huấn lệnh của
Thiên Chúa một cách phũ phàng hơn. Dù sao, Giáo Hội vẫn kiên trung với lời
tuyên bố của Tông Đồ Phao-lô: “Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh”
(1Cr 1,23).
Nơi
Đức Kitô, chúng ta tìm thấy câu trả lời cho mọi sự! Mọi chỉ trích và chống đối
nhắm vào các huấn lệnh của Thiên Chúa đều bị hóa giải khi chúng đối diện với một
Đức Kitô chịu đóng đinh. Thập Giá Can-vê “thì khôn ngoan hơn loài người” và “mạnh
mẽ hơn loài người” (1Cr 1,25).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 23-03
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY
Xh 17,3-7; Rm 5, 1-2.5-8; Ga 4, 5-42.
LỜI SUY NIỆM: “Ông là người Do-Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước
uống sao?”
Gioan tường thật câu chuyên Chúa Giêsu ngồi nơi giếng
Gia-cóp trò chuyện với người phị nữ người Sa-ma-ri. Cho chúng ta thấy được Chúa
đã phá bỏ rào cản giữa người Do-Thái và người Sa-ma-ri, đến nổi người phụ nữ
Sa-ma-ri cũng rất ngạc nhiên không những chỉ tiếp chuyện mà còn xin nước. Chúa
Giêsu đã lôi kéo được một người ngoại giáo tin vào Chúa mà còn được chính người
phụ nữ này đi loan báo cho nhiều người khác tìm đến với Chúa và đã tin Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Qua người phụ nữ người Sa-ma-ri, đã
làm cho nhiều người tin vào Chúa: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi
tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng Cứu Độ
trần gian” Xin ban cho gia đình chúng con luôn được làm cầu nối những người
chưa biết Chúa được gặp Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
23-03: Thánh TURIBIÔ MONGRÔVEJO
Giám
mục (1536 - 1606)
Có
những trẻ em như đã biết Chúa làm gì, trong khi những người khác lo tìm kiếm.
Những trẻ này biết an ủi và giúp đỡ người khác. Chẳng hạn dân Mayorga nước Tây
Ban Nha, ngày kia, được thấy một em bé đến bên một phụ nữ đang giận dữ. Bà này
mất một vật mà không mong tìm lại. Đứa trẻ nhã nhặn giải thích cho bà rằng: đừng
nên làm như vậy bởi vì điều đó làm phiền lòng Thiên Chúa. Đứa trẻ tốt lành và tế
nhị này tên là Turibiô, con thứ của lãnh chúa Mongrôvejô.
Ở
trường Valladolid rồi ở Salamanca, Ngài thường nhịn ăn để giúp đỡ người nghèo,
Ngài còn muốn thống hối thay cho các tội nhân đến nỗi Ngài bị buộc phải bỏ những
hy sinh. Người ta có thể tiên đoán là người sẽ thành một tông đồ bởi Ngài đã biết
sống đúng đắn.
Khi
đã lớn đủ, cùng với sự khôn ngoan, thông hiểu khá vững chãi, Ngài được vua
Philippê II đặt làm chánh án tòa án Granada. Khi địa phận Lima trống ngôi năm
1578, thật ngạc nhiên khi người được chỉ định là một giám mục lại là Turibinô một
giáo dân. Nghe tin này, Turibinô khóc ròng, Ngài quì dưới chân thánh giá viết
thư cho nhà vua, trong đó Ngài tự diễn tả như một kẻ thù tồi tệ của vua vì những
bất xứng của mình. Nhưng các lý lẽ ấy đã không lay chuyển được ai. Ngài thụ
phong linh mục rồi giám mục và nhậm địa phận năm 1581.
Địa
phận dành cho Turibiô có những khó khăn đến nỗi có thể ngăn chận Ngài lại nếu
Ngài không phải là một vị thánh. Địa phận có chu vi là sáu trăm dặm, gồm nhiều
thành phố và làng mạc rải rác trên hai dãy núi Andes.
Người
Tây Ban Nha khai phá tân thế giới, ức hiếp dân chúng cách man rợ. Muốn cải hóa
bằng roi, họ bắt dân làm nô lệ và muốn khai hóa dân thì họ lại chỉ thông cho
dân những tật xấu của mình. Nhìn dân da đỏ say sưa liên lỉ, Turibiô không thể cầm
được nước mắt Ngài quở trách những người chinh phục vì những lạm dụng cướp bóc
của họ và tuyên cáo rằng: những cớ vấp phạm ấy phải dừng lại cho chân lý và
tình thương ngự trị.
Vị
mục tử đi tìm kiếm mọi con chiên của mình. Sa mạc nóng cháy, núi cao tuyết phủ,
thú rừng hung tợn, tất cả đều không làm Ngài nản chí, những người Tây ban Nha
quyền thế trở thành phó vương, rồi đến vua Philippe II, do những báo cáo sai lầm
đã trách cứ Ngài. Nhưng tất cả những lề luật nghiêm khắc đó đã không làm cho
Ngài tháo lui. Ngài biện hộ rằng : Chính Chúa Kitô chứ không phải thế gian sẽ
phán xét Ngài.
Turibiô
học ngôn ngữ dân Peru, Ngài dạy dỗ dân da đỏ như một người cha nhân từ. Lòng
bác ái nhân từ của Ngài đối với họ không có giới hạn. Khi Ngài tới một làng hẻo
lánh, dân chúng đổ xô đến với Ngài. Trước hết Ngài thăm hỏi những người đau yếu
và không chữa chạy cho họ được, Ngài dạy cho họ biết chết lành. Khi phân phát
tình yêu Chúa Kitô, Ngài cũng tái lập sự công bình. Dần dần các thành phố và cả
những nơi cô quạnh có người Kitô hữu cư ngụ đông đảo. Thánh Turibiô thiết lập
các chủng viện, các viện cứu tế.
Trong
hai mươi lăm năm, Ngài đi thăm viếng giáo phận rộng lớn và hoang dã của mình ba
lần, mỗi lần phải mất tới bảy năm. Ngài kiên trì ngồi tòa mỗi sáng. Người ta
nói rằng: khi cầu nguyện, Ngài tỏa chiếu từ khuôn mặt một tia sáng siêu nhiên.
Mệt nhọc đã là một việc sám hối rồi, Ngài còn hy sinh và ăn chay thêm nữa. Khi
có ôn dịch trong giáo phận, Ngài tăng gấp đôi lời cầu nguyện hãm mình, Ngài
cũng tổ chức nhiều cuộc rước, khi tham dự chính Ngài rơi lệ uớt cả thánh giá cầm
trong tay.
Trong
khi bất dầu cuộc kinh lý mớí, Ngài đã ngã bệnh tại Santa, Ngài chỉ biết lập lại
lời thánh Phaolô : "Tôi ao ước thoát khỏi những ràng buộc của thể xác để kết
hiệp với Chúa Giêsu Kitô".
Gần
chết Ngài xin những người chung quanh hát lời thánh vịnh : - Tôi vui mừng
khi nghe nói cùng tôi : chúng ta đi về nhà Thiên Chúa
Thế
là cái chết của Ngài được coi như một thánh lễ. Lời cuối cùng của Ngài là lời
chính chúa Kitô : - Lạy Chúa, con phó thác linh hồn con trong tay Chúa.
Ngài tự đi tới thánh đường Santa để lãnh các bí tích cuối cùng và kết hiệp với
Thánh Thể, Ngài qua đời năm 1606.
(daminhvn.net)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét